Nghiên cứu lịch sử hình thành và đấu tranh của lực lượng vũ trang nhân dân Hồ Chí Minh Biệt động Sài

Ngày 19-12-1967, Bộ trưởng Bộ Công an Trần Quốc Hoàn ký quyết định thành lập Phòng theo dõi tình hình chiến trường miền Nam nhằm nghiên cứu góp ý kiến kịp thời các biện pháp công tác, đấu tranh chống mọi hoạt động tình báo, gián điệp, phục vụ cho Tổng công kích, tổng khởi nghĩa đang đến gần…

Đầu tháng 1-1968, Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 14 Khóa III chỉ rõ: “Trong quá trình tổng công kích và tổng khởi nghĩa, chúng ta phải quán triệt nguyên tắc: Tập trung lực lượng quân sự và chính trị đến mức cao nhất, kiên quyết tiến công, liên tục tiến công nhằm vào những nơi xung yếu của địch mà đánh những đòn quyết định; phải tuyệt đối giữ cho được yếu tố bất ngờ; phải biết giành thắng lợi từng giờ, từng phút và không ngừng mở rộng thắng lợi; kiên quyết chống trả và bẻ gẫy các cuộc phản công của địch và truy kích địch đến cùng để giành thắng lợi cao nhất”(*).

Sài Gòn-Gia Định là khu vực trọng điểm được chia thành 6 phân khu, mỗi phân khu có khu ủy và Ban chỉ huy quân sự, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy Khu gồm các đồng chí Nguyễn Văn Linh - Phó Bí thư Trung ương Cục; Võ Văn Kiệt, Trần Văn Trà - Ủy viên Trung ương Cục. Đảng ủy Khu trọng điểm tổ chức ra 2 phân ban lãnh đạo 2 Bộ Tư lệnh Tiền phương: Bộ Tư lệnh Tiền phương Bắc và Tiền phương Nam.

Ngày 19-12-1967, Bộ trưởng Bộ Công an Trần Quốc Hoàn ký quyết định thành lập Phòng theo dõi tình hình chiến trường miền Nam nhằm nghiên cứu góp ý kiến kịp thời các biện pháp công tác, đấu tranh chống mọi hoạt động tình báo, gián điệp, phục vụ cho Tổng công kích, tổng khởi nghĩa đang đến gần. Ban An ninh Trung ương Cục miền Nam tăng cường đồng chí Ngô Quang Nghĩa, Đinh Văn Tùng, Tư Thông, Sáu Thành, Năm Trà xuống nhập với 6 mũi tiến công của 6 phân khu do đồng chí Ngô Quang Nghĩa làm trưởng đoàn và Ban An ninh các địa phương đều có sự điều chỉnh về tổ chức, và chỉ đạo tăng cường cán bộ cho chiến trường chính và an ninh khu trọng điểm.

Lực lượng an ninh khu trọng điểm được chia thành nhiều đội nhỏ, để khi đến giờ hành động nhanh chóng tiêu diệt bọn đầu sỏ. Ban lãnh đạo an ninh và 2 đơn vị vũ trang có nhiệm vụ theo sát để bảo vệ 2 Bộ chỉ huy tiền phương Bắc và Tiền phương Nam. Ban An ninh khu Sài Gòn - Gia Định với các mũi tiến công đánh vào những mục tiêu trọng yếu của địch ở Tổng Nha Cảnh sát và Nha Cảnh sát đô thành Sài Gòn.

Lực lượng trinh sát vũ trang cũng được tăng cường, biên chế thành hai đại đội làm nhiệm vụ diệt bọn đầu sỏ, cảnh sát, ác ôn trong cơ quan đầu não của địch, góp phần chiếm lĩnh các mục tiêu thuộc các cơ quan đàn áp, kìm kẹp của địch. Ban An ninh khu Sài Gòn - Gia Định rà soát lại các mạng lưới, cơ sở điệp báo, xây dựng được hàng trăm cơ sở mới, cơ sở tai mắt trong lòng địch, nên ta nắm tình hình địch sát với chiến trường.

Theo phương án đã định, Đoàn Đặc công biệt động F-100 được phân thành 3 cụm: Cụm phía Đông đánh vào các mục tiêu Dinh Độc Lập, Tòa Đại sứ Mỹ, Đài Phát thanh, Bộ Tư lệnh Hải quân ngụy; cụm phía Bắc đánh vào mục tiêu sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ Tổng tham mưu ngụy, Khám Chí Hòa; cụm phía Nam đánh vào các mục tiêu Nha Cảnh sát ngụy, Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ Đô.

Các đội biệt động thuộc các cụm nói trên đột nhập chiếm lĩnh mục tiêu “ém sẵn”, chờ các cánh quân của các phân khu tiến vào để đồng loạt triển khai làm chủ trên diện rộng. Đêm mồng Một Tết (30-1-1968), lực lượng an ninh Sài Gòn-Gia Định phối hợp chặt chẽ cùng các đội biệt động của ta đột nhập vào nội thành. Từ các trạm bí mật, các chiến sĩ đã dùng xe du lịch tiếp cận các mục tiêu. 2h sáng 31-1-1968, nghe pháo lệnh, các đội biệt động đồng loạt tiến công vào Sứ quán Mỹ, Dinh Độc Lập, Đài Phát thanh, Bộ Tổng tham mưu và Bộ Tư lệnh Hải quân...

Đội biệt động 11 gồm 17 đồng chí do Ngô Thành Vân (Ba Đen) chỉ huy, tiếp cận Sứ quán Mỹ ở đường Thống Nhất (số 9 Lê Duẩn ngày nay). Anh em nổ súng diệt 2 tên lính Mỹ gác cổng, dùng thuốc nổ phá một mảng tường, tiến vào bên trong. 20 phút sau, bọn Mỹ đến ứng cứu giải tỏa bị ta chặn đánh quyết liệt ngay ngoài cổng chính.

Đến sáng, 1 trung đội lính Mỹ mới vào được bên trong, ta và địch quần nhau quyết liệt trong khuôn viên Sứ quán Mỹ. Ta đánh chiếm tầng 1, tiến lên tầng 2, tầng 3. Trước sức chiến đấu ngoan cường của các chiến sĩ, bọn Mỹ phải dùng trực thăng đổ quân từ trên nóc nhà để tiếp viện. Trời sáng, do anh em ta không được chi viện nên trận đánh kết thúc, 16 chiến sĩ của ta anh dũng hy sinh. Đồng chí Đội trưởng bị thương nặng và bị địch bắt.

Lực lượng tấn công Đài Phát thanh Sài Gòn gồm 12 chiến sĩ Đội biệt động số 4, do đồng chí Nguyễn Văn Tăng, cụm trưởng cụm 3-4-5 phụ trách chung, đồng chí Năm Lộc chỉ huy. Các chiến sĩ ta đã tấn công bất ngờ làm ngưng trệ phát thanh từ 2h đến 5h sáng, nhưng địch được tiếp viện phản kích trở lại. Đội biệt động số 5 gồm 15 chiến sĩ do đồng chí Ngô Hoài Thanh chỉ huy tiến vào Dinh Độc Lập, tấn công vào cổng dinh phía đường Nguyễn Du, diệt bọn lính gác, nhưng không triển khai được trước sức chống trả quyết liệt của bọn phòng vệ. Địch điều xe thiết giáp đến ứng cứu, buộc ta phải rút lui.

Ở các mục tiêu khác, các đội biệt động cùng với lực lượng an ninh đều tiến chiếm và giữ được đến sáng, nhưng các tiểu đoàn mũi nhọn của các phân khu không tiếp ứng được kịp thời. Các chiến sĩ biệt động đã anh dũng chiến đấu đến giờ phút chót, nêu cao khí phách anh hùng của biệt động Sài Gòn trong giờ phút lịch sử của Tết Mậu Thân 1968.

Trên các mũi tiến công khác của ta, cuộc chiến đấu đã diễn ra phức tạp ngay từ đầu. Ở Bộ Tổng tham mưu ngụy, quân ta đánh vào cổng số 4, chiếm Trường Sinh ngữ quân đội và kho đạn, chặn viện binh đến cứu nguy cho căn cứ Gò Vấp; ở sân bay Tân Sơn Nhất, ta bắn phá sân bay và đánh vào phía Tây; trong tác chiến hợp đồng các mũi tiến quân khác nổ súng tấn công trại Cổ Loa, căn cứ Phù Đổng, tiến về Bình Hòa, áp sát Tòa hành chánh và Bộ chỉ huy Tiểu khu Gia Định.

Một cánh đánh đến Hàng Xanh, Cầu Sơn, làm chủ cù lao Bình Quới Tây và quần nhau với địch suốt 3 ngày tại đây. Một số đơn vị tiến sâu vào đường Sư Vạn Hạnh, Bệnh viện Nhi đồng, Vườn Lài, chợ Thiếc, cư xá Hỏa Xa...

Từ phía Nam, các đồng chí lãnh đạo Bộ Tư lệnh Tiền phương II vào đến chợ Thiếc (Q11), nhưng bị địch phát hiện. Lực lượng an ninh vũ trang phải chia lực lượng, 12 chiến sĩ chốt chặn tại chợ Thiếc để bảo vệ Bộ Tư lệnh rút ra khỏi khu vực nguy hiểm. Suốt 5 ngày chiến đấu liên tục, ta diệt tại chỗ 50 tên địch, bắn cháy 10 xe trong đó có 5 xe bọc thép, bẻ gãy các cuộc tiến công của địch.

Do địch chi viện mạnh, ta hy sinh 10 người, còn 2 người phải lui về phòng ngự ở nghĩa địa Phú Thọ Hòa. Địch tiếp tục phản kích, ta diệt thêm 70 tên địch, bắn cháy 7 xe cơ giới. Hai đội an ninh vũ trang, đội 1 có 15 đồng chí và một số bộ phận của Bộ Tư lệnh Tiền phương II, ngày 4-2-1968 vào đến đường Hậu Giang thì gặp địch, chiến đấu quyết liệt diệt 37 tên cảnh sát, trong đó có tên Phó Ty cảnh sát quận 6, sau đó chuyển về Phú Hữu chống càn diệt 37 tên, làm bị thương nhiều tên khác.

Ngày 5-2-1968, đơn vị I - An ninh vũ trang khu trọng điểm theo sát Bộ Tư lệnh Tiền phương I, bí mật cơ động qua nhiều đồn bốt địch, phối hợp với các lực lượng biệt động diệt 25 tên cảnh sát mật vụ ác ôn, sau đó phối hợp với Tiểu đoàn 10 chống càn quét, diệt 1 đại đội địch, bắn cháy 8 xe M113, bắn rơi 2 trực thăng. Ngày 28-2-1968, trên đường rút về căn cứ Mỹ Hạnh Đức Hòa, Long An, Đội An ninh vũ trang huyện Bình Chánh Phân khu II phối hợp với bộ đội địa phương bắn B-40 và gài lựu đạn vào xe địch, tiêu diệt 13 tên ngụy và một số tên Mỹ...

Từ ngày 10-2-1968, lực lượng an ninh cùng các đơn vị vũ trang của ta lần lượt rút về căn cứ xuất phát; lực lượng vũ trang địa phương vẫn bám trụ kiên cường đánh địch ở các vùng Phú Lâm, Phú Thọ, Minh Phụng, Minh Mạng, Vườn Lài...

Cuộc Tổng tiến công chiến lược Tết Mậu Thân đã làm cho địch bị bất ngờ cả về chiến lược, chiến thuật và mục tiêu, thời điểm tiến công. Thời gian tiến công được chọn đúng giữa đêm giao thừa Tết Nguyên đán là một thời điểm mà địch không ngờ tới. Đây thật quả là một sự chỉ đạo và quyết tâm chiến lược chính xác, sáng tạo, táo bạo. Đòn tiến công Mậu Thân 1968 đã gây kinh hoàng cho cả nước Mỹ.

Trên hầu hết các bang nước Mỹ rộ lên những cuộc biểu tình chống chiến tranh, đặc biệt là của giới sinh viên, học sinh. Nhiều người trong chính giới Mỹ đòi xét lại chính sách của Mỹ đối với cuộc chiến này. Ngày 31-3-1968, Johnson thông báo quyết định đơn phương ngừng ném bom miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra, nhận sẵn sàng ngồi vào bàn đàm phán với ta tại Hội nghị Paris và tuyên bố không ra tranh cử Tổng thống nhiệm kỳ hai. Có thể coi đó là sự thừa nhận công khai sự phá sản của chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ. Và rõ ràng là ý chí xâm lược của giới cầm quyền Mỹ đã bị lung lay.

50 năm đã trôi qua, với niềm tự hào chính đáng thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, đó là bài học lịch sử của một quá trình đánh giá đúng tình hình, có tầm nhìn chiến lược, kiên định mục tiêu cơ bản và lâu dài của dân tộc, của cách mạng mới có thể phân tích đúng tình hình, tạo ra thời cơ và nắm bắt thời cơ, tổ chức sử dụng lực lượng vũ trang nhân dân cùng bộ đội chủ lực bí mật bất ngờ Tổng công kích, tổng tiến công đồng loạt giành thắng lợi, tạo bước ngoặt quan trọng đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đến thắng lợi hoàn toàn, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước vào mùa xuân 1975.

(*) Tìm hiểu lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam qua các đại hội và Hội nghị Trung ương 1930-2002. Nxb Lao động. tr.586. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 14 (tháng 1 năm 1968).

Đại tá, PGS, TS KHQS Trần Nam Chuân

Trong thời kỳ chiến tranh giải phóng (1945-1975), Sài Gòn là thủ đô của chính phủ ngụy quyền, nơi cả thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đều đặt “tổng hành dinh”, với chế độ bảo vệ đặc biệt nghiêm ngặt.

Công tác đấu tranh vũ trang ở nội thành Sài Gòn, vì thế, không thể sử dụng một lực lượng vũ trang thông thường như ở các chiến trường khác, mà đòi hỏi một lực lượng được tổ chức tinh gọn, có chất lượng chiến đấu cao, nghệ thuật chỉ huy và thực hành tác chiến tài trí, dũng cảm, có hệ thống tổ chức ém giấu lực lượng và cung cấp hậu cần, kỹ thuật công phu.

Ðã từng có một lực lượng như thế ở Sài Gòn với tên gọi: Biệt động Sài Gòn.

Một lực lượng quân đội đặc biệt

Lực lượng biệt động Sài Gòn ra đời trên cơ sở các đội tự vệ chiến đấu, được thành lập ngay sau ngày Nam Bộ kháng chiến 23/9/1945.

Ngay sau khi Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ ra lời kêu gọi toàn dân đứng lên cứu nước vào sáng 23/9, guồng máy kháng chiến ở Sài Gòn lập tức được khởi động. Tất thảy tầng lớp nhân dân, từ thanh niên, công nhân, học sinh, nhân sĩ, tu sĩ đến kẻ bụi đời, “anh chị”… đều hăm hở tham gia lực lượng vũ trang chống Pháp.

Cùng với sự ra đời của các đơn vị vũ trang ở ngoại thành, các đơn vị vũ trang đặc biệt được thành lập, như: Ban trinh sát, Ban hành động, Ðội cảm tử, Ðội phá hoại, Ðội trừ gian, Ðội ám sát… Họ vừa làm nhiệm vụ tác chiến tiêu diệt địch, vừa làm trinh sát, liên lạc, phát động quần chúng, gây dựng cơ sở. Mỗi người đều có nghề nghiệp ổn định để có điều kiện sinh sống và dễ bề che mắt địch.

Năm 1947, các ban, đội nêu trên phát triển thành từng ban công tác Thành. Mỗi ban công tác Thành được tổ chức theo hệ thống ngăn cắt (gồm ban-liên tổ-tổ độc lập), có mạng lưới quần chúng ngoại vi hậu thuẫn về mọi mặt, phân chia phạm vi hoạt động trên từng vùng của thành phố và cơ động theo đối tượng nhiệm vụ được giao.

Cuối năm 1949, các ban công tác Thành hợp nhất tổ chức thành Tiểu đoàn quyết tử 950; năm 1951, giải thể Tiểu đoàn quyết tử 950 để tổ chức thành ba đại đội quyết tử ở nội đô (3721, 3824, 3927), một đội đặc công hoạt động trong nội đô; ba đại đội biệt động (2763, 2766, 2300) và hai đội đặc công binh chủng, bố trí trên ba hướng ngoại ô thành phố.

Nghiên cứu lịch sử hình thành và đấu tranh của lực lượng vũ trang nhân dân Hồ Chí Minh Biệt động Sài
Anh hùng Nguyễn Văn Trỗi, sinh ngày 1/2/1940 tại làng Thanh Quýt, nay là xã Điện Thắng Trung, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Giữa năm 1963, anh trở thành một chiến sỹ biệt động Sài Gòn, thuộc Đại đội Quyết tử 65. Anh bị địch bắt khi đang làm nhiệm vụ đặt mìn tại cầu Công Lý (nay là cầu Nguyễn Văn Trỗi, TP Hồ Chí Minh), nơi dự đoán Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ Mc Namara cùng phái đoàn Mỹ từ sân bay Tân Sơn Nhất về trung tâm Sài Gòn sẽ đi qua. Trong ảnh: Những phút cuối cùng oanh liệt của Anh hùng Nguyễn Văn Trỗi tại pháp trường Khám Chí Hòa. (Ảnh Tư liệu/TTXVN phát)

Những dấu ấn lịch sử về một tổ chức vũ trang đặc biệt

Trong suốt cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, các đơn vị nêu trên tồn tại và chiến đấu như một lực lượng vũ trang chủ yếu trong nội thành Sài Gòn-Chợ Lớn. Hoạt động của họ tập trung vào nhiệm vụ xây dựng cơ sở, diệt ác trừ gian, tập kích các công sở, đồn bốt địch, đã góp phần thúc đẩy phong trào đấu tranh chính trị diễn ra sôi động và liên tục, làm rung động hệ thống quân viễn chinh thực dân và bè lũ tay sai ngay tại sào huyệt của chúng.

Các trận đánh diệt bọn ác ôn phản động như: trùm mật thám Bazin, chủ bút báo Phục Hưng Hiền Sĩ, các vụ tiến công kho đạn Thị Nghè, sân bay Tân Sơn Nhất, kho bom Phú Thọ Hòa; các trận đánh thủy lôi trên sông Lòng Tàu, Rừng Sác cùng những tấm gương hy sinh anh dũng như: Nguyễn Ðình Chính, Lan Mê Linh… đã tạo nên những dấu ấn lịch sử về một tổ chức vũ trang đặc biệt hoạt động trong đô thị, sào huyệt của kẻ thù.

Bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, các lực lượng chính trị nội thành được xây dựng lại, tổ chức thành các cánh (theo từng khu vực địa phương và các khối). Từ đó, tổ chức vũ trang gồm các tổ tự vệ và đội biệt động được tái thành lập.

Sau Hiệp định Geneve năm 1954, các đơn vị vũ trang cách mạng Sài Gòn-Chợ Lớn tập kết ra miền Bắc. Số cán bộ, chiến sĩ công tác Thành được phân công ở lại chuyển sang mặt trận đấu tranh chính trị; một thời gian sau, một số bị bắt, tù đày, bị hy sinh, số còn lại chuyển vùng ẩn giấu tung tích, hoặc ra bưng biền lập căn cứ gây dựng lại các nhóm vũ trang.

Từ năm 1961, Bộ chỉ huy Quân khu Sài Gòn-Gia Ðịnh và các đơn vị vũ trang cách mạng được tái lập, trên cơ sở tiếp nhận số cán bộ tập kết trở về cùng số cán bộ ở lại; lực lượng mới ra đời trước và trong phong trào Ðồng khởi. Trong nội đô Sài Gòn, các ngành, các cánh công tác phong trào chính trị (thanh niên, học sinh, Hoa vận, Phụ vận, Binh vận, Tuyên huấn… ) tổ chức các tổ, liên tổ tự vệ mật, đồng thời rút một số thanh niên ra căn cứ bàn đạp huấn luyện thành chiến đấu viên, cán bộ quân sự nội thành.

Vừa xây dựng, lực lượng biệt động Sài Gòn vừa tổ chức hàng loạt trận tập kích, gây tiếng vang lớn. Từ năm 1963 đến 1967, là thời kỳ hoạt động vang dội nhất của Biệt động Sài Gòn.

Từ đó, sáu đội biệt động Thành (159, 65, 66, 67, 68, 69) của Quân khu Sài Gòn-Gia Ðịnh ra đời và hoạt động. Các đội biệt động tổ chức thành hai lực lượng: lực lượng trực tiếp chiến đấu (gồm các tổ, nhóm hoạt động độc lập, hoặc có phối hợp trong tác chiến); lực lượng công tác bảo đảm (gồm những cán bộ và gia đình cơ sở trung kiên từ nội thành ra vùng ven và các tỉnh, cả ở nước ngoài, bố trí thành nhiều tuyến, với một hệ thống hành lang, với các điểm nút, bàn đạp, căn cứ. Hoạt động trên hệ thống hành lang này là đội ngũ giao liên công khai, bán công khai và bí mật làm nhiệm vụ chuyển tin, đưa đón bảo vệ cán bộ, vận chuyển vũ khí, tài chính…).

Vừa xây dựng, lực lượng biệt động Sài Gòn vừa tổ chức hàng loạt trận tập kích, gây tiếng vang lớn. Từ năm 1963 đến 1967, là thời kỳ hoạt động vang dội nhất của Biệt động Sài Gòn. Trong cuộc Tổng tiến công Xuân Mậu Thân, lực lượng biệt động được giao nhiệm vụ đồng loạt đánh chiếm các mục tiêu quan trọng trong thành phố. Cuộc tập kích được triển khai đồng loạt vào lúc hai giờ sáng ngày mồng 2 Tết Nguyên đán.

Các đội biệt động số 3, 4, 5, 6, 7, 9, 11 tiến công Dinh Ðộc Lập, Tòa Ðại sứ quán Mỹ, căn cứ Bộ Tổng tham mưu ngụy, sân bay Tân Sơn Nhất, Ðài phát thanh Sài Gòn, căn cứ Bộ Tư lệnh Hải quân ngụy. Cuộc chiến đấu diễn ra hết sức quyết liệt. Tuy nhiên, lực lượng hỗ trợ thanh niên, sinh viên Sài Gòn và các tiểu đoàn mũi nhọn đã không có mặt để tiếp ứng kịp thời theo kế hoạch.

Các đơn vị biệt động sau khi tập kích, đột nhập vào bên trong các mục tiêu, đã đơn thương độc mã chiến đấu cho đến khi hy sinh, hoặc bị địch bắt gần hết. Chỉ một số rất ít thoát trở về căn cứ. Sau ngày Hiệp định Pari được ký kết, các lực lượng biệt động và đặc công ở Sài Gòn-Gia Ðịnh được tổ chức lại, thành Lữ đoàn Ðặc công-Biệt động 316.

Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh tháng 4/1975, Lữ đoàn đã phối hợp các đơn vị đặc công của Miền, cùng lực lượng vũ trang địa phương mở các hành lang nông thôn dẫn vào thành phố; khống chế và chiếm một số mục tiêu quan trọng được phân công; đánh, chiếm giữ các cầu quan trọng trên các trục lộ giao thông chính vào nội thành Sài Gòn, hướng dẫn các binh đoàn chủ lực cơ động đánh chiếm các mục tiêu trong thành phố; tham gia giữ gìn an ninh trật tự và bảo vệ các tổ chức chính quyền mới được thành lập ở cơ sở.

Nghiên cứu lịch sử hình thành và đấu tranh của lực lượng vũ trang nhân dân Hồ Chí Minh Biệt động Sài
Nữ chiến sĩ biệt động Sài Gòn dẫn đường cho xe tăng quân giải phóng trên đường Trương Minh Giảng tiến đánh sân bay Tân Sơn Nhất. (Ảnh: Hoàng Thiểm/TTXVN)

Những con người mưu trí quả cảm

Tồn tại và hoạt động trong lòng quần chúng ở nội đô, với phương châm lợi dụng sơ hở của địch, lấy ít đánh nhiều, tập kích nhanh rút gọn, với lối đánh độc đáo biến hóa, bí mật bất ngờ, luồn sâu đánh hiểm, hành động mưu trí quả cảm, xuất quỷ nhập thần, lực lượng biệt động đã chiến đấu có hiệu quả ngay giữa trung tâm đầu não Sài Gòn, trở thành nỗi kinh hoàng của Mỹ-ngụy trong suốt cuộc chiến tranh.

Hoạt động của họ đã góp phần tiêu diệt một bộ phận sinh lực cao cấp của địch, phá hoại nhiều cơ sở vật chất, phương tiện chiến tranh của chúng; phá vỡ âm mưu, hạ uy thế và gây hoang mang cho quân địch ngay ở cơ quan chóp bu; kích thích tinh thần của quần chúng, hỗ trợ đắc lực cho phong trào đấu tranh chính trị ở nội đô, tạo điều kiện cho quần chúng ven đô đấu tranh với địch; phối hợp các chiến trường trên toàn miền Nam.

Lực lượng biệt động đã chiến đấu có hiệu quả ngay giữa trung tâm đầu não Sài Gòn, trở thành nỗi kinh hoàng của Mỹ-ngụy trong suốt cuộc chiến tranh.

Lịch sử biệt động Sài Gòn gắn liền những chiến công mà ý nghĩa vượt khỏi phạm vi một trận đánh thông thường ở các mục tiêu: rạp chiếu bóng Kinh Ðô, tàu Card, cầu Công Lý, khách sạn Brink, khách sạn Caravell, khách sạn Metropole, cảng Sài Gòn, sân bay Tân Sơn Nhất, dinh Ðộc Lập, Ðại sứ quán Mỹ, dinh thự Bộ Tổng tham mưu ngụy… gắn liền những tên tuổi mà cuộc đời và chiến công của họ đã đi vào huyền thoại, như Phạm Văn Hai, Nguyễn Văn Trỗi, Nguyễn Văn Tăng, Trần Văn Ðang, Trần Phú Cương, Lâm Sơn Náo, Nguyễn Thanh Xuân, Lê Văn Việt, Ðỗ Tấn Phong, Ðoàn Thị Ánh Tuyết, Nguyễn Thị Thu Trang…

Do đặc điểm hoạt động đơn tuyến ở địa bàn sào huyệt của kẻ thù, không ít chiến sĩ biệt động ngày nào chưa được minh định công trạng và tặng thưởng xứng đáng. Dù vậy, những chiến công của họ đã âm thầm lát những viên gạch nhỏ trên chặng đường lịch sử của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng.

Sau 42 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, những chiến sĩ biệt động người còn, người mất. Nhưng chắc chắn hình ảnh hào hùng của họ một thời xông pha trận mạc, chấp nhận hy sinh gian khổ để đất nước được độc lập, tự do sẽ còn sống mãi trong lòng nhân dân Việt Nam./.

Nghiên cứu lịch sử hình thành và đấu tranh của lực lượng vũ trang nhân dân Hồ Chí Minh Biệt động Sài
Tối 21/3/2012, Nhà xuất bản Tổng hợp TP.HCM tổ chức chương trình giao lưu“ Nữ biệt động Sài Gòn” nhân dịp xuất bản cuốn sách “Những thiên thần đường phố” (viết về nữ biệt động Sài Gòn) của tác giả Mã Thiên Đồng. Trong ảnh: Các nữ biệt động Sài Gòn giao lưu với độc giả. (Ảnh: Phương Vy-TTXVN)