Lom khom dưới núi tiều vài chú Lác đác bên sông chợ mấy nhà tìm từ tượng hình

Tìm và phân tích tác dụng của các từ tượng hình, từ tượng thanh của các câu ca dao sau: Lom khom dưới núi tiều vài chú Lác đác bên sông chợ mấy nhà Nhớ nước đau lòng con quốc quốc Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.

Bài thơ Qua Đèo Ngang được ra đời khi nhà thơ có việc đi qua Đèo Ngang. Trước cảnh đẹp hoang vu của chốn thiên nhiên nhà thơ đã sáng tác ra bài thơ này. Hai câu thơ mang lại giá trị biểu cảm trong toàn bộ bài thơ.

Nhà thơ đã vẽ nên cảnh vài chú tiều đang nhặt củi dưới chân núi và mấy nhà chợ vắng vẻ bên sông nhưng bằng nghệ thuật đảo ngữ đặc sắc, tác giả đã tạo nên hai câu thơ đầy sức gợi. Theo cách diễn đạt thông thường, hai câu thơ trên được viết là: Vài chú tiều lom khom dưới núi [hoặc: Vài chú tiều dưới núi lom khom], Mấy nhà chợ lác đác bên sông [hoặc: Mấy nhà chợ bên sông lác đác]. Nhưng viết như vậy không tạo được ấn tượng bằng cách diễn đạt mà Bà Huyện Thanh Quan đã chọn. “Lom khom” là từ tượng hình gợi tư thế cúi người nhưng luôn luôn nhấp nhô chuyển động. Đó là động tác cúi nhặt củi của người tiều phu. Nó gợi lên hình ảnh đời sống lam lũ, vất vả suốt đời “bán mặt cho đất bán lưng cho trời” của người lao động.

Từ “lác đác” cũng có sức gợi tinh tế như thế. Nó chỉ sự vắng vẻ, thưa thớt, bé nhỏ, thậm chí tiêu điều hoang vắng mà ở đây là mấy nhà chợ. Mà như ta biết, chợ búa là nơi thể hiện đời sống kinh tế của khu dân cư, chợ vắng vẻ nghĩa là nơi ấy nghèo đói, lam lũ lắm. Điều đặc biệt là hai từ tượng hình độc đáo ấy được đảo lên đầu câu thơ đã nhấn mạnh vào sự vất vả, lam lũ, đói nghèo của người dân vùng Đèo Ngang. Chẳng những thế, các từ chỉ lượng rất ít ỏi: “vài”, “mấy” nó nhắc đến sự vắng vẻ, tiêu điều của sự sống. Đã vậy, các từ chỉ lượng ấy bị tách riêng ra khỏi danh từ để các sự vật “tiều”, “chợ” đứng một mình chơ vơ giữa câu thơ càng tô đậm sự heo hút, vắng lặng của con người.

Chỉ với hai câu thơ ngắn ngủi tác giả đã vẽ lên cuộc sống nghèo nàn sơ xác nơi chốn thiên nhiên hoang vu này. Đó là cái tài hiếm có của nữ thi sĩ này. Qua hai câu thơ tác giả cũng bộc lộ sự thương cảm cho những con người đang phải chịu đựng cảnh sống khó khăn, gian khổm, nhất là với các em nhỏ.

Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây

Dưới đây là một vài câu hỏi có thể liên quan tới câu hỏi mà bạn gửi lên. Có thể trong đó có câu trả lời mà bạn cần!

Phân tích hiệu quả diễn đạt của trật tự từ trong những câu in đậm dưới đây:

a] Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà,

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.

Lom khom dưới núi, tiều vài chú,

Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.

Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc.

Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia.

Dừng chân đứng lại trời, non, nước,

Một mảnh tình riêng ta với ta.

[Bà Huyện Thanh Quan, Qua Đèo Ngang]

b]  Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều

Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo

Núi không đè nổi vai vươn tới

Lá nguỵ trang reo với gió đèo…

[Tố Hữu, Ta đi tới]

Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây

Dưới đây là một vài câu hỏi có thể liên quan tới câu hỏi mà bạn gửi lên. Có thể trong đó có câu trả lời mà bạn cần!

45 điểm

Trần Tiến

Xác định từ tượng hình, từ tượng thanh và phân tích nghệ thuật sử dụng từ tượng hình, từ tượng thanh trong bài thơ “Qua Đèo Ngang” của tỏc giả Bà Huyện Thanh Quan. “Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà, Cỏ cây chen đá, lá chen hoa. Lom khom dưới núi, tiều vài chú, Lác đác bên sông, chợ mấy nhà. Nhớ nước đau lũng, con quốc quốc, Thương nhà mỏi miệng, cỏi gia gia. Dừng chân đứng lại, trời non nước, Một mảnh tỡnh riờng, ta với t

a.” [ Bà Huyện Thanh Quan, Qua Đèo Ngang]

Tổng hợp câu trả lời [1]

Từ tượng hình: om khom, lác đác [Tả dáng người, cảnh vật khi hoàng hôn xuống [1,5điểm] Từ tượng thanh: quốc quốc, gia gia [gợi tiếng chim kêu thể hiện nỗi nhớ nước thương nhà của nhân vật trữ tình [1,5điểm] Cách biểu hiện thời gian độc đáo của Bà Huyện Thanh Quan

Tham khảo giải bài tập hay nhất

Loạt bài Lớp 8 hay nhất

xem thêm

Những câu hỏi liên quan

Việc sử dụng từ láy trong 2 câu thơ sau có tác dụng biểu đạt chính như thế nào?

“Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà”

A. Tô đậm hình ảnh con người nhỏ bé giữa không gian bao la ở chốn Đèo Ngang.

B. Tô đậm tính chất thưa thớt, tiêu điều của cảnh sinh hoạt ở Đèo Ngang.

C. Gợi tả một không gian vũ trụ rộng lớn đối lập với con người nhỏ bé, cô đơn.

D. Gợi tả hình ảnh con người nhỏ nhoi, sự sống thưa thớt qua đó tô đậm khung cảnh đèo Ngang heo hút, hoang sơ.

Câu thơ: "Lom khom dưới núi tiều vài chú - Lác đác bên sông chợ mấy nhà" [Bà Huyện Thanh Quan] sử dụng phép tu từ cú pháp nào?

A. Phép đối và sử dụng các từ láy gợi hình

B. Phép lặp cú pháp và đảo trật tự cú pháp

C. Phép lặp cú pháp và sử dụng các từ láy gợi hình

D. Phép lặp cú pháp và phép liệt kê

Các câu hỏi tương tự

Phân tích hiệu quả diễn đạt của trật tự từ trong những câu in đậm dưới đây:

a] Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà,

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.

Lom khom dưới núi, tiều vài chú,

Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.

Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc.

Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia.

Dừng chân đứng lại trời, non, nước,

Một mảnh tình riêng ta với ta.

[Bà Huyện Thanh Quan, Qua Đèo Ngang]

b]  Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều

Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo

Núi không đè nổi vai vươn tới

Lá nguỵ trang reo với gió đèo…

[Tố Hữu, Ta đi tới]

Câu 1: Lập bảng thống kê nhân vật và hành động đi kèm ở đoạn văn dưới

Câu 2: Kể tên các biện pháp so sánh, nhân hóa 

Câu 3 : So sánh cảnh chợ tết ở trong bài thơ với cảnh chợ tết ngày nay khác nhau chỗ nào 
 

Dải mây trắng đỏ dần trên đỉnh núi,Sương hồng lam ôm ấp nóc nhà tranh,Trên con đường viền trắng mép đồi xanh,Người các ấp tưng bừng ra chợ Tết.Họ vui vẻ kéo hàng trên cỏ biếc;Những thằng cu áo đỏ chạy lon xon,Vài cụ già chống gậy bước lom khom,Cô yếm thắm che môi cười lặng lẽ.Thằng em bé nép đầu bên yếm mẹ,Hai người thôn gánh lợn chạy đi đầu,Con bò vàng ngộ nghĩnh đuổi theo sau.Sương trắng rỏ đầu cành như giọt sữa,Tia nắng tía nháy hoài trong ruộng lúa,Núi uốn mình trong chiếc áo the xanh,Đồi thoa son nằm dưới ánh bình minh.Người mua bán ra vào đầy cổng chợ.Con trâu đứng vờ rim hai mắt ngủ,Để lắng nghe người khách nói bô bô.Anh hàng tranh kĩu kịt quẩy đôi bồ,Tìm đến chỗ đông người ngồi giở bán.Một thầy khoá gò lưng trên cánh phản,Tay mài nghiên hí hoáy viết thơ xuân.Cụ đồ nho dừng lại vuốt râu cằm,Miệng nhẩm đọc vài hàng câu đối đỏ.Bà cụ lão bán hàng bên miếu cổ,Nước thời gian gội tóc trắng phau phau.Chú hoa man đầu chít chiếc khăn nâu,Ngồi xếp lại đống vàng trên mặt chiếu.Áo cụ lý bị người chen sấn kéo,Khăn trên đầu đang chít cũng bung ra.Lũ trẻ con mải ngắm bức tranh gà,Quên cả chị bên đường đang đứng gọi.Mấy cô gái ôm nhau cười rũ rượi,Cạnh anh chàng bán pháo dưới cây đa.Những mẹt cam đỏ chót tựa son pha.Thúng gạo nếp đong đầy như núi tuyết,Con gà trống mào thâm như cục tiết,Một người mua cầm cẳng dốc lên xem.Chợ tưng bừng như thế đến gần đêm,Khi chuông tối bên chùa văng vẳng đánh,Trên con đường đi các làng hẻo lánh,Những người quê lũ lượt trở ra về.Ánh dương vàng trên cỏ kéo lê thê,

Lá đa rụng tơi bời quanh quán chợ.

                          [ Bài '' Chợ Tết ''' của Đoàn Văn Cừ ]
 

Phân tích cách trình bày ý trong các đoạn trích sau.

a] Tôi vội ra khoang trước nhìn. Xa xa từ vệt rừng đen, chim cất cánh tua tủa bay lên, giống hệt đàn kiến từ lòng đất chui ra, bò li ti đen ngòm lên da trời. Càng đến gần, những đàn chim đen bay kín trời, cuốn theo sau những luồng gió vút làm tôi rối lên, hoa cả mắt. Mỗi lúc, tôi càng nghe rõ tiếng chim kêu náo động như tiếng xóc những rổ tiền đồng. Chim đậu chen nhau trắng xóa trên những đầu cây mắm, cây chà là, cây vẹt rụng trụi gần hết lá. Cồng cộc đứng trong tổ vươn cánh như tượng những người vũ nữ bằng đồng đen đang vươn tay múa. Chim già đẫy, đầu hói như những ông thầy tu mặc áo xám, trầm tư rụt cổ nhìn xuống chân. Nhiều con chim rất lạ to như con ngỗng đậu đến quằn nhánh cây. Chim tập trung về đây nhiều không thể nói được. Chúng đậu và làm tổ thấp lắm, đứng dưới gốc cây có thể thò tay lên tổ nhặt trứng một cách dễ dàng. Xa xa thấp thoáng có người quảy giỏ, cầm sáo trúc để bắt chim, coi bộ dễ hơn bắt gà trong chuồng. Tiếng chim kêu vang động bên tai, nói chuyện không nghe nhau được nữa. Thuyền chúng tôi tiếp tục chèo, đi tới ba nghìn thước rồi mà vẫn thấy chim đậu trắng xóa trên những cành cây gie sát ra sông. [Theo Đoàn Giỏi, Đất rừng phương Nam ] b] Vẻ đẹp của Ba Vì biến ảo lạ lùng từng mùa trong năm, từng giờ trong ngày. Thời tiết thanh tịnh, trời trong trẻo, ngồi phóng tầm mắt qua những thung lũng xanh biếc, Ba Vì hiện lên như hòn ngọc bích. Về chiều, sương mù tỏa biếc, Ba Vì nổi bồng bềnh như vị thần bất tử ngự trên sóng. Những đám mây nhuộm màu biến hóa muôn hình, nghìn dạng tựa như nhà ảo thuật có phép tạo ra một chân trời rực rỡ. Khi vầng sáng nan quạt khép lại dần, trăng vàng mịn như một nốt nhạc bay lên bầu trời, ru ngủ muôn đời thần thoại. [Võ Văn Trực, Vời vợi Ba Vì] c] Lịch sử thường sẵn những trang đau thương, mà hiếm những trang vui vẻ: bậc anh hùng hay gặp bước gian nguy, kẻ trung nghĩa thường lâm cảnh khốn đốn. Những khi ấy, trí tưởng tượng dân chúng tìm cách chữa lại sự thật, để khỏi phải công nhận những tình thế đáng ưu uất. Ta thử lấy truyện Hai Bà Trưng mà xét. Tuy trong lịch sử có chép rõ ràng Hai Bà phải tự vẫn sau khi đã thất trận, nhưng ngay ở làng Đồng Nhân nơi thờ Hai Bà vẫn chép rằng Hai Bà đều hóa đi, chứ không phải tử trận. Đối với các nữ tướng của Hai Bà cũng vậy, ta chỉ thấy các vị anh hùng đó hóa lên trời.

Nghe truyện Phù Đổng Thiên Vương, tôi thường tưởng tượng đến một trang nam nhi, sức vóc khác người, với tâm hồn chất phác và giản dị, như tâm hồn người thuở xưa. Tráng sĩ ấy gặp lúc nước nhà lâm nguy đã xông pha ra trận, đem sức khỏe mà đánh tan giặc, nhưng bị thương nặng. Tuy thế người trai làng Phù Đổng vẫn còn ăn một bữa cơm [chỗ ấy nay lập đền thờ ở làng Xuân Tảo] rồi nhảy xuống Hồ Tây tắm, xong mới ôm vết thương lên ngựa đi tìm một rừng cây âm u nào, ngồi dựa một gốc cây to, giấu kín nỗi đau đớn của mình mà chết. [Nguyễn Đình Thi, Sức sống của dân Việt Nam trong ca dao và cổ tích]

[Gợi ý : Trước hết tìm các từ ngữ hoặc câu văn thể hiện chủ đề, sau đó phân tích cách triển khai chủ đề ấy trong đoạn trích.]

Video liên quan

Chủ Đề