Nhà nước văn lang ra đời khoảng thời gian nào

Lịch sử ra đời và phát triển của nhà nước Văn Lang là cội nguồn, tiền đề cho sự hình thành quốc gia Việt Nam sau này. Nhà nước gắn liền với niềm tự hào, thành tựu cùng biết bao nét văn hóa đặc sắc của người Việt. Cho đến ngày nay, những di sản do nhà nước Văn Lang để lại vẫn mang nhiều ý nghĩa với dân tộc. Vậy nhà nước Văn Lang ra đời cách đây bao nhiêu năm và thời kỳ này có gì đặc biệt? Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu qua bài viết sau!

Những điều có thể bạn chưa biết về nhà nước Văn Lang

Lịch sử ra đời nhà nước Văn Lang

Xã hội từ thời Đông Sơn có sự phân biệt về mức độ giàu nghèo. Sau đó các công xã thị tộc tan rã và các gia đình nhỏ theo chế độ phụ hệ lần lượt ra đời. Nền kinh tế – xã hội lúc bây giờ chủ yếu tập trung vào các hoạt động tự cung, tự cấp, xoay quanh lĩnh vực nông nghiệp. Dần dần, hàng loạt kẻ thù xung quanh lăm le xâm chiếm, họ đã đặt ra vấn đề phải có nhà nước để cùng nhau đoàn kết đánh giặc. Đây chính là yếu tố dẫn đến sự ra đời của nhà nước Văn Lang Âu Lạc.

Nhà nước Văn Lang ra đời từ khi nào?

Nước văn lang ra đời vào thời gian nào? Theo Đại Việt sử ký Toàn thư của Ngô Sĩ Liên: Đế Minh, thuộc dòng dõi Thần Nông, sinh ra Lộc Tục, tức Kinh Dương Vương, Lộc Tục lấy con gái Long Vương hồ Động Đình, sinh ra Lạc Long Quân [theo truyền thuyết Lạc Long Quân là cháu 5 đời của Thần [Nông] vào khoảng thế kỷ VII-VI TCN [Trước Công Nguyên] ở giai đoạn Đông Sơn. Lạc Long Quân lấy Âu Cơ làm vợ sau đó sinh ra một trăm người con. Theo truyền thuyết, Lạc Long Quân bàn với Âu Cơ đưa 50 người con xuống biển và 50 con lên rừng. 50 người con theo mẹ Âu Cơ lập nghiệp và sinh sống trên đất Phong Châu. Người con cả được tôn lên làm vua và truyền thuyết Con Rồng Cháu Tiên được ra đời từ đó.

Người con cả trở thành Hùng Vương đời thứ nhất và bắt đầu thời đại Hùng Vương, đặt tên nước là Văn Lang, đóng đô ở Bạch Hạc [Việt Trì, Phú Thọ]. Vua Hùng chia nước thành 15 bộ, tiếp nối truyền thống cha truyền con nối.

Nhà nước Văn Lang được hình thành vào khoảng năm 2879 TCN

Trả lời cho câu hỏi: Nước Văn Lang ra đời cách đây bao nhiêu năm? Theo truyền thuyết ghi chép lại, Nhà nước Văn Lang được hình thành vào khoảng năm 2879 TCN và kết thúc vào năm 258 TCN bởi An Dương Vương Thục Phán. Từ đây dân gian coi nước Văn Lang thời Hùng Vương ra đời cách ngày nay khoảng hơn 4000 năm và thường được sách báo nói tới 4000 năm văn hiến.

Nguồn gốc tên gọi Văn Lang có từ tiếng Việt cổ Blang hay Klang. Tổ tiên của người Mường là hai con chim Ay và Ua. Vùng đất Mê Linh được bắt nguồn từ một loài chim Mling. Còn vùng đất Bạch Hạc [con chim trắng] phù hợp với bức họa chim cao trắng và nhảy múa trên cánh trống đồng.

Thời kỳ nhà nước Văn Lang đạt được những thành tựu gì?

Trong suốt thời kỳ lịch sử dựng nước Văn Lang, đây là giai đoạn phát triển rực rỡ, nhà nước Văn Lang đã đạt được nhiều thành tựu.

  • Về nông nghiệp: Nhà nước Văn Lang có nền nông nghiệp phát triển. Cư dân Văn Lang biết trồng lúa nước và sử dụng các công cụ cày, cuốc, mai,… để phục vụ hoạt động sản xuất. Thời văn Lang, người dân đã sử dụng thóc gạo để làm thành các món ăn: bánh, cơm lam. Hơn nữa, họ cũng biết dùng các gia vị ngày nay: nước mắm, men rượu,…
  • Về văn hóa: Người dân thời kỳ Văn Lang có phong tục nhuộm răng đen, ăn trầu, xăm mình. Vỏ cây được sử dụng làm áo mặc cho phụ nữ còn đàn ông có truyền thống đóng khố. Đồng thời con người thời kỳ này rất thích đeo đồ trang sức. Họ biết dùng các dụng cụ xe sợi bằng đất nung. Để bảo vệ mình, người dân nơi đây còn biết cách vác gậy để đuổi thú dữ.
Nét đặc trưng văn hóa trang phục thời Văn Lang
  • Về tín ngưỡng: Họ rất sùng bái tự nhiên. Vì vậy, họ thờ thần Mặt Trời, thần Sông, thần Núi,… Mọi người dân đều có mong muốn về cuộc sống ấm no, mùa màng bội thu,… Ngoài ra, các tín ngưỡng về thờ cúng tổ tiên, các vị anh hùng đã có công dựng nước cũng bắt nguồn từ đây.
  • Đồ đồng cũng rất phát triển trong thời kỳ Văn Lang. Giai đoạn phát triển thịnh vượng của văn hóa Đông Sơn là ở thời đại Hùng Vương. Trống đồng Đông Sơn đem lại dấu ấn cho một nền nghệ thuật đặc sắc với các mặt trống được chạm khắc tinh xảo, đẹp mắt.

Nước Văn Lang ra đời cách đây bao nhiêu năm dựa trên các nghiên cứu ngày nay?

Theo truyền thuyết, vua Hùng dựng nước cách đây 4000 năm. Nhưng trong cuốn Đại Việt sử ký Toàn thư, Kinh Dương Vương bắt đầu dựng nước vào năm 2879 trước Công Nguyên [TCN], tính đến nay [2019] thì đã có đến 4898 năm. Tuy nhiên, đây chỉ là cách tính toán của người xưa, không phải một niên đại chính xác. Việt sử lược thời Trần ghi lại : “Đến đời Trang Vương nhà Chu [698-682 TCN], ở bộ Gia Ninh có người lạ, dùng ảo thuật áp phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang, hiệu là nước Văn Lang… Truyền được 18 đời, đều gọi là Hùng Vương”.

Những di tích thời văn hóa Đông Sơn một phần trả lời câu hỏi “nước Văn Lang ra đời cách đây bao nhiêu năm”

Các nhà khoa học đã chứng minh nhà nước ta chỉ ra đời ở thời kỳ văn hoá Đông Sơn, cách ngày nay khoảng 2700-2500 năm, không thể đẩy lên trước Đông Sơn được [vì xã hội thời Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun chưa vượt ra khỏi loại hình xã hội nguyên thủy].

Những di tích, dấu ấn mà nhà nước Văn Lang để lại trở thành một nét đẹp văn hóa của người Việt. Chúng vẫn còn được lưu truyền và phát huy trong nhiều hoạt động của đời sống ngày nay. Một lần nữa tìm hiểu về nước Văn Lang ra đời cách đây bao nhiêu năm, chúng ta sẽ yêu thêm lịch sử hào hùng của dân tộc.

Tags: nha nước Văn Langsự ra đời của nhà nước Văn Lang

Đối với các định nghĩa khác, xem Văn Lang [định hướng].

Bài viết này cần thêm chú thích nguồn gốc để kiểm chứng thông tin. Mời bạn giúp hoàn thiện bài viết này bằng cách bổ sung chú thích tới các nguồn đáng tin cậy. Các nội dung không có nguồn có thể bị nghi ngờ và xóa bỏ.

Tên gọi Việt Nam
Bản mẫu chính
Sinh vật định danh

  • x
  • t
  • s

2879–2524 TCN Xích Quỷ [truyền thuyết]
2524–258 TCN Văn Lang
257–179 TCN Âu Lạc
204–111 TCN Nam Việt
111 TCN–40 CN Giao Chỉ
40–43 Lĩnh Nam
43–203 Giao Chỉ
203–544 Giao Châu
544–602 Vạn Xuân
602–679 Giao Châu
679–757 An Nam
757–766 Trấn Nam
766–866 An Nam
866–967 Tĩnh Hải quân
968–1054 Đại Cồ Việt
1054–1400 Đại Việt
1400–1407 Đại Ngu
1407–1427 Giao Chỉ
1428–1804 Đại Việt
1804–1839 Việt Nam
1839–1945 Đại Nam
1887–1954 Đông Dương
[Bắc/Trung/Nam Kỳ]
từ 1945 Việt Nam
Lịch sử Việt Nam

Văn Lang [chữ Hán: 文郎] là nhà nước đầu tiên theo truyền thuyết trong lịch sử Việt Nam. Nhà nước Văn Lang được cai trị bởi các Hùng Vương.

Loạt bài
Lịch sử Đông Nam Á

Đông Nam Á thời tiền sử

Những nền văn minh đầu tiên
   Văn hóa Đông Sơn
   Văn hóa Sa Huỳnh
   Văn hóa Óc Eo
   Văn hóa Mã Lai
   Văn hóa Java
   Văn hóa Môn - Khmer
Các vương quốc đầu đầu tiên
   Văn Lang [TK 7 TCN - 258TCN]
   Âu Lạc [258TCN-208TCN]
   Lâm Ấp [192 - 605]
   Phù Nam [1 - 630]
   Chân Lạp [550 - 717]
   Dvaravati [TK 6 - TK 11]
   Malayu [TK 4 - TK 7]
   Langkasuka [TK 4 - TK 7]
   Pan Pan [TK 4 - TK 7]
   Sailendra [732 - giữa TK 9]
   Medang [giữa TK 9 - 1049]
   Pyu [TK 3 - TK 9]
   Hariphunchai [TK 8 - TK 13]
Các quốc gia phong kiến hình thành
   Đại Việt [938 - 1887]
   Chăm Pa [TK 7 - 1693]
   Vương quốc Khmer [877 - 1863]
   Pagan [TK 9 - TK 13]
   Sukhothai [1238 - 1448]
   Ayutthaya [1351 - 1767]
   Lan Na [1254 - TK 17]
   Lan Xang [1353 - TK 18]
   Kediri [1049 - 1221]
   Majapahit [1293 - 1527]
   Srivijaya [TK 8 - TK 13]
   Melaka [1402 - 1511]
Giao lưu về văn hóa - tôn giáo
   Phật giáo đại thừa
   Phật giáo tiểu thừa
   Hindu giáo
   Hồi giáo
   Công giáo
   Ảnh hưởng của Ấn Độ
   Ảnh hưởng của Trung Hoa
Thực dân hóa từ Châu Âu
   Thuộc địa Hà Lan
   Thuộc địa Bồ Đào Nha
   Thuộc địa Anh
   Thuộc địa Tây Ban Nha
   Thuộc địa Pháp
Các phong trào dân tộc đầu thế kỷ 20
Đông Nam Á hiện nay

Xem thêm

  • Lịch sử Brunei
  • Lịch sử Campuchia
  • Lịch sử Đông Timor
  • Lịch sử Indonesia
  • Lịch sử Lào
  • Lịch sử Malaysia
  • Lịch sử Myanma
  • Lịch sử Philippines
  • Lịch sử Singapore
  • Lịch sử Thái Lan
  • Lịch sử Việt Nam
sửa

Cách gọi "Hùng vương", chữ Hùng có lẽ là từ chữ Lạc nhầm sang. Nguyên ở chữ Hán, chữ 駱 với chữ 雒 cùng một âm là lạc. Chữ Lạc 雒 này với chữ Hùng 雄 có mặt chữ rất giống nhau. Hoặc vì thế mà chữ Lạc 駱 này lẫn sang chữ Lạc 雒 này, rồi lại lẫn sang chữ Hùng 雄, cho nên Sử Việt Nam ghi là Hùng vương mà ở sách cổ của Trung Hoa thì lại ghi là Lạc vương.

Trong Sử có chép về chức quan Lạc hầu 駱侯, Lạc tướng 駱將; Hai Bà Trưng cũng là con gái quan Lạc tướng ở Phong Châu. Cho nên rất có thể là từ chữ Lạc nhầm sang chữ Hùng. Sự nhầm lẫn đó, truyền nối đã lâu; nay người Việt đã quen gọi là Hùng vương nên không cần đổi lại, nhưng mà nên biết chữ "Hùng" đó vốn ban đầu là chữ "Lạc".

Tên nước Văn Lang, theo một số suy đoán thì có khả năng, từ "Văn Lang" có nguồn gốc từ tiếng Việt cổ là Blang hay Klang, mà nhiều dân tộc miền núi ở cao nguyên Trung Bộ chỉ một loại chim mà họ tôn kính như vật tổ.

Trong truyền thống của người Mường, tổ tiên của họ là hai con chim Ay và Ua [hay Klang và Klao]. Một cách tương tự, tên gọi của Mê Linh có nguồn gốc là Mling, cũng chỉ một loài chim. Cách giải thích này phù hợp với tên gọi của vùng đất: Bạch Hạc, "con hạc trắng", - Mê Linh nằm trong vùng đất này, - đồng thời cũng phù hợp với bức họa trình bày chim cao cẳng và người nhảy múa mặc bộ đồ bằng lông chim, trên các trống đồng[1]. Một điểm khác, chữ Hồng trong từ Hồng Bàng, thời kỳ thượng cổ của Kinh Dương vương, chỉ một loài chim nước thuộc họ chim Diệc.

Theo bộ sử ký Đại Việt sử ký toàn thư [ĐVSKTT] viết rằng phần ngoại kỷ do sử gia Ngô Sĩ Liên viết ở thế kỷ 15 chép rằng: Đế Minh, thuộc dòng dõi Thần Nông, sinh ra Lộc Tục, tức Kinh Dương Vương, Lộc Tục lấy con gái Long Vương hồ Động Đình, đẻ ra Lạc Long Quân [theo truyền thuyết Lạc Long Quân là cháu 5 đời của Thần Nông]. Kế tiếp Lạc Long Quân và vợ là Âu Cơ [con gái Đế Lai] sinh được 100 người con trai, 50 người theo Lạc Long Quân theo cha về bờ biển Đông, 50 người theo mẹ về núi và suy tôn người con cả lên làm vua lấy hiệu là Hùng Vương, đặt tên nước là Văn Lang, đóng đô ở Bạch Hạc - Phú Thọ.

Theo truyền thuyết này, Kinh Dương Vương cai trị nước Xích Quỷ vào khoảng năm 2879 TCN, sinh ra người con là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân và Âu cơ sinh được 50 người con theo mẹ lên núi phủ tuyết [Âu Việt] và 50 người con theo cha xuống biển [Lạc Việt]. Con trưởng của Lạc Long Quân là Vua Hùng cai trị nước Văn Lang [bộ tộc Lạc Việt], truyền qua các đời vua Hùng và kết thúc vào năm 258 TCN [tức là thế kỷ thứ III TCN] bởi An Dương Vương [bộ tộc Âu Việt]. An Dương Vương thống nhất 2 bộ tộc gọi là Âu-Lạc. Vì vậy quan niệm dân gian coi nước Văn Lang đời Hùng Vương ra đời cách ngày nay khoảng hơn 4000 năm và thường được sách báo nói tới 4000 năm văn hiến.

Tuy nhiên theo bộ sử ký xuất hiện còn sớm hơn bộ ĐVSKTT là bộ Đại Việt sử lược vào thế kỷ 13 thì chép nước Văn Lang được thành lập bởi thủ lĩnh bộ tộc Văn Lang thu phục các bộ tộc Việt [15 bộ] khác vào khoảng thế kỷ 7 TCN cùng thời với vua Chu Trang Vương của nhà Chu - Trung Quốc. Ông lên ngôi xưng hiệu là Hùng Vương, đặt tên nước là Văn Lang, đóng đô tại Văn Lang.[2] Về sau các sử gia nước ta bị ảnh hưởng của các sử gia Trung Quốc nên gọi kinh đô thời Văn Lang là Phong Châu.[3] Trong bộ Việt sử lược có dành những dòng sau cho các vua Hùng

"Đến đời Trang Vương nhà Chu [696-682 TCN], ở bộ Gia Ninh có người lạ, dùng ảo thuật áp phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang, hiệu là nước Văn Lang, phong tục thuần hậu, chất phác, chính sự dùng lối kết nút."[4]

Sách An Nam chí [tức An Nam chí nguyên] của Cao Hùng Trưng cho rằng: "Đất Giao Chỉ từ khi chưa đặt có quận huyện, chỉ có ruộng của dân giống Lạc, theo nước trào lên xuống mà cấy lúa; có vua giống Lạc [Lạc vương] thống trị dân; có tướng giống Lạc [Lạc tướng] là quan để giúp vua. Vua quan đều ấn đồng dải xanh, gọi là nước Văn Lang; truyền 18 đời."

Sử kí, quyển 113, Nam Việt liệt truyện, 53, Sách ẩn [thời Đường – Tư Mã Trinh soạn] dẫn Quảng châu kí chép:

“Quận Giao Chỉ có ruộng Lạc, dân trông nước thủy triều lên xuống mà làm ăn ở ruộng ấy nên đặt tên là người Lạc. Có các chức Lạc Vương – Lạc hầu, các huyện tự đặt chức Lạc tướng đeo ấn đồng dải xanh, tức là chức Lệnh-Trưởng ngày nay vậy. Sau đó con vua Thục đem quân đánh Lạc Hầu, tự xưng là An Dương Vương, trị ở huyện Phong Khê.

Cựu Đường thư [Hậu Tấn – Lưu Hú soạn, năm 945 SCN], quyển 41, Chí 21, Địa lí 4, dẫn Nam Việt chí [viết thời Lưu Tống, 420 – 479] chép:

“Đất quận Giao Chỉ rất là màu mỡ, ngày xưa có quân trưởng gọi là Hùng Vương, phụ tá là Hùng Hầu...".

Tuy nhiên, các sách này không thống nhất tên gọi của vua nước này, có sách đề cập đến Hùng Vương [雄王] nhưng có sách lại gọi là Lạc Vương [雒王]. Hai chữ này viết gần giống nhau nên có thể đã có sự nhầm lẫn.

Theo "Lĩnh Nam chích quái" [嶺南摭怪], quyển 1, Hồng Bàng thị truyện [鴻龐氏傳] thì nước Văn Lang:

  • Đông giáp Nam Hải [南海], tức biển Đông
  • Tây tới Ba Thục [巴蜀]
  • Bắc tới hồ Động Đình [洞庭]
  • Nam tới nước Hồ Tôn Tinh [狐猻精], còn gọi là nước Hồ Tôn [胡孫]. Hồ Tôn Tinh về sau trở thành nước Chiêm Thành [占城].
  • Về sau, qua các đời Hùng Vương tiếp theo, đất nước Văn Lang rộng lớn ấy bị phân chia thành Bách Việt, trăm bộ tộc Việt, trăm nước Việt, Văn Lang bấy giờ còn như hình dưới.

Nước được chia thành 15 bộ [部], còn gọi là quận [郡], bao gồm:

  1. Việt Thường [越裳]
  2. Giao Chỉ [交趾]
  3. Chu Diên [朱鳶]
  4. Vũ Ninh [武寧]
  5. Phúc Lộc [福祿]
  6. Ninh Hải [寧海]
  7. Dương Tuyền [陽泉]
  8. Lục Hải [陸海]
  9. Hoài Hoan [懷驩]
  10. Cửu Chân [九真]
  11. Nhật Nam [日南]
  12. Chân Định [真定]
  13. Văn Lang [文郎]
  14. Quế Lâm [桂林]
  15. Tượng Quận [象郡]

 

Nước Văn Lang năm 500 TCN

Theo "Việt sử lược" [越史略], quyển thượng, Quốc sơ duyên cách [國初沿革] thì nước Văn Lang gồm 15 bộ lạc [部落] là:

  1. Giao Chỉ [交趾]
  2. Việt Thường Thị [越裳氏]
  3. Vũ Ninh [武寧]
  4. Quân Ninh [軍寧]
  5. Gia Ninh [嘉寧]
  6. Ninh Hải [寧海]
  7. Lục Hải [陸海]
  8. Thang Tuyền [湯泉]
  9. Tân Xương [新昌]
  10. Bình Văn [平文]
  11. Văn Lang [文郎]
  12. Cửu Chân [九真]
  13. Nhật Nam [日南]
  14. Hoài Hoan [懷驩]
  15. Cửu Đức [九德]

Kinh đô đặt tại bộ Văn Lang.

Trong "Đại Việt sử ký toàn thư" [大越史記全書], Ngoại kỉ [外紀], quyển 1, Hồng Bàng thị kỉ [鴻厖氏紀], cương vực và tên gọi 15 bộ của nước Văn Lang được chép gần như tương tự với "Lĩnh Nam chích quái" chỉ khác là không có bốn bộ Nhật Nam, Chân Định, Quế Lâm và Tượng Quận mà thay vào đó là bốn bộ Vũ Định [武定], Bình Văn [平文], Tân Hưng [新興] và Cửu Đức [九德]. Bộ Văn Lang là nơi vua đóng đô. 15 bộ của nước Văn Lang theo "Đại Việt sử ký toàn thư" bao gồm:

  1. Giao Chỉ [交趾]
  2. Chu Diên [朱鳶]
  3. Vũ Ninh [武寧]
  4. Phúc Lộc [福祿]
  5. Việt Thường [越裳]
  6. Ninh Hải [寧海]
  7. Dương Tuyền [陽泉]
  8. Lục Hải [陸海]
  9. Vũ Định [武定]
  10. Hoài Hoan [懷驩]
  11. Cửu Chân [九真]
  12. Bình Văn [平文]
  13. Tân Hưng [新興]
  14. Cửu Đức [九德]
  15. Văn Lang [文郎]

 

Bản đồ cương vực của nước Văn Lang [lưu ý: đây chỉ là ước chừng, vì ghi chép địa lý thời đó là chưa rõ ràng]

Các tài liệu nghiên cứu sau này cho rằng lãnh thổ nước Văn Lang bao gồm khu vực Bắc Bộ và ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh ngày nay, thậm chí kéo dài tới Thừa Thiên Huế[5], dựa trên các di tích văn hóa đồ đồng đã được phát hiện, thời kỳ Văn Lang của các vua Hùng tương ứng với thời kỳ văn hoá Đông Sơn [từ năm 696 TCN - 682 TCN]

Mười lăm bộ, ở Sử cũ có chép đầy đủ tên riêng, là:

1] Văn Lang[文郎]

2] Giao Chỉ [交趾]

3] Chu Diên [朱鳶]

4] Võ Ninh [武寧]

5] Phúc Lộc[福祿]

6] Việt Thường[越裳]

7] Ninh Hải [陸海]

8] Dương Tuyền [陽泉]

 

Nhà nước Văn Lang trên bản đồ châu Á [300 TCN], được thể hiện màu đỏ [Vương quốc của người Việt]

9] Lục Hải [陸海]

10] Võ Định [武定]

11] Hoài Hoan [懷驩]

12] Cửu Chân [九真]

13] Bình Văn [平文]

14] Tân Hưng [新興]

15] Cửu Đức [九德]

Người đời sau có lấy tên các bộ ấy để chú sách Dư địa chí. Nay xem như ở Sử Khân định khảo và chú, từ nước Ngô mới đặt quận Cửu Đức [nay là đất Hà Tĩnh] mà đến đời thuộc hán mới có huyện Chu Diên [nay là đất Vĩnh Tường]. Nhân Nhân thế xem ra thời cả như như mười ba bộ kia, có nhẽ đều là sau khi Triệu Đà thống trị ta, mới đạt đặt tên ấy. 15 bộ chia đây, không biết cõi đất ra làm sao, nhưng hẳn chỉ có những tên gọi rất đơn sơ mà không truyền lại đến nay vậy. Vậy nay chỉ tạm biết là mười lăm bộ mà không dám theo ở Sử cũ liệt tên.

Đứng đầu nhà nước là Hùng Vương, trong triều đình có các quan giúp việc là Lạc Hầu, quan Lạc Tướng cai quản các bộ địa phương, dưới Lạc Tướng là các quan Bồ Chính cai quản từng khu vực nhỏ [làng]. Theo các tư liệu cổ, các vị vua cai trị nước Văn Lang có tất cả 18 đời [hoặc dòng] vua. Mới đặt tên quan. Tướng văn gọi là Lạc hầu; tướng võ gọi là Lạc tướng; các quan nhỏ, gọi là Bồ chánh; con trai vua gọi là Quan lang; con gái vua gọi là Mỵ nương. Ngôi vị cha truyền con nối, gọi là phụ đạo.

Xã hội có giai cấp có lẽ chưa xuất hiện, nhưng chắc chắn đã xuất hiện sự phân tầng. Theo Lĩnh Nam chích quái, tôi tớ được gọi là xao nếu là nữ, và xung nếu là nam, kẻ bề dưới là hôn. Xao có thể được gắn với sao trong tiếng Thái: con gái, hôn của tiếng Chăm và ho hun của tiếng Jarai và côn huon trong tiếng Thái là những từ dùng để gọi các nô lệ chuyên làm việc nhà.

Quan điểm về đặc tính của nhà nước Văn Lang rất đa dạng. Có nhiều quan điểm khác nhau trong đó có quan điểm của GS. Hà Văn Tấn Lưu trữ 2016-03-04 tại Wayback Machine cho rằng nhà nước Văn Lang chỉ là một cái làng lớn [Hà Văn Tấn, Làng, liên làng và siêu làng [Mấy vấn đề về phương pháp], Tạp chí Khoa học, Đại học Tổng hợp Hà Nội, số 1, 1987, in lại trong Một số vấn đề Lý luận Sử học, Nhà xuất bản ĐHQGHN, 2007]; quan điểm của tác giả Nguyễn Minh Tuấn cho rằng: Nhà nước Văn Lang thực chất là một "nhà nước siêu làng", thể hiện cả ở sự liên kết giữa làng và nước, chứ không chỉ là sự liên kết giữa các làng với nhau. Theo tác giả, tính chất "siêu làng" thể hiện ít nhất ở ba khía cạnh: Thứ nhất, về nội dung, nhà nước mang dáng dấp của một cái làng lớn có tính liên kết mạnh, tính đại diện cao và tính giai cấp yếu. Thứ hai, về phạm vi và tính chất liên kết, quan hệ làng nước mang tính hoà đồng, lưỡng hợp, chưa có sự phân định rạch ròi về chức năng, thẩm quyền giữa làng và nước. Thứ ba, về thời gian, nhà nước Văn Lang dần được hình thành trong một quá trình rất lâu dài[6].

Cuối thời Hồng Bàng, theo ĐVSKTT cũng như theo Đại Việt sử lược, do nhiều lần bị vua Thục sang đánh nhưng nhờ binh cường tướng giỏi nên đều thắng nên vua Hùng sinh ra kiêu ngạo, chểnh mảng võ bị, ngày chỉ uống rượu ăn tiệc làm vui. Năm 258 TCN, cháu vua Thục là Thục Phán sang đánh, vua còn mải mê uống rượu, khi quân Thục đến gần vua nhảy xuống giếng chết, quân lính đầu hàng. Thục Vương chiếm lấy nước, sáp nhập và thành lập nước Âu Lạc.

  • Đại Việt sử ký toàn thư, Ngô Sĩ Liên
  • Đại Việt sử lược, khuyết danh - Trần Quốc Vượng dịch
  • Chú thích

  1. ^ Trần Quốc Vượng,"Từ truyện ngụ ngôn đến lịch sử", sđd, trang 148-155
  2. ^ Từ Văn Lang đến Thăng Long - Quá trình tìm chọn kinh đô muôn đời của đất nước [1]
  3. ^ [2][liên kết hỏng]
  4. ^ “Việt Sử lược”.
  5. ^ “LỊCH SỬ TT-HUẾ”. Báo Thừa-Thiên-Huế.
  6. ^ Nguyễn Minh Tuấn, Nhà nước Văn Lang - nhà nước siêu làng, Tạp chí Khoa học, Đại học Quốc gia Hà nội, chuyên san Kinh tế - Luật, Tập 23, Số 3, năm 2007

  • Hùng Vương
  • Hồng Bàng
  • Phong Châu [kinh đô]
  • Vũ Ninh [bộ]
  • Việt Thường
  • Thánh Gióng
  • Sơn Tinh
  • Thủy Tinh [nhân vật]
  • Mai An Tiêm
  • Chử Đồng Tử
  • Mỵ Nương
  • Lang Liêu
  • Văn hóa Đông Sơn
  • Trống đồng Đông Sơn
  • Lạc Việt
  • Âu Việt
  • An Dương Vương
  • Triệu Đà
  • Âu Lạc
  • Nam Việt

Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Văn Lang.
  • Văn Lang tại Từ điển bách khoa Việt Nam
  • Van Lang [legendary kingdom, Vietnam] tại Encyclopædia Britannica [tiếng Anh]

Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Văn_Lang&oldid=68473108”

Video liên quan

Chủ Đề