Hòa
thượng Thích Quảng Đức, thế danh là Lâm Văn Tuất sinh năm
1897 (Đinh Dậu) tại thôn Hội Khánh, xã Vạn Khánh, huyện
Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa. Thân sinh là cụ Lâm Hữu Ứng và
bà Nguyễn Thị Nương.
Lên
7 tuổi, Ngài được song thân cho xuất gia học Phật. Ngài
thụ giáo với Hòa thượng Thích Hoằng Thâm là cậu ruột
và được Hòa thượng nhận làm con đổi tên họ là Nguyễn
Văn Khiết.
Năm
15 tuổi, Ngài thọ giớiSa Di, năm 20 tuổi thọ giớiTỳ Kheo
và Bồ Tát, được pháp danh Thị Thủy, pháp tựHành Pháp,
pháp hiệuQuảng Đức. Sau đó Ngài phát nguyệnnhập thất
tu ba năm trên một ngọn núi ở Ninh Hòa. Về sau Ngài có lập
trên núi này một ngôi chùa lấy hiệu là Thiên Lộc Tự.
Rời
núi, Ngài vân duhóa đạomột mình với chiếc bình bát theo
hạnh đầu đà (khất thực). Hai năm mãn nguyện, Ngài lại
quay vềnhập thất tại chùa Sắc TứThiên Ân ở Ninh Hòa.
Năm
1932 hội An Nam Phật Học ra đời, Đại lão Hòa thượng chùa
Hải Đức đến nơi Ngài đang nhập thất, mời ngài nhận
chức Chứng minhĐạo sư cho Chi Hội Ninh Hòa. Ba năm sau, Ngài
được thỉnh cử giữ chức Kiểm Tăng cho Tỉnh hội Khánh
Hòa. Trong thời gianhành đạo tại miền Trung, Ngài đã kiến
tạo và trùng tu tất cả 14 ngôi chùa.
Năm
1943, rời Khánh Hòa vào Nam, Ngài hành đạo khắp các tỉnh
Sàigòn, Gia Định, Định Tường xuống đến Hà Tiên. Ngài
cũng đã từng sang Nam Vang lưu trú ba năm, vừa giáo hóa các
Phật tử kiều bào, vừa nghiên cứukinh điển PàLi và Phật
giáoNam Tông.
Lúc
mới vào Nam, Ngài đã lưu trú tại chùa Long Vĩnh (quận 3 -
Sài gòn) một thời gian dài, nên dân chúng quen gọi Ngài là
Hòa thượng Long Vĩnh, Ngài còn có hiệu là Thích Giác Tánh.
Suốt thời gianhóa độchúng sinh, bất cứ nơi nào, Ngài
cũng dốc lòng làm tròn nhiệm vụ của một sứ giả Như Lai,
kế tục các thế hệTổ sưtruyền giáo, chăm lo tô bồi
công đức, hoằng dương chánh pháp.
Năm
1953, Ngài được thỉnh cử vào chức vụ Phó Trị Sự và
Trưởng ban Nghi lễGiáo HộiTăng Già Nam Việt, đồng thời
lãnh nhiệm vụtrú trì chùa Phước Hòa ở Bàn Cờ, là nơi
đặt trụ sở đầu tiên của Hội Phật Học Nam Việt.
Năm
1958, khi trụ sở của Hội dời về chùa Xá Lợi, Ngài nhận
thấytuổi già sức yếu, và với bản nguyện “Ưng vô sở
trụ nhi sinh kỳ tâm”, Ngài xin thôi mọi chức vụ để có
đủ thì giờan tâm tu niệm. Tuy nhiên, vốn có tâm từ bi,
Ngài vẫn để cho gót chân vân duhành đạo ghi dấu nhiều
nơi, khi thì chùa Quan Thế Âm ở Gia Định, lúc lại tới chùa
Long Phước, xã Ninh Quang, tỉnh Khánh Hòa, dùng mọi phương
tiệnthích ứng hướng dẫn hậu sinh mê mờ quay vềchánh
đạo.
Trong
phong trào đấu tranh của Phật giáo miền Nam vào năm 1963 đòi
tự dotín ngưỡng, bình đẳngtôn giáo, tuy tuổi đã già,
Ngài vẫn tích cựctham gia. Chính sách kỳ thị tôn giáo và
đàn ápPhật tử của Ngô Đình Diệm ngày một nặng nề
và khốc liệt. Máu Phật tử đã đổ ở Đài Phát Thanh Huế.
Chùa chiền bị phong tỏa, Phật tửbị bắt bớ khắp nơi.
Để thức tỉnh ông Ngô Đình Diệm và tập đoàn của ông
đang đắm chìm trong vô minh sớm thỏa mãn 5 nguyện vọng của
Phật giáo đồ, đồng thời để cho thế giớinhận thấy
cuộc đấu tranh đòi tự dotín ngưỡng của Phật tửViệt
Nam là chính đáng, ngày 20 tháng 4 năm Quý Mão, tức ngày 11-6-1963
Ngài đã thực hiệntâm nguyện là thiêu đốt nhục thân để
cúng dường và bảo vệĐạo pháp.
Từ
một cuộc diễn hành của trên 800 vị Thượng tọa, Đại
đức, Tăng Ni và Phật tử từ chùa Phật Bửu đến chùa Xá
Lợi, khi đoàn diễn hành tiến đến ngã tư đường Phan Đình
Phùng và Lê Văn Duyệt (nay là đường Nguyễn Đình Chiểu
và CMT8), Ngài từ trên xe hơi bước xuống, tự tẩm xăng thấm
ướt mấy lớp cà sa, ngồi kiết già xuống mặt đường,
tự châm lửa giữa hằng mấy trăm Tăng Ni đang vây quanh chấp
taycầu nguyện. Ngọn lửa bốc cao, phủ kín thân mình, Ngài
vẫn an nhiênchấp taytĩnh tọa.
Gần
15 phút sau, lửa tàn và Ngài ngã xuống, tay vẫn còn quyết
ấn tam muội.
Nhục
thân của Ngài được đưa vào lò điện thiêu đến 4.000 độ
- xương thịt cháy tiêu hết. Duy chỉ có trái tim của Ngài
vẫn còn nguyên, được thiêu lần thứ hai vẫn không cháy.
Cái
chết phi phàm của Bồ Tát Thích Quảng Đức đã làm chấn
độngdư luận khắp hoàn cầu. Báo chíthế giới đăng tin
lên trang đầu cùng hình ảnhtự thiêu của Ngài. Việc Ngài
tự thiêu, được đồng bào cả nước biết ngay chiều hôm
đó, và đã gây xúc độngsâu xa trong mọi tầng lớp, không
phân biệttôn giáo. Sự hy sinh vì đạo của Ngài đã làm
cho Ngô Đình Diệm vô cùng hoảng hốt và lo sợ, tìm mọi
cách đối phó với Phật giáo bằng những thủ đoạn thâm
độc hơn, đồng thời nó cũng đẩy mạnh phong trào đấu
tranh của Phật giáocuồn cuộn như sóng thần để đi đến
kết thúc là ngày 01-11-1963 chế độ độc tài, gia đình trị
của họ Ngô sụp đổ, Phật giáo Việt Nam thoát qua một pháp
nạn.
Trước
khi tự thiêu, Ngài có để lại một bức thư gọi là “Lời
nguyện tâm huyết”, nói rõ chủ định và nguyện vọng
của Ngài. Điều đáng ghi nhớ là toàn văn bức thư này đã
không chứa đựng một mảy mayhận thù và tuyệt vọng nào,
mà trái lại còn toát lên tình thương và hy vọng:
“Tôi
pháp danh Thích Quảng Đức, trụ trì chùa Quan Thế Âm, Phú
Nhuận, Gia Định.
Nhận
thấyPhật giáo nước nhà đang lúcnghiêng ngửa, tôi là một
tu sĩ mệnh danh là Trưởng tử của Như Lai không lẽ cứ ngồi
điềm nhiên tọa thị để cho Phật giáo tiêu vong, nên tôi
vui lòngphát nguyện thiêu thân giả tạm này cúng dường chư
Phật để hồi hướng công đứcbảo tồnPhật giáo.
Mong
ơn mười phương chư Phật, chư Đại đức, Tăng Nichứng
minh cho tôi đạt thành ý nguyện sau đây:
1/
Mong ơn Phật Tổgia hộ cho Tổng thống Ngô Đình Diệm sáng
suốtchấp nhận năm nguyện vọng tối thiểu của Phật giáo
Việt nam ghi trong bản tuyên ngôn.
2/
Nhờ ơn Phật từ bigia hộ cho Phật giáo Việt Nam được
trường tồnbất diệt.
3/
Mong nhờ hồng ânđức Phậtgia hộ cho chư Đại đức, Tăng
Ni, Phật tửViệt Namtránh khỏi nạn khủng bố, bắt bớ,
giam cầm của kẻ ác gian.
4/
Cầu nguyện cho đất nước thanh bình, quốc dân an lạc...
Trước
khi nhắm mắt về cảnh Phật, tôi trân trọng kính gửi lời
cho Tổng thống Ngô Đình Diệm nên lấy lòngbác áitừ bi
đối với Quốc dân và thi hànhchánh sáchbình đẳngtôn
giáo để giữ vững nước nhà muôn thuở.
Tôi
thiết tha kêu gọi chư Đại đức, Tăng Ni, Phật tử nên đoàn
kết nhất trí để bảo toàn Phật pháp”.
NAM
MÔ ĐẤU CHIẾN THẮNG PHẬT.
Tỳ
Kheo Thích Quảng Đức Kính bạch.
Ngoài
ra, Ngài còn để lại năm bài kệ, dặn dò bổn đạo và đệ
tử sống theo Bát chánh đạo và Lục hòa, đoàn kết và giữ
vững niềm tin trong đạo pháp.
Cũng
như ở miền Trung, hai mươi năm hành đạo ở miền Nam, Ngài
đã khai sơn và đại trùng tu được 17 ngôi chùa. Cảnh chùa
cuối cùng Ngài trú trì là chùa Quan Thế Âm, tại Gia Định,
Sài Gòn.
Để
ghi nhớ công hạnh của Ngài, sau khi Giáo Hội Phật Giáo Việt
Nam Thống Nhất ra đời, Hội đồng Lưỡng viện Tăng Thống
và Hóa Đạo trong một phiên họp trước ngày Phật Đản năm
1964, đã đồng thanh quyết nghị suy tôn Ngài pháp vịBỒ
TÁT. Sau ngày đất nước thống nhất. Nhà nước dùng pháp
hiệu của Ngài đặt tên cho đường Nguyễn Huệ cũ chạy
qua trước chùa Quan Thế Âm là đường Thích Quảng Đức,
quận Phú Nhuận.
Quả
tim Bồ TátQuảng Đức là một chứng minhcụ thể cho tấm
lòng của muôn người con Phật luôn yêu chuộng hòa bình tự
do và bình đẳng nhưng cũng bất khuất trước nạn cường
quyền và áp bức. Trái tim ấy trở thànhbiểu tượngtinh
thần của Phật giáo Việt Nam và là trái tim của nhân loại
đã và đang đấu tranh mãi cho tự do hòa bình, hạnh phúcnhân
sinh.
Source:
Tiểu SửDanh TăngViệt Nam Thế Kỷ Thứ 20, Tập I, Thích
Đồng Bổn
Page 2
Hòa
thượng Thích Quảng Đức, thế danh là Lâm Văn Tuất sinh năm
1897 (Đinh Dậu) tại thôn Hội Khánh, xã Vạn Khánh, huyện
Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa. Thân sinh là cụ Lâm Hữu Ứng và
bà Nguyễn Thị Nương.
Lên
7 tuổi, Ngài được song thân cho xuất gia học Phật. Ngài
thụ giáo với Hòa thượng Thích Hoằng Thâm là cậu ruột
và được Hòa thượng nhận làm con đổi tên họ là Nguyễn
Văn Khiết.
Năm
15 tuổi, Ngài thọ giớiSa Di, năm 20 tuổi thọ giớiTỳ Kheo
và Bồ Tát, được pháp danh Thị Thủy, pháp tựHành Pháp,
pháp hiệuQuảng Đức. Sau đó Ngài phát nguyệnnhập thất
tu ba năm trên một ngọn núi ở Ninh Hòa. Về sau Ngài có lập
trên núi này một ngôi chùa lấy hiệu là Thiên Lộc Tự.
Rời
núi, Ngài vân duhóa đạomột mình với chiếc bình bát theo
hạnh đầu đà (khất thực). Hai năm mãn nguyện, Ngài lại
quay vềnhập thất tại chùa Sắc TứThiên Ân ở Ninh Hòa.
Năm
1932 hội An Nam Phật Học ra đời, Đại lão Hòa thượng chùa
Hải Đức đến nơi Ngài đang nhập thất, mời ngài nhận
chức Chứng minhĐạo sư cho Chi Hội Ninh Hòa. Ba năm sau, Ngài
được thỉnh cử giữ chức Kiểm Tăng cho Tỉnh hội Khánh
Hòa. Trong thời gianhành đạo tại miền Trung, Ngài đã kiến
tạo và trùng tu tất cả 14 ngôi chùa.
Năm
1943, rời Khánh Hòa vào Nam, Ngài hành đạo khắp các tỉnh
Sàigòn, Gia Định, Định Tường xuống đến Hà Tiên. Ngài
cũng đã từng sang Nam Vang lưu trú ba năm, vừa giáo hóa các
Phật tử kiều bào, vừa nghiên cứukinh điển PàLi và Phật
giáoNam Tông.
Lúc
mới vào Nam, Ngài đã lưu trú tại chùa Long Vĩnh (quận 3 -
Sài gòn) một thời gian dài, nên dân chúng quen gọi Ngài là
Hòa thượng Long Vĩnh, Ngài còn có hiệu là Thích Giác Tánh.
Suốt thời gianhóa độchúng sinh, bất cứ nơi nào, Ngài
cũng dốc lòng làm tròn nhiệm vụ của một sứ giả Như Lai,
kế tục các thế hệTổ sưtruyền giáo, chăm lo tô bồi
công đức, hoằng dương chánh pháp.
Năm
1953, Ngài được thỉnh cử vào chức vụ Phó Trị Sự và
Trưởng ban Nghi lễGiáo HộiTăng Già Nam Việt, đồng thời
lãnh nhiệm vụtrú trì chùa Phước Hòa ở Bàn Cờ, là nơi
đặt trụ sở đầu tiên của Hội Phật Học Nam Việt.
Năm
1958, khi trụ sở của Hội dời về chùa Xá Lợi, Ngài nhận
thấytuổi già sức yếu, và với bản nguyện “Ưng vô sở
trụ nhi sinh kỳ tâm”, Ngài xin thôi mọi chức vụ để có
đủ thì giờan tâm tu niệm. Tuy nhiên, vốn có tâm từ bi,
Ngài vẫn để cho gót chân vân duhành đạo ghi dấu nhiều
nơi, khi thì chùa Quan Thế Âm ở Gia Định, lúc lại tới chùa
Long Phước, xã Ninh Quang, tỉnh Khánh Hòa, dùng mọi phương
tiệnthích ứng hướng dẫn hậu sinh mê mờ quay vềchánh
đạo.
Trong
phong trào đấu tranh của Phật giáo miền Nam vào năm 1963 đòi
tự dotín ngưỡng, bình đẳngtôn giáo, tuy tuổi đã già,
Ngài vẫn tích cựctham gia. Chính sách kỳ thị tôn giáo và
đàn ápPhật tử của Ngô Đình Diệm ngày một nặng nề
và khốc liệt. Máu Phật tử đã đổ ở Đài Phát Thanh Huế.
Chùa chiền bị phong tỏa, Phật tửbị bắt bớ khắp nơi.
Để thức tỉnh ông Ngô Đình Diệm và tập đoàn của ông
đang đắm chìm trong vô minh sớm thỏa mãn 5 nguyện vọng của
Phật giáo đồ, đồng thời để cho thế giớinhận thấy
cuộc đấu tranh đòi tự dotín ngưỡng của Phật tửViệt
Nam là chính đáng, ngày 20 tháng 4 năm Quý Mão, tức ngày 11-6-1963
Ngài đã thực hiệntâm nguyện là thiêu đốt nhục thân để
cúng dường và bảo vệĐạo pháp.
Từ
một cuộc diễn hành của trên 800 vị Thượng tọa, Đại
đức, Tăng Ni và Phật tử từ chùa Phật Bửu đến chùa Xá
Lợi, khi đoàn diễn hành tiến đến ngã tư đường Phan Đình
Phùng và Lê Văn Duyệt (nay là đường Nguyễn Đình Chiểu
và CMT8), Ngài từ trên xe hơi bước xuống, tự tẩm xăng thấm
ướt mấy lớp cà sa, ngồi kiết già xuống mặt đường,
tự châm lửa giữa hằng mấy trăm Tăng Ni đang vây quanh chấp
taycầu nguyện. Ngọn lửa bốc cao, phủ kín thân mình, Ngài
vẫn an nhiênchấp taytĩnh tọa.
Gần
15 phút sau, lửa tàn và Ngài ngã xuống, tay vẫn còn quyết
ấn tam muội.
Nhục
thân của Ngài được đưa vào lò điện thiêu đến 4.000 độ
- xương thịt cháy tiêu hết. Duy chỉ có trái tim của Ngài
vẫn còn nguyên, được thiêu lần thứ hai vẫn không cháy.
Cái
chết phi phàm của Bồ Tát Thích Quảng Đức đã làm chấn
độngdư luận khắp hoàn cầu. Báo chíthế giới đăng tin
lên trang đầu cùng hình ảnhtự thiêu của Ngài. Việc Ngài
tự thiêu, được đồng bào cả nước biết ngay chiều hôm
đó, và đã gây xúc độngsâu xa trong mọi tầng lớp, không
phân biệttôn giáo. Sự hy sinh vì đạo của Ngài đã làm
cho Ngô Đình Diệm vô cùng hoảng hốt và lo sợ, tìm mọi
cách đối phó với Phật giáo bằng những thủ đoạn thâm
độc hơn, đồng thời nó cũng đẩy mạnh phong trào đấu
tranh của Phật giáocuồn cuộn như sóng thần để đi đến
kết thúc là ngày 01-11-1963 chế độ độc tài, gia đình trị
của họ Ngô sụp đổ, Phật giáo Việt Nam thoát qua một pháp
nạn.
Trước
khi tự thiêu, Ngài có để lại một bức thư gọi là “Lời
nguyện tâm huyết”, nói rõ chủ định và nguyện vọng
của Ngài. Điều đáng ghi nhớ là toàn văn bức thư này đã
không chứa đựng một mảy mayhận thù và tuyệt vọng nào,
mà trái lại còn toát lên tình thương và hy vọng:
“Tôi
pháp danh Thích Quảng Đức, trụ trì chùa Quan Thế Âm, Phú
Nhuận, Gia Định.
Nhận
thấyPhật giáo nước nhà đang lúcnghiêng ngửa, tôi là một
tu sĩ mệnh danh là Trưởng tử của Như Lai không lẽ cứ ngồi
điềm nhiên tọa thị để cho Phật giáo tiêu vong, nên tôi
vui lòngphát nguyện thiêu thân giả tạm này cúng dường chư
Phật để hồi hướng công đứcbảo tồnPhật giáo.
Mong
ơn mười phương chư Phật, chư Đại đức, Tăng Nichứng
minh cho tôi đạt thành ý nguyện sau đây:
1/
Mong ơn Phật Tổgia hộ cho Tổng thống Ngô Đình Diệm sáng
suốtchấp nhận năm nguyện vọng tối thiểu của Phật giáo
Việt nam ghi trong bản tuyên ngôn.
2/
Nhờ ơn Phật từ bigia hộ cho Phật giáo Việt Nam được
trường tồnbất diệt.
3/
Mong nhờ hồng ânđức Phậtgia hộ cho chư Đại đức, Tăng
Ni, Phật tửViệt Namtránh khỏi nạn khủng bố, bắt bớ,
giam cầm của kẻ ác gian.
4/
Cầu nguyện cho đất nước thanh bình, quốc dân an lạc...
Trước
khi nhắm mắt về cảnh Phật, tôi trân trọng kính gửi lời
cho Tổng thống Ngô Đình Diệm nên lấy lòngbác áitừ bi
đối với Quốc dân và thi hànhchánh sáchbình đẳngtôn
giáo để giữ vững nước nhà muôn thuở.
Tôi
thiết tha kêu gọi chư Đại đức, Tăng Ni, Phật tử nên đoàn
kết nhất trí để bảo toàn Phật pháp”.
NAM
MÔ ĐẤU CHIẾN THẮNG PHẬT.
Tỳ
Kheo Thích Quảng Đức Kính bạch.
Ngoài
ra, Ngài còn để lại năm bài kệ, dặn dò bổn đạo và đệ
tử sống theo Bát chánh đạo và Lục hòa, đoàn kết và giữ
vững niềm tin trong đạo pháp.
Cũng
như ở miền Trung, hai mươi năm hành đạo ở miền Nam, Ngài
đã khai sơn và đại trùng tu được 17 ngôi chùa. Cảnh chùa
cuối cùng Ngài trú trì là chùa Quan Thế Âm, tại Gia Định,
Sài Gòn.
Để
ghi nhớ công hạnh của Ngài, sau khi Giáo Hội Phật Giáo Việt
Nam Thống Nhất ra đời, Hội đồng Lưỡng viện Tăng Thống
và Hóa Đạo trong một phiên họp trước ngày Phật Đản năm
1964, đã đồng thanh quyết nghị suy tôn Ngài pháp vịBỒ
TÁT. Sau ngày đất nước thống nhất. Nhà nước dùng pháp
hiệu của Ngài đặt tên cho đường Nguyễn Huệ cũ chạy
qua trước chùa Quan Thế Âm là đường Thích Quảng Đức,
quận Phú Nhuận.
Quả
tim Bồ TátQuảng Đức là một chứng minhcụ thể cho tấm
lòng của muôn người con Phật luôn yêu chuộng hòa bình tự
do và bình đẳng nhưng cũng bất khuất trước nạn cường
quyền và áp bức. Trái tim ấy trở thànhbiểu tượngtinh
thần của Phật giáo Việt Nam và là trái tim của nhân loại
đã và đang đấu tranh mãi cho tự do hòa bình, hạnh phúcnhân
sinh.
Source:
Tiểu SửDanh TăngViệt Nam Thế Kỷ Thứ 20, Tập I, Thích
Đồng Bổn
Page 3
Hòa
thượng Thích Quảng Đức, thế danh là Lâm Văn Tuất sinh năm
1897 (Đinh Dậu) tại thôn Hội Khánh, xã Vạn Khánh, huyện
Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa. Thân sinh là cụ Lâm Hữu Ứng và
bà Nguyễn Thị Nương.
Lên
7 tuổi, Ngài được song thân cho xuất gia học Phật. Ngài
thụ giáo với Hòa thượng Thích Hoằng Thâm là cậu ruột
và được Hòa thượng nhận làm con đổi tên họ là Nguyễn
Văn Khiết.
Năm
15 tuổi, Ngài thọ giớiSa Di, năm 20 tuổi thọ giớiTỳ Kheo
và Bồ Tát, được pháp danh Thị Thủy, pháp tựHành Pháp,
pháp hiệuQuảng Đức. Sau đó Ngài phát nguyệnnhập thất
tu ba năm trên một ngọn núi ở Ninh Hòa. Về sau Ngài có lập
trên núi này một ngôi chùa lấy hiệu là Thiên Lộc Tự.
Rời
núi, Ngài vân duhóa đạomột mình với chiếc bình bát theo
hạnh đầu đà (khất thực). Hai năm mãn nguyện, Ngài lại
quay vềnhập thất tại chùa Sắc TứThiên Ân ở Ninh Hòa.
Năm
1932 hội An Nam Phật Học ra đời, Đại lão Hòa thượng chùa
Hải Đức đến nơi Ngài đang nhập thất, mời ngài nhận
chức Chứng minhĐạo sư cho Chi Hội Ninh Hòa. Ba năm sau, Ngài
được thỉnh cử giữ chức Kiểm Tăng cho Tỉnh hội Khánh
Hòa. Trong thời gianhành đạo tại miền Trung, Ngài đã kiến
tạo và trùng tu tất cả 14 ngôi chùa.
Năm
1943, rời Khánh Hòa vào Nam, Ngài hành đạo khắp các tỉnh
Sàigòn, Gia Định, Định Tường xuống đến Hà Tiên. Ngài
cũng đã từng sang Nam Vang lưu trú ba năm, vừa giáo hóa các
Phật tử kiều bào, vừa nghiên cứukinh điển PàLi và Phật
giáoNam Tông.
Lúc
mới vào Nam, Ngài đã lưu trú tại chùa Long Vĩnh (quận 3 -
Sài gòn) một thời gian dài, nên dân chúng quen gọi Ngài là
Hòa thượng Long Vĩnh, Ngài còn có hiệu là Thích Giác Tánh.
Suốt thời gianhóa độchúng sinh, bất cứ nơi nào, Ngài
cũng dốc lòng làm tròn nhiệm vụ của một sứ giả Như Lai,
kế tục các thế hệTổ sưtruyền giáo, chăm lo tô bồi
công đức, hoằng dương chánh pháp.
Năm
1953, Ngài được thỉnh cử vào chức vụ Phó Trị Sự và
Trưởng ban Nghi lễGiáo HộiTăng Già Nam Việt, đồng thời
lãnh nhiệm vụtrú trì chùa Phước Hòa ở Bàn Cờ, là nơi
đặt trụ sở đầu tiên của Hội Phật Học Nam Việt.
Năm
1958, khi trụ sở của Hội dời về chùa Xá Lợi, Ngài nhận
thấytuổi già sức yếu, và với bản nguyện “Ưng vô sở
trụ nhi sinh kỳ tâm”, Ngài xin thôi mọi chức vụ để có
đủ thì giờan tâm tu niệm. Tuy nhiên, vốn có tâm từ bi,
Ngài vẫn để cho gót chân vân duhành đạo ghi dấu nhiều
nơi, khi thì chùa Quan Thế Âm ở Gia Định, lúc lại tới chùa
Long Phước, xã Ninh Quang, tỉnh Khánh Hòa, dùng mọi phương
tiệnthích ứng hướng dẫn hậu sinh mê mờ quay vềchánh
đạo.
Trong
phong trào đấu tranh của Phật giáo miền Nam vào năm 1963 đòi
tự dotín ngưỡng, bình đẳngtôn giáo, tuy tuổi đã già,
Ngài vẫn tích cựctham gia. Chính sách kỳ thị tôn giáo và
đàn ápPhật tử của Ngô Đình Diệm ngày một nặng nề
và khốc liệt. Máu Phật tử đã đổ ở Đài Phát Thanh Huế.
Chùa chiền bị phong tỏa, Phật tửbị bắt bớ khắp nơi.
Để thức tỉnh ông Ngô Đình Diệm và tập đoàn của ông
đang đắm chìm trong vô minh sớm thỏa mãn 5 nguyện vọng của
Phật giáo đồ, đồng thời để cho thế giớinhận thấy
cuộc đấu tranh đòi tự dotín ngưỡng của Phật tửViệt
Nam là chính đáng, ngày 20 tháng 4 năm Quý Mão, tức ngày 11-6-1963
Ngài đã thực hiệntâm nguyện là thiêu đốt nhục thân để
cúng dường và bảo vệĐạo pháp.
Từ
một cuộc diễn hành của trên 800 vị Thượng tọa, Đại
đức, Tăng Ni và Phật tử từ chùa Phật Bửu đến chùa Xá
Lợi, khi đoàn diễn hành tiến đến ngã tư đường Phan Đình
Phùng và Lê Văn Duyệt (nay là đường Nguyễn Đình Chiểu
và CMT8), Ngài từ trên xe hơi bước xuống, tự tẩm xăng thấm
ướt mấy lớp cà sa, ngồi kiết già xuống mặt đường,
tự châm lửa giữa hằng mấy trăm Tăng Ni đang vây quanh chấp
taycầu nguyện. Ngọn lửa bốc cao, phủ kín thân mình, Ngài
vẫn an nhiênchấp taytĩnh tọa.
Gần
15 phút sau, lửa tàn và Ngài ngã xuống, tay vẫn còn quyết
ấn tam muội.
Nhục
thân của Ngài được đưa vào lò điện thiêu đến 4.000 độ
- xương thịt cháy tiêu hết. Duy chỉ có trái tim của Ngài
vẫn còn nguyên, được thiêu lần thứ hai vẫn không cháy.
Cái
chết phi phàm của Bồ Tát Thích Quảng Đức đã làm chấn
độngdư luận khắp hoàn cầu. Báo chíthế giới đăng tin
lên trang đầu cùng hình ảnhtự thiêu của Ngài. Việc Ngài
tự thiêu, được đồng bào cả nước biết ngay chiều hôm
đó, và đã gây xúc độngsâu xa trong mọi tầng lớp, không
phân biệttôn giáo. Sự hy sinh vì đạo của Ngài đã làm
cho Ngô Đình Diệm vô cùng hoảng hốt và lo sợ, tìm mọi
cách đối phó với Phật giáo bằng những thủ đoạn thâm
độc hơn, đồng thời nó cũng đẩy mạnh phong trào đấu
tranh của Phật giáocuồn cuộn như sóng thần để đi đến
kết thúc là ngày 01-11-1963 chế độ độc tài, gia đình trị
của họ Ngô sụp đổ, Phật giáo Việt Nam thoát qua một pháp
nạn.
Trước
khi tự thiêu, Ngài có để lại một bức thư gọi là “Lời
nguyện tâm huyết”, nói rõ chủ định và nguyện vọng
của Ngài. Điều đáng ghi nhớ là toàn văn bức thư này đã
không chứa đựng một mảy mayhận thù và tuyệt vọng nào,
mà trái lại còn toát lên tình thương và hy vọng:
“Tôi
pháp danh Thích Quảng Đức, trụ trì chùa Quan Thế Âm, Phú
Nhuận, Gia Định.
Nhận
thấyPhật giáo nước nhà đang lúcnghiêng ngửa, tôi là một
tu sĩ mệnh danh là Trưởng tử của Như Lai không lẽ cứ ngồi
điềm nhiên tọa thị để cho Phật giáo tiêu vong, nên tôi
vui lòngphát nguyện thiêu thân giả tạm này cúng dường chư
Phật để hồi hướng công đứcbảo tồnPhật giáo.
Mong
ơn mười phương chư Phật, chư Đại đức, Tăng Nichứng
minh cho tôi đạt thành ý nguyện sau đây:
1/
Mong ơn Phật Tổgia hộ cho Tổng thống Ngô Đình Diệm sáng
suốtchấp nhận năm nguyện vọng tối thiểu của Phật giáo
Việt nam ghi trong bản tuyên ngôn.
2/
Nhờ ơn Phật từ bigia hộ cho Phật giáo Việt Nam được
trường tồnbất diệt.
3/
Mong nhờ hồng ânđức Phậtgia hộ cho chư Đại đức, Tăng
Ni, Phật tửViệt Namtránh khỏi nạn khủng bố, bắt bớ,
giam cầm của kẻ ác gian.
4/
Cầu nguyện cho đất nước thanh bình, quốc dân an lạc...
Trước
khi nhắm mắt về cảnh Phật, tôi trân trọng kính gửi lời
cho Tổng thống Ngô Đình Diệm nên lấy lòngbác áitừ bi
đối với Quốc dân và thi hànhchánh sáchbình đẳngtôn
giáo để giữ vững nước nhà muôn thuở.
Tôi
thiết tha kêu gọi chư Đại đức, Tăng Ni, Phật tử nên đoàn
kết nhất trí để bảo toàn Phật pháp”.
NAM
MÔ ĐẤU CHIẾN THẮNG PHẬT.
Tỳ
Kheo Thích Quảng Đức Kính bạch.
Ngoài
ra, Ngài còn để lại năm bài kệ, dặn dò bổn đạo và đệ
tử sống theo Bát chánh đạo và Lục hòa, đoàn kết và giữ
vững niềm tin trong đạo pháp.
Cũng
như ở miền Trung, hai mươi năm hành đạo ở miền Nam, Ngài
đã khai sơn và đại trùng tu được 17 ngôi chùa. Cảnh chùa
cuối cùng Ngài trú trì là chùa Quan Thế Âm, tại Gia Định,
Sài Gòn.
Để
ghi nhớ công hạnh của Ngài, sau khi Giáo Hội Phật Giáo Việt
Nam Thống Nhất ra đời, Hội đồng Lưỡng viện Tăng Thống
và Hóa Đạo trong một phiên họp trước ngày Phật Đản năm
1964, đã đồng thanh quyết nghị suy tôn Ngài pháp vịBỒ
TÁT. Sau ngày đất nước thống nhất. Nhà nước dùng pháp
hiệu của Ngài đặt tên cho đường Nguyễn Huệ cũ chạy
qua trước chùa Quan Thế Âm là đường Thích Quảng Đức,
quận Phú Nhuận.
Quả
tim Bồ TátQuảng Đức là một chứng minhcụ thể cho tấm
lòng của muôn người con Phật luôn yêu chuộng hòa bình tự
do và bình đẳng nhưng cũng bất khuất trước nạn cường
quyền và áp bức. Trái tim ấy trở thànhbiểu tượngtinh
thần của Phật giáo Việt Nam và là trái tim của nhân loại
đã và đang đấu tranh mãi cho tự do hòa bình, hạnh phúcnhân
sinh.
Source:
Tiểu SửDanh TăngViệt Nam Thế Kỷ Thứ 20, Tập I, Thích
Đồng Bổn