Giao thông vận tải có ý nghĩa như thế nào đối với việc phát triển kinh tế

Vận tải là sự di chuyển hàng hóa, con người, động vật từ các địa điểm khác nhau bằng đường bộ, đường thủy, đường sắt, đường hàng không, đường thủy. Ngành giao thông vận tải được coi là một ngành dịch vụ với việc tham gia vào việc vận chuyển, cung ứng nguyên liệu, vật tư từ những cơ sở sản xuất đến các thị trường tiêu thụ, giúp cho quá trình sản xuất, cung ứng của xã hội được diễn ra bình thường.

Ngành giao thông vận tải

Tầm quan trọng của giao thông vận tải được thể hiện qua việc các cá nhân, doanh nghiệp, chính phủ vào việc tiếp cận nguồn lực. Giao thông vận tải như một cầu nối liên kết giữa các địa phương, giúp cho nhu cầu đi lại của người dân được diễn ra bình thường, những hoạt động sinh hoạt thường ngày được đáp ứng.

Mạng lưới kinh tế giữa các địa phương được đáp ứng và liên kết với nhau nhờ mạng lưới giao thông vận tải. Khi giao thông vận tải phát triển, các ngành sản xuất, dịch vụ và dân cư cũng phát triển theo. Khi mọi thứ được di chuyển xung quanh và các hệ thống giao thông vận tải phát triển theo thời gian, tốc độ và hiệu quả của các lĩnh vực này cũng được cải thiện đáng kể.

Ngành giao thông vận tải đã góp phần thúc đẩy hoạt động kinh tế, văn hóa ở nhiều địa phương, nhất là những vùng núi xa xôi, hẻo lánh, giúp cho các khoảng cách giàu nghèo tại một quốc gia được rút ngắn lại. Không những thế, nó còn tăng cường thêm sức mạnh quốc phòng, giúp cho hoạt động giao lưu kinh tế, văn hóa giữa các quốc gia trở nên dễ dàng hơn.

 Vai trò chung của ngành giao thông vận tải

Một xã hội không thể vận hành tối ưu nếu như không có các biện pháp tại điều kiện cho sự phát triển của ngành giao thông vận tải. Từ việc di chuyển đến trường học, công ty cho đến du lịch vòng quanh thế giới hay sự vận chuyển, giao các sản phẩm đến nơi đúng thời hạn đều góp phần vào sự phát triển chung của toàn nhân loại.

Với những tiến bộ và hoàn thiện của ngành giao thông vận tải việc mở rộng cự li vận tải, nâng cấp kỹ thuật, tăng tốc độ vận chuyển mà khoảng cách địa lý giữa các vùng trở nên gần hơn. Có thể nói, sự phát triển của giao thông vận tải đã tác động to lớn đến sự phân bố dân cư và các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trên toàn thế giới.

Xem thêm: Ngành Khai thác vận tải ra làm gì? Ngành học chiếm được cảm tình

Rất khó để tưởng tượng nếu như chúng ta sống trong một thế giới không có phương tiện giao thông, mọi người phải đi bộ đến nơi mình muốn. Vậy thì có lẽ xã hội đã không thể nào tiến lên được. Từ thời sơ khai, không có sự hiện hữu của công nghệ, con người đã luôn tìm cách để có thể đi đến những nơi xa xôi, đưa người, đồ vật, động vật từ nơi này sang nơi khác.

Giao thông vận tải đối với cuộc sống của dân cư

Đặc biệt, tầm quan trọng của nó trong xã hội ngày này là không thể phủ nhận được, chắc chắn rằng cuộc sống sẽ không thể diễn ra bình thường nếu như một ngày mất đi giao thông vận tải.

Giao thông vận tải đã giúp nâng cao chất lượng cuộc sống trong nhiều thế kỷ qua, thế giới hiện tại sẽ không thể phát triển nếu như khả năng chuyển mọi thứ từ địa điểm này sang địa điểm khác. Tất cả những hoạt động di chuyển, du lịch, kinh tế đều phụ thuộc vào nó.

Hàng trăm nghìn người thế thế giới dựa vào phương tiện giao thông để có thể đến chỗ làm, trường học mỗi ngày. Mọi người sẽ khó di chuyển dễ dàng như bây giờ nếu như không có sự xuất hiện của ô tô, xe bus, xe lửa, xe máy, ô tô, tàu thuyền. 

2.2. Giao thông vận tải trong kinh doanh và thương mại

Việc sử dụng các phương tiện giao thông có ảnh hưởng rất lớn đến các hoạt động phát triển kinh tế. Nhiều doanh nghiệp và ngành công nghiệp cần vận chuyển hàng hóa nhanh chóng và đảm bảo giao hàng và cung cấp nguyên liệu, sản phẩm nhanh chóng, duy trì và tạo doanh thu.

Giao thông vận tải trong kinh doanh và thương mại

Việc tiếp cận các phương tiện giao thông vận tải chất lượng, hiệu quả giúp thương mại có thể phát triển đến nhiều đối tượng, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Đồng thời, giao thông vận tải cũng mang lại rất nhiều cơ hội việc làm cho người dân. Rất nhiều vị trí trong ngành này như: Lái xe, dịch vụ giao hàng, phi công, thuyền trưởng, lái tàu,...

2.3. Giao thông vận tải trong chuỗi cung ứng

Không thể bỏ qua tầm quan trọng của việc vận chuyển trong chuỗi cung ứng hay phân phối nào. Đây là hoạt động thiết yếu trong chuỗi cung ứng để liên kết doanh nghiệp với khách hàng của mình. Với giao thông vận tải, khách hàng có thể nhận được hàng hóa của họ bất cứ khi nào và ở đâu khi muốn.

Giao thông vận tải trong chuỗi cung ứng

Một hệ thống vận chuyển yếu kém có thể dẫn đến việc không hài lòng của khách hàng, có thể là do:

- Giao hàng chậm trễ, khách hàng khiếu nại và không quay lại mua hàng, vừa tổn thất doanh thu và hình ảnh thương hiệu.

- Sản phẩm trong lúc giao bị hư hỏng khi quá thời gian giao dự kiến, sản phẩm bị vỡ do vận chuyển không cẩn thận

Ngược lại, nếu như doanh nghiệp của bạn giao hàng kịp thời với hàng hóa hoàn chỉnh, không hư hại thì khách hàng sẽ cảm thấy thỏa mãn và tin tưởng vào doanh nghiệp của bạn. Từ đó, khách hàng sẽ trở nên trung thành và lan truyền những điều tích cực về doanh nghiệp của bạn cho những người khác.

Xem thêm: [Góc giải đáp] Có nên học đại học Công nghệ Giao thông Vận tải?

2.4. Giao thông vận tải trong du lịch

Tất cả các hoạt động thương mại đều được kết nối với nhau bằng giao thông vận tải, những liên kết này có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt quả các hoạt động. Trong đó, hoạt động du lịch phụ thuộc phần lớn vào ngành giao thông vận tải. 

Giao thông vận tải trong du lịch

Thông qua vai trò của giao thông vận tải, con người và hàng hóa có thể đến những nơi mong muốn. Giao thông vận tải cho phép họ đi lại và du lịch đến những nơi bạn muốn. Nếu không có giao thông vận tải, du lịch không thể phát triển, và việc giao lưu quốc tế sẽ là một giấc mơ không thật.

Du lịch liên quan trực tiếp đến việc đi lại, các loại hình vận tải kết nối liên kết hành khách tới các điểm du lịch khác nhau bên cạnh việc vận chuyển hàng hóa và dịch vụ. Ta có thể nhận ra rằng một khi giao thông vận tải trong một vùng du lịch được cải thiện thì vùng đó có thể mở rộng du lịch và đón nhiều khách đến thăm hơn.

Để khách du lịch có thể đến được điểm đến của mình, họ cần một loạt các phương tiện giao thông mà họ có thể lựa chọn theo nhiều yếu tố như chi phí, sự thuận tiện và thời gian. Nhìn chung, sự tăng trưởng của lĩnh vực du lịch phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng giao thông đang có.

Giao thông vận tải kết nối hệ thống toàn cầu bằng cách tạo ra một mạng lưới giúp mọi người đi đến những nơi khác nhau dễ dàng hơn vì có sẵn các phương tiện giao thông. Như vậy, có thể kết luận rằng giao thông vận tải đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển du lịch.

Vai trò của ngành giao thông vận tải trong kinh tế và xã hội là không thể phủ nhận. Nó đã thâm nhập vào nhiều lĩnh vực đời sống, nếu không có giao thông vận tải thì nền kinh tế trên thế giới sẽ bị tan rã.

Việc làm giao thông vận tải, thủy lợi, cầu đường

Với tầm quan trọng của giao thông vận tải, các cơ hội nghề nghiệp trong ngành này cũng rất lớn. Hãy xem xét cơ hội việc làm giao thông vận tải, thủy lợi, cầu đường dưới đây.

Việc làm giao thông vận tải, thủy lợi, cầu đường

VAI TRÒ VÀ Ý NGHĨA CỦA NGÀNH GIAO THÔNG VẬN TẢITRONG NỀN KINH TẾ QUỐC DÂNGiao thông vận tải giữ vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế quốcdân, một nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của đất nước, nhất làtrong thời kì hiện nay. Với nhiệm vụ chủ yếu của mình, ngành GTVT đáp ứngmọi nhu cầu đi lại, giao lưu của nhân dân và vận chuyển hàng hoá trong quátrình lưu thông, đáp ứng mọi nhu cầu về đời sống vật chất – tinh thần của nhân dân. Ngành giao thông vận tải đóng một vai trò quan trọng bảo đảm tái sảnxuất của các ngành khác, từ việc vận chuyển nguyên nhiên liệu của các vùngmiền trong cả nước và giao thương cả với quốc tế. Chính trong quá trình vậntải của mình đã góp phần tiêu thụ một khối lượng lớn sản phẩm của các ngành khác. Ngành giao thông vận tải, tuy không tạo ra các sản phẩm vật chất mớicho xã hội như các ngành khác kinh tế khác song nó lại tạo ra khả năng sửdụng các sản phẩm xã hội, bằng cách đưa ra các sản phẩm đó từ nơi sản xuấtđến nơi tiêu dùng, làm cho giá trị của sản phẩm được tăng lên. Sản phẩm vậntải được do chủ yếu bằng chỉ tiêu, tấn, và tấn km, hành khách và hành kháchkm. Sản phẩm vận tải không có một khoảng cách về thời gian giữa sản xuấtvà tiêu dùng, không tồn tại độc lập ngoài quá trình sản xuất, khi quá trình sảnxuất kết thúc thì sản phẩm vận tải được sáng tạo ra trong quá trình sản xuấthợp nhất với giá trị hàng hoá được vận chuyển kết quả giá trị hàng hoá tănglên so với khi chưa vận chuyển. Chính vì vậy giảm giá trị vận chuyển tức làgiảm giá hàng hoá, đặc biệt của ngành vận tải không những vận chuyển hànghoá mà còn vận chuyển hành khách đó là một đặc điểm mà các ngành kinh tếkhác không có. Yêu cầu của vận chuyển hành khách là phải tuyệt đối an toàn,đi đến đúng giê, thái độ phục vụ hoà nhã, thoải mái khác với yêu cầu vậnchuyển hàng hoá. Vận tải là một ngành kinh tế quan trọng của nền kinh tếquốc dân, việc tổ chức phân bố và phát triển hợp lý ngành vận tải là một trongnhững động lực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế quốc dân và phục vụcho nhu cầu đi lại, giao lưu giữa các vùng kinh tế. Mối quan hệ giữa vận tảivà các ngành kinh tế khác rất sâu sắc đó là quan hệ tương hỗ lẫn nhau. Vận tảilà yếu tố cần thiết với tất cả các giai đoạn của quá trình sản xuất, các xínghiệp nhà máy là những bộ phận thống nhất của hệ thống kinh tế quốc dânchỉ có thể tiến hành sản xuất bình thường và thuận lợi trong điều kiện có sựliên hệ mật thiết qua quá trình sản xuất rất nhiều các bộ phận chuyên ngành cụthể là: Vận tải đường sắt Vận tải đường bé Vận tải đường ống Vận tải đường thuỷ Vận tải đường hàng không…Mặc dù tồn tại nhiều hình thức vận tải như vậy nhưng loại hình vận tảiđường sắt vẫn là mạch máu giao thông quan trọng số 1 của ngành giao thôngvận tải. Trong giai đoạn hiện nay các hình thức giao thông ngày càng pháttriển mạnh mẽ và cạnh tranh lẫn nhau để tìm cho mình một vị trí xứng đángtrong nền kinh tế thị trường. Ngành đường sắt vẫn khẳng định được chỗ đứngcủa mình do các đặc điểm riêng của mình và do có các ưu điểm của ngành là: - Vận tải đường sắt có tính chất thường xuyên và liên tục không bị giánđoạn không bị ảnh hưởng của thời tiết khí hậu thiên nhiên.- Vận tải đường sắt đủ năng lực đảm nhận khối lượng vận chuyển lớnvới loại hàng siêu trường siêu trọng và chạy với tốc độ cao trong vận chuyểnhàng hoá đường dài. - Đặc biệt ngành vận tải đường sắt có hệ thống an toàn cao do chạy trênđường riêng và Ýt bị ảnh hưởng của thiên nhiên đây là yếu tố đặc biệt chovận chuyển hành khách và hàng hoá. - Đối với vận chuyển hành khách, phương tiện vận chuyển bằng đườngsắt gây cảm giác thoải mái, dễ chịu hơn so với phương tiện vận chuyển khácvà có độ an toàn cao hơn, giá cước lại phù hợp và thời gian đi tàu tương đốinhanh chóng. Với sự đổi mới về trang thiết bị và phương thức tổ chức vận tải, việc tổchức phục vụ hành khách và công tác thương vụ trong chuyên chở hàng hoáđược thực hiện chu đáo nhanh chóng và thuận tiện. Với sự đóng góp to lớncủa mình ngành đường sắt thực sự là bộ phận quan trọng trong nền kinh tếquốc dân. Trong giai đoạn hiện nay nền kinh tế của đất nước đã chuyển sangnền kinh tế thị trường ngành đường sắt phải tự hạch toán và tham gia vào quátrình cạnh tranh trong công tác vận tải với các hình thức vận tải khác. Với sựđổi mới trong công tác tổ chức, với thiết bị hiện đại kết hợp thái độ phục vụlịch sự tận tình ngành đường sắt đã thuyết phục được nhiều đối tượng có nhucầu vận tải. Ngành đường sắt là một trong những doanh nghiệp nhà nước lớnnhất hiện nay, có số định viên đông nhất được phân bổ rộng khắp trong cảnước để quản lý và hoàn thành tốt nhiệm vụ vận tải. Hiên nay nền công nghiệp nước ta còn lạc hậu so với các nước tiên tiếntrên thế giới, cơ sở hạ tầng còn nghèo nàn thì ngành đường sắt lại đóng mộtvai trò lớn trong công cuộc đổi mới và phát triển nền kinh tế đất nước.Vận tải đường sắt nối liền các mối giao thông quan trọng với nhau, vậnchuyển một khối lượng hàng hoá lớn cho các nhà máy xí nghiệp từ nơi sảnxuất đến nơi tiêu dùng và chuyển chở nguyên, nhiên liệu cung cấp cho quátrình sản xuất của các nhà máy xí nghiệp và phục vụ cho xuất khẩu hàng. Đểhoàn thành được khối lượng vận chuyển hành khách và hàng hoá với chấtlượng cao, ta phải nâng cao cải tạo trang thiết bị của ngành và còn phải phốihợp nhịp nhàng công tác của các bộ phận tham gia vào quá trình sản xuất củangành như cầu đường, thông tin tín hiệu, đầu máy, toa xe, nhà ga, tổ chứcchạy tàu. CHƯƠNG IKHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ GIÁ THÀNH VÀ MÔ HÌNH TỔ CHỨC TỔNG CÔNG TY ĐƯỜNG SẮT VIỆT NAM1.1. Những vấn đề cơ bản về giá thành sản phẩm: 1.1.1. Giá thành sản phẩm:Giá thành sản phẩm là chỉ tiêu phản ánh kết quả cuối cùng của quátrình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Nólà thước đo về mặt giá trị tiêu hao lao động và lao động vật hoá để tạo ra mộtđơn vị sản phẩm hoặc hoàn thành một dịch vụ trong một thời kỳ nhất định. Giá thành vận tải cũng thế. Chức năng của ngành vận tải là sự dichuyển hàng hoá từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ và sự di chuyển hành kháchtừ nơi cần đi đến nơi cần đến. Trong quá trình lao động theo chức năng đó,sản phẩm của ngành vận tải được tạo thành bằng sự kết hợp giữa tấn hàng hoáhoặc hành khách với cự ly vận chuyển tương ứng. Chính vì vậy sản phẩm củangành vận tải là Tấn. Km hoặc Hành khách. Km.Từ định nghĩa tổng quát về giá thành sản phẩm thì giá thành vận tải làchi phí vận tải tính trên một đơn vị sản phẩm tương ứng và suy ra ta có: + Giá thành vận chuyển hàng hoá là chi phí vận tải tính trên một đơn vịsản phẩm vận tải hàng hoá [Tấn. Km].+ Giá thành vận chuyển hàng hoá là chi phí vận tải tính trên một đơn vịsản phẩm vận tải hàng hoá [Tấn.Km]. + Giá thành vận chuyển hành khách là chi phí vận tải tính trên một đơnvị sản phẩm vận tải hành khách [Hành khách Km]. + Giá thành vận chuyển tính đổi là chi phí vận tải tính trên một đơn vịsản phẩm tính đổi bao gồm cả hàng hoá và hành khách [Tấn Km tính đổi]. Từ các loại giá thành trên, công thức tổng quát để tính giá thành là: C = Tổng chi phí của loại vận chuyển i [E1] Tổng số sản phẩm loại vận chuyển i [Pli][đồng/đơn vị sản phẩm i]Trong đó: i là loại vận chuyển hàng hoá hoặc hành khách hoặc tính đổiCông thức này biểu thị nội dung kinh tế tổng hợp. Bởi vì tổng chi phívận tải [Ei] có mối liên hệ chặt chẽ với sản phẩm vận tải [Pli] đó là hai mặtcủa một vấn đề thống nhất. Hiện vật là cơ sở để xác định giá trị, còn giá trị làtấm gương phản ánh hiện vật trong những điều kiện sản xuất nhất định. Côngthức trên còn phản ánh mối quan hệ giữa người với người và giữa người vớiphương tiện thiết bị vận tải. Phấn đấu không ngừng giảm giá thành là yêu cầu chủ yếu đối với cácdoanh nghiệp vận tải nói riêng và các ngành kinh tế nói chung. Vì giá thànhliên quan chặt chẽ với các chỉ tiêu hiệu quả cuối cùng của sản xuất kinh doanhđó là lợi nhuận. Việc tính toán giá thành vận tải rất khác nhau giữa các loại doanhnghiệp vận tải. Nó phụ thuộc nhiệm vụ sản xuất của doanh nghiệp, nó phụthuộc vào cơ sở vật chất vàa trang thiết bị sản xuất của doanh nghiệp, phụthuộc vào các đặc thù riêng biệt của mỗi loại doanh nghiệp, phụ thuộc vào nộidung và kết cấu chi phí sản xuất vận tải của doanh nghiệp v…v. 1.1.2. Đặc điểm giá thành của các ngành vận tải:Trong quá trình tổ chức sản xuất vận tải, mỗi ngành vận tải có một cáchtổ chức sản xuất khác nhau và cách tổ chức sản xuất đó xuất hát từ đặc điểmcủa mỗi ngành vận tải. Đặc điểm tổ chức sản xuất khác nhau dẫn đến đặcđiểm chi phí trong quá trình sản xuất của các ngành vận tải cũng khác nhau vàtừ đó đặc điểm giá thành của mỗi ngành vận tải cũng khác nhau.Đặc điểm về tổ chức sản xuất của ngành đường sắt là một Liên hiệp cácxí nghiệp vận tải bao gồm các chuyên ngành nh: Đầu máy, Toa xe, Vậnchuyển. Trước năm 1995 chưa tách khối cơ sở hạ tầng, khối vận tải cònchuyên ngành Cầu đường và Thông tin tín hiệu. Và chỉ có sự liên hiệp hànhđộng giữa các ngành theo chuyên ngành mới tạo ra được sản phẩm vận tải củangành đường sắt.Sự liên hiệp hành động đó càng nhuần nhuyễn bao nhiều, năng suất laođộng trong quá trình vận chuyển của ngành đuăờng sắt càng cao bấy nhiêu vàtừ đó giá thành vận tải càng giảm bấy nhiêu.Khác với ngành vận tải đường sắt, ngành vận tải ô tô, ngành vận tảiđường sông, đường biển và hàng không trong quá trình tổ chức sản xuất ramột đơn vị sản phẩm được mang tính độc lập tương đối so với ngành vận tảiđường sắt. ở các ngành vận tải này các xí nghiệp vận tải đều là các doanhnghiệp tròn, trong khi doanh nghiệp vận tải đường sắt là một tổ chức, xínghiệp dài mang tính chất liên hiệp vận tải.Từ khi cơ chế quản lý kinh tế chuyển sang nền kinh tế thị trường, đểtạo ra sự cạnh tranh bình đẳng giữa các hình thức vận tải. Nhà nước đã táchkhối cơ sở hạ tầng đường sắt ra khỏi khối vận tải và hạch toán bằng nguồnvốn sự nghiệp kinh tế. Khối vận tải sử dụng phần cơ sở hạ tầng đường sắt vàoquá trình sản xuất phải trả lệ phí cơ sở hạ tầng trước mắt bằng 10% doanh thuvận tải. Vì vậy về đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh vận tải của các ngànhvận tải gần tương tự nhau, mặc dù phần cơ sở hạ tầng đường sắt chỉ có ngànhđường sắt sử dụng, không như phần cơ sở hạ tầng của đường bộ, đường sông,đường biển được sử dụng chung với các ngành kinh tế khác. Chính sù thay đổi này đã dẫn đến đặc điểm tổ chức sản xuất vận tải vàchi phí phản ánh đối với mỗi hình thức vận tải gần tương tự nhau. Sự khácnhau chỉ còn ở mức độ đóng góp trong phần sử dụng cơ sở hạ tầng, phần chiphí tham gia bảo hiểm phương tiện vận tải, bảo hiểm hành khách đi lại và cácbảo hiểm khác. Từ những thay đổi trong kết cấu chi phí vận tải của ngành đường sắt đãtạo ra chi phí vận tải phản ánh ở mỗi hình thức vận tải gần tương tự nhau. Từđó tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng giữa các hình thức vận tải trong nền kinh tếthị trường. 1.1.3 Nguyên tắc tính giá thành ở các xí nghiệp công nghiệp: Sở dĩ trước khi nghiên cứu giá thành vận tải đường sắt ta cần phảinghiên cứu giá thành sản phẩm công nghiệp vì: Ngành vận tải đường sắt cũnglà ngành sản xuất vật chất như các xí nghiệp công nghiệp, đồng thời tính chấtsản xuất, chi phí sản xuất và việc hạch toán chi phí của ngành vận tải đườngsắt có những mặt phức tạp riêng của nó, song trước khi nghiên cứu nó ta cầnphải nghiên cứu giá thành sản phẩm công nghiệp để làm cơ sở cho nghiên cứugiá thành vận tải. Và khi đó ta xem ngành vận tải đường sắt như một liên hiẹpcác xí nghiệp sản xuất phức tạp với nhiều loại sản phẩm. Khi đó việc nghiêncứu giá thành vận tải đường sắt sẽ dễ dàng hơn. Cơ sở chung tính giá thành:Tuỳ theo mục đích tính toán và đặc điểm của số liệu mà việc tính toángiá thành sản phẩm được phân chia làm kế hoạch và giá thành thực hiện [haygiá thành quyết toán]. Mục đích của việc tính giá thành kế hoạch là dự kiến giá thành sảnphẩm kế hoạch trước khi thực hiện kế hoạch. Giá thành này để kiểm tra chấtlượng kế hoạch đã lập ra. Giá thành kế hoạch cần phải xét đến các biện pháphợp lý hoá sản xuất trong thời kỳ kế hoạch, qua đó mà xác định khối lượngnhiệm vụ sản xuất. Đồng thời giá thành kế hoạch cũng cần phải dùa vào cácchi phí thực tế ở thời kỳ trước, sau khi tiến hành phân tích và tính toán cáckhả năng giảm chi phí sản xuất loại bỏ những chi phí không hợp lý, khôngcần thiết động viện các nguồn kinh phí dự trữ sẵn có của doanh nghiệp. Tính toán giá thành thực hiện là tính toán giá thành sau khi kết thúcthời kỳ kế hoạch. Cơ sở tính toán là các số liệu quyết toán và thống kê thựchiện. Mục đích của việc tính toán giá thành thực hiện là để đánh giá kết quảhoạt động kinh tế của doanh nghiệp, kiểm tra việc hợp lý hoá chi phí trongsản xuất, đánh giá hiệu suất sử dụng trang thiết bị và tìm ra các biện pháp đểtiếp tục hạ giá thành.Tuỳ theo tổng số lượng chi phí dùng để tính giá thành sản phẩm màngười ta còn chia giá thành làm 3 loại: Giá thành xí nghiệp, giá thành thươngnghiệp và giá thành phân xưởng. Giá thành xí nghiệp bao gồm cả các chi phí sản xuất và các tạp phí đểsản xuất ra sản phẩm của xí nghiệp. Giá thành thương nghiệp là ngoài các chi phí này còn tính cả những chiphí cho tiêu thụ sản phẩm. Giá thành phân xưởng khác với giá thành xí nghiệp ở chỗ chỉ kể nhữngchi phí ở trong phân xưởng đó. Những chi phí chung của xí nghiệp không tínhvào giá thành phân xưởng. Phương pháp tính giá thành sản xuất hàng loạt và giá thành riêng lẻkhác nhau về cơ bản. Đối với sản xuất hàng loạt áp dụng phương pháp tình hàng loạt hayphương pháp chung còn sản xuất đơn chiếc áp dụng phương pháp tính toántheo đơn đặt hàng hay riêng lẻ. Đối tượng của phương pháp tính hàng loạt làtất cả số sản phẩm được sản xuất trong suốt thời gian nghiên cứu. Còn đốitượng của phương pháp tính đơn chiếc là tính theo đơn đặt hàng một sảnphẩm cụ thể mà xí nghiệp sản xuất, không phụ thuộc vào thời gian bắt đầu vàkết thúc công việc. Đặc điểm và tính chất của quá trình sản xuất sản phẩm của doanhnghiệp sẽ ảnh hưởng đến phương pháp tính giá thành sản phẩm. Nghĩa là nóphụ thuộc vào doanh nghiệp sản xuất một hay nhiều sản phẩm và quá trìnhsản xuất sản phẩm là giản đơn hay phức tạp phải qua nhiều giai đoạn haycông đoạn sản xuất riêng biệt.1.1.4. Tính toán giá thành ở các xí nghiệp công nghiệpĐể phân biệt các phương pháp tính giá thành sản phẩm xí nghiệp côngnghiệp, ta nghiên cứu phương pháp tính giá thành sản phẩm hàng loạt khi: - Sản xuất giản đơn với 1 loại sản phẩm - Sản xuất giản đơn với nhiều loại sản phẩm - Sản xuất phức tạp với 1 loại sản phẩm - Sản xuất phức tạp với nhiều loại sản phẩm Ngoài ra còn nghiên cứu các đặc điểm khi tính giá thành đơn chiếc, giáthành phân xưởng khi hạch toán và giá thành thương nghiệp.a, Xí nghiệp sản xuất giản đơn một loại sản phẩm:Giá thành sản phẩm của xí nghiệp sản xuất giản đơn một loại sản phẩmđược xác định bằng cách chia toàn bộ chi phí E cho số lượng sản phẩm P sảnxuất trong thời gian đó và giá thành sản phẩm C được xác định bằng côngthứcC=Khi tính toán giá thành kế hoạch cần xác định trước chi phí kế hoạchcần thiết để chia cho số lượng sản phẩm kế hoạch sản xuất. Phần chi phí kếhoạch này còn cần phải xác định theo các yếu tố chi, để khi cần còn phải xácđịnh giá thành đối với từng yếu tố chi. Việc tính giá thành sản phẩm sẽ trở nên phức tạp khi có một sản phẩmdở dang không kết thúc ngay trong thời kỳ kế hoạch hoặc ngược lại có một sốsản phẩm được tiến hành sản xuất từ thời kỳ kế hoạch trước chuyển sang đểtiếp tục quá trình sản xuất. Đối với các trường hợp như vậy cần phải giảm đitoàn bộ các chi phí dùng để sản xuất các sản phẩm chưa hoàn thành trong thờigian nghiên cứu và cộng thêm các chi phí đã sử dụng để sản xuất các sảnphẩm được bắt đầu từ thời kỳ trước chưa hoàn thành chuyển sang. Đem chiatoàn bộ chi phí này cho số lượng sản phẩm được hoàn thành trong suốt thờikỳ kế hoạch này ta sẽ được giá thành sản phẩm của xí nghiệp sản xuất giảnđơn khi có các sản phẩm chưa hoàn thành.b, Xí nghiệp sản xuất giản đơn, sản xuất một vài loại sản phẩm:Trong xí nghiệp sản xuất một số loại sản phẩm, khi tính toán giá thànhsản phẩm, người ta phân bổ thẳng phần chi phí trực tiếp dùng để sản xuất sảnphẩm nào vào loại sản phẩm đó, còn phần chi phí chung cho các loại sảnphẩm bằng cách phân chia theo một tỷ lệ nào đó thông qua một chỉ tiêu trunggian nào đó. Việc phân bổ đúng các chi phí này vào các loại sản phẩm là rấtkhó khăn và không thể qui định thống nhất đối với các loại chi phí này, càngkhông thể qui định thống nhất đối với tất cả các xí nghiệp. Thực tế, có một số chi phí phụ thuộc vào số lượng tiền lương của côngnhân trực tiếp sản xuất, một số chi phí khác lại phụ thuộc vào thời gian hoạtđộng của máy móc thiết bị như chi phí khấu hao và sửa chữa thường xuyên,song lại có một số chi phí phụ thuộc vào số lượng vật liệu, nguyên liệu để sảnxuất sản phẩm như chi phí vận tải nội bộ xí nghiệp v…v.Vì vậy để có được kết quả đúng đắn cần phải nghiên cứu một cách cụthể đối với từng loại chi phí chung này để lùa chọn ra một chỉ tiêu trung gianthích hợp nhất để phân bổ các chi phí này vào từng loại sản phẩm. Cần thiếtcó thể lùa chọn các chỉ tiêu trung gian phù hợp theo từng khoản mục chi đểphân bổ vào từng loại sản phẩm nhất định. Song trong thực tế đơn gian việc phân bổ vào từng loại sản phẩm cácchi phí chung này đa số các trường hợp dùng tỷ lệ tiền lương của công nhântrực tiếp khi tham gia vào sản xuất các sản phẩm. Những chi phí chung tạiphân xưởng chỉ tính vào giá thành sản phẩm của phân xưởng đó. Còn chi phíchung cả xí nghiệp được tính vào tất cả các loại sản phẩm của xí nghiệp. c. Xí nghiệp sản xuất phức tạp, sản xuất 1 loại sản phẩm: Xí nghiệp sản xuất phức tạp 1 loại sản phẩm có nghĩa là quá trình sảnxuất của xí nghiệp được chia làm nhiều giai đoạn kế tiếp nhau, mỗi giai đoạntạo ra các bán thành phẩm được dùng trong sản xuất cho giai đoạn tiếp theo.Tại mỗi giai đoạn sản xuất có số lượng bán thành phẩm và số lượng sản phẩmở giai đoạn cuối cùng không cần đối với nhau. Nói cách khác số lượng cácbán thành phẩm ở mỗi giai đoạn và sản phẩm ở giai đoạn cuối cùng trong thờigian nghiên cứu là không bằng nhau. Các bán thành phẩm này sẽ được bù trừhoặc đưa vào dự trữ từ các thời gian nghiên cứu trước đây. Do đó khi tính toán giá thành sản phẩm đối với xí nghiệp sản xuất phứctạp, ta cần phải đi xác định giá thành các bán thành phẩm trong mỗi giai đoạnsản xuất. d, Xí nghiệp sản xuất phức tạp, sản xuất nhiều loại sản phẩm:Phương pháp tính toán giá thành đối với xí nghiệp sản xuất phức tạp,sản xuất nhiều loại sản phẩm, cũng được tính toán theo phương pháp tương tùnh các ví dụ trên. Các chi phí chung của xí nghiệp và bán sản phẩm cũng dùatrên các nguyên tắc phân bổ đã nêu ở trên. e, Tính giá thành đối với sản phẩm đơn chiếc:Để tính giá thành sản phẩm đơn chiếc xí nghiệp phải mở phiếu theo dõichi phí sản xuất sản phẩm ngày từ khi nhận được đơn đặt hàng sản xuất đếnkhi hoàn thành sản phẩm này. Vì thời kỳ tính toán sản xuất sản phẩm khôngtrùng với thời kỳ kế hoạch tính toán, mà có thể bắt đầu sản xuất ở thời kỳ nàykết thúc ở thời kỳ sau. Trong phiếu theo dõi ghi tất cả các chi phí trực tiếp dùng để sản xuấtsản phẩm này kể cả các chi phí đối với vật liệu, sản phẩm dở dang và chi tiếtcòn thừa trả lại kho. Để tránh quá nhiều việc tính toán các chi phí chung đối với các xínghiệp sản xuất nhiều sản phẩm đơn chiếc, các chi phí chung được phân bổvào các sản phẩm đơn chiếc này không phải ghi hàng tháng mà có thể ghihàng quí hoặc khi hoàn thành sản phẩm. Khi đó tổng kết tất cả các chi phí liênquan đến sản xuất sản phẩm đơn chiếc này. 1.1.5. Đặc điểm tính giá thành đối với phân xưởng bổ trợ, phân xưởng hạch toán:Sản xuất bổ trợ là công việc sản xuất có liên quan đến sản xuất chính vàmục đích của nó là phục vụ cho sản xuất chính nh: phân xưởng cơ điện, phânxưởng phụ tùng. Phương pháp tính giá thành sản phẩm của sản xuất bổ trợ thực chấtcũng giống nh đối với sản xuất chính, kể cả phân xưởng bổ trợ sản xuất 1 loạisản phẩm hoặc nhiều loại sản phẩm. Các chi phí trực tiếp được đưa trực tiếpvào từng loại sản phẩm, còn chi phí chung phân xưởng bổ trợ được phân bổvào các loại sản phẩm theo tỷ lệ tiền lương trực triếp sản xuất từng loại sảnphẩm bổ trợ hoặc theo tỷ lệ chi tiêu trung gian được lùa chọn để phân bổ. Khi tính giá thành sản phẩm sản xuất bổ trợ theo yêu cầu chính của xínghiệp thì chỉ tính phần chi phí chung của phân xưởng bổ trợ cho sản phẩm. Cònchi phí chung của xí nghiệp cho phép không tính vào các sản phẩm bổ trợ. Giá thành sản phẩm là một trong các chỉ tiêu chất lượng quan trọng củaphân xưởng hạch toán. Khi chuyển các phân xưởng sang hạch toán kinh tế,trước hết phải qui định các chỉ tiêu sản phẩm mà nó dùng làm đơn vị để tính.Việc lùa chọn chỉ tiêu sản phẩm để tính toán phụ thuộc vào tính chất công táccủa phân xưởng. Nếu phân xưởng tự nó sản xuất ra sản phẩm hay từng chi tiếtcủa sản phẩm, thì chỉ tiêu sản phẩm chính là tên gọi của sản phẩm hay chi tiết.Còn phân xưởng chỉ tham gia làm một phần tác nghiệp sản xuất sản phẩm thìsẽ lấy chỉ tiêu sản phẩm qui ước nào đó. Hoặc phân xưởng nhận gia công lạicác bán thành phẩm từ phân xưởng hạch toán khác theo trình tự sản xuất củaxí nghiệp, thì có thể tính giá thành bán thành phẩm nếu không tính giá thànhthì chỉ xác định phần tham gia của phân xưởng này trong chi phí của xínghiệp sản xuất sản phẩm. 1.1.6. Tính giá thành thương nghiệp:Trong giá thành thương nghiệp, ngoài những chi phí đã được tính tronggiá thành xí nghiệp, còn phải tính thêm cả phần chi phí tiêu thụ sản phẩm.Phần chi phí này bao gồm các chi phí đóng gói bao bì, vận tải các sản phẩm,bảo quản và chi phí của nhân viên làm công tác tiêu thụ sản phẩm.Trường hợp phải tính giá thành thương nghiệp cho từng loại sản phẩmthì phần chi phí vận tải được tính trực tiếp cho từng loại sản phẩm, còn cácchi phí khác có thể phân bổ cho từng loại sản phẩm theo tỷ lệ giá thành sảnxuất của xí nghiệp hoặc theo tỷ lệ tiền lương công nhân trực tiếp. Trường hợp không thể tính chi phí vận tải trực tiếp cho từng loại sảnphẩm có thể phân bổ chi phí vận tải theo tỷ lệ trọng tải đối với từng loại sảnphẩm. Hoặc trong trường hợp chi phí sản xuất sản phẩm và chi phí tiêu thụkhông cùng trong thời gian tính toán, khi đó cho phép các chi phí thươngnghiệp tính bằng chi phí thực tế ở thời kỳ sản xuất sản phẩm này. 1.2. Giới thiệu tổng công ty đường sắt Việt Nam: Đường sắt Việt Nam được bắt đầu xây dựng từ năm 1881, trải quanhiều giai đoạn thăng trầm với nhiều mục đích khác nhau phụ thuộc vào chếđộ chính phủ. Nhìn chung nó phát triển không ngừng về trang thiết bị,phương tiện tổ chức khai thác. Ngày 10/04/1990, Bé giao thông vận tải quyết định chuyển Tổng cụcđường sắt thành Liên hiệp đường sắt Việt Nam trực thuộc Bộ giao thông vậntải < Quyết định số 575 – QĐ - TCCB/CD> Để phù hợp với sự phát triển nền kinh tế thị trường, ngày 04/03/2003Thủ tướng chính phủ đã có quyết định số 34/2003/QĐ - TTG về việc thànhlập Tổng công ty đường sắt Việt Nam. Tổng công ty đườg sắt Việt Nam làTổng công ty nhà nước hoạt động kinh doanh và thực hiện nhiệm vụ quảnlý,khai thác, bảo trì hệ thống kết cấu hạ tầng đường sắt do Nhà nước giao, cótư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự theo luật định. 1.2.1. Cơ cấu tổ chức của Tổng công ty Đường sắt Việt Nam - Hội đồng quản trị - Tổng giám đốc và bộ máy giúp việc - Các đơn vị thành viên A. Doanh nghiệp nhà nước hạch toán độc lập A1. Doanh nghiệp nhà nước giữ nguyên pháp nhân, nhà nước nắm giữ100% vốn điều lệ gồm có 15 doanh nghiệp quản lý đường sắt và 5 doanhnghiệp thông tin tín hiệu đường sắt. A2. Doanh nghiệp chuyển sang công ty trách nhiệm hữu hạn một thànhviên gồm có 4 công ty, đó là Công ty xe lửa Gia Lâm, Công ty toa xe HảiPhòng, Công ty toa xe Dĩ An, Công ty tư vấn đầu tư xây dựng đường sắt. A3. Doanh nghiệp sẽ tiến hành cổ phần hoá gồm có 8 doanh nghiệpNhà nước nắm quyền chi phối, 10 doanh nghiệp nhà nước nắm Ýt nhất 51%cổ phần khi bán cổ phiếu lần đầu và 5 doanh nghiệp nhà nước nắm giữ cổphần thường hoặc không nắm giữ cổ phần.B. Doanh nghiệp hạch toán phụ thuộc:B1. Công ty vận tải hành khách đường sắt Hà Nội B2. Công ty vận tải hành khách đường sắt Sài Gòn B3. Công ty vận tải hàng hoá đường sắt B4. Liên hiệp sức kéo đường sắt Việt NamC. Các đơn vị sự nghiệp gồm 6 đơn vị các trường và các ban quản lý dựán. D. Văn phòng đại diện: D1. Văn phòng đại diện Tổng công ty đường sắt tại miền Trung D2. Văn phòng đại diện Tổng công ty đường sắt Việt Nam tại BắcKinh [Trung Quốc].E. Công ty cổ phần vốn góp của Tổng công ty E1. Công ty cổ phần khách sạn Hải Vân E2. Công ty cổ phần dịch vụ vận tải đường sắt khu vực IE3. Công ty cổ phần vận tải và thương mại đường sắt G. Công ty liên doanh: Công ty dịch vụ du lịch đường sắt Hà Nội. C CU T CHC CA TNG CễNG TY NG ST VIT NamThủ t ớng Chính phủBộ giao thông vận tải Các cơ quan ngang bộ Tổng công ty đ ờng sắt Việt NamHội đồng quản trị Ban kiểm soátTổng giám đốcKế toán tr ởngCác ban tham m u và văn phòng đại diện Trung tâm điều hành vận tảiDNNN hạch toán độc lập DNNN hạch toán phụ thuộcCác đơn vị sự nghiệp 1.2.2. Đặc điểm, vai trò của ngành vận tải đường sắt Việt NamVận tải đường sắt là ngành vận tải xuất hiện tương đối sớm so với mộtsố ngành vận tải khác nh ôtô, hàng không… và nó có một số đặc điểm sau: - Có thể vận chuyển một khối lượng lớn và tập trung, rất thích hợp vớimột số nước có nền đại công nghiệp và công nghiệp khai khoáng. - Có năng lực vận chuyển lớn, một độ chạy tầu cao thường xuyên liêntục tốc độ vận chuyển tương đối nhanh. - Có sở trường trong vận chuyển đường dài và có khả năng đáp ứngđược mọi yêu cầu trong công tác vận chuyển hàng hoá và hành khách. - Độ an toàn trong công tác vận chuyển cao, tỉ lệ tai nạn thấp nhất sovới các phương tiện khác. - Giá thành vận chuyển tương đối thấp, nhất là trên các tuyến có mật độvận chuyển lớn thì giá thành còn thấp hơn nhiều. - Trong công tác vận chuyển hành khách còn có ưu điểm hơn hẳn cácloại vận tải khác là thoải mái, thuận tiện và thích hợp với hình thức du lịchđang có xu hướng ngày càng tăng. - Vận tải đường sắt Ýt gây ô nhiễm môi trường và hệ sinh thái so vớiôtô và hàng không.Mặt khác nó cũng có một số nhược điểm nh:- Ngành vận tải đường sắt đồi hỏi vốn đầu tư lớn và thời gian thu hồivốn đầu tư lâu, nhất là đối với đường sắt điện khí hoá thì vốn đầu tư còn lớnhơn nhiều. - Sù linh hoạt cơ động thua kém vận tải ôtô vì số điểm đỗ theo quyđịnh, đó là các nhà ga và cũng không thể đi sâu và len lỏi vào tất cả các điểmdân cư và khu vực, sản xuất, và cần phải có các phương tiện vận chuyểnđường ngắn khác đưa đến các ga để vận chuyển. - Tốc độ vận chuyển không nhanh bằng hàng không, ngay cả trênđường sắt cao tốc… Sự cạnh tranh về tốc độ chỉ hơn vận tải ôtô khi chạy trêncự ly trung bình và xa.Cơ sở vật chất của ngành vận tải đường sắt Việt Nam hiện nay gồm có6 tuyến đường với tổng chiều dài 2561km trong đó 2115km khổ đường 1 mét,166km khổ đường 1345 và 223 km đường lồng, tuyến dài nhất là tuyếnThống Nhất 1730km. Tất cả có 1335 chiếc cầu dài 42136m, tuyệt đại bộphận là cây cầu thép trong tình trạng xấu, cũ, có một số cầu tạm và kinh phícho công tác duy tu không đủ nên đã dẫn tới 164 chiếc cầu hạn chế tốc độchiếm khoảng 30% tổng chiều dài các cầu, đặc biệt cầu Long Biên là cấp báchnhất. 39 hầm với chiều dài 10760m, các hầm hầu hết có nhiết vết nứt ở líp áogây nguy hiểm và đe doạ an toàn đoàn tầu bất cứ lúc nào. Cấu tạo đường sắtkhông đồng đều, nhiều đoạn thiếu ba bú, tà vẹt, 40% vẫn còn loại ray 27 –30kg/m. Số còn lại là ray tiêu chuẩn P.43 [43 kg/m]. Tín hiệu tự động quanh khu đầu mối Hà Nội, bán tự động trên một sốtuyến như: Hà Nội – Hải Phòng, Hà Nội – Thành phố Hồ Chí Minh… còn lạitrên 70% vẫn là thẻ đường. Có thể nói tín hiệu quá cũ kỹ lạc hậu, tuy điềunày không có nghĩa là đe doạ đến an toàn chạy tầu mà chủ yếu là ảnh hưởngđến tốc độ chạy tầu và năng lực của tuyến về thông tin không đạt yêu cầu, sovới ngành bưu điện thì quá lạc hậu. Hiện tại ngành đường sắt có 507 đầu máy các loại, trong đó 2/3 đangtrong điều kiện hoạt động còn 1/3 đang chờ sửa chữa và thanh lý. Hiện tạikhông thiếu số lượng đầu máy, song thiếu đầu máy có công suất lớn từ 100mã lực trở lên. Đầu máy do nhiều nước chế tạo nên dẫn đến kết quả là phụtùng thay thế sửa chữa rất khó kiếm. Có 947 tao xe khách, trong đó cũng chỉcó 2/3 đang hoạt động được. Với 4986 toa xe hàng 1m và 695 toa xe 143,5trong đó chỉ có 3545 xe 1m và 300 xe 1435 đang trong điều kiện khai thácđược. Với số lượng tao xe hàng và khách đủ để hoàn thành nhiệm vụ vậnchuyên hiện nay, tuy nhiền trong những tháng cao điểm [các chiến dịch vậnchuyển hành khách trong những ngày lễ tết thì 0 thì thiếu cả toa xe lẫn đầumáy. Các cơ sở sửa chữa toa xe đầu máy năng lực khá như xe lửa Gia Lâm thìcó thể đại tu 600 xe hàng và khách mỗi năm, song hiện tại không khai tháchết năng lực. Tuy nhiên lại thiếu đồng bộ, chưa sản xuất chế tạo được giáchuyển, vòng bi. Năng lực thông qua các tuyến còn dư thừa nhiều, hầu hết mới sử dụng40% đến 50%. Riêng tuyến Hà Nội –Vinh đã sử dụng tới 70%, song cá biệtcó tuyến mới sử dụng 15%. Việc tồn tại hai khổ đường 1m và 1435 đã gâynhiều trở ngại nhiều cho công tác khai thác. Mặc dù trong thông tư 46 củaThủ tướng chính phủ khẳng định tất cả chuyển về khổ đường 1m, song vẫnkhông có đủ kinh phí để thực hiện điều này. Vấn đề tiếp cận thị trường đang là một tồn tại lớn hiện tại. Tuy ngànhđường sắt đã có bộ phận kinh tế thị trường song vẫn chưa phát huy hết chứcnăng và nhiệm vụ của nó. Vẫn đề khó khăn nghiêm trọng nhất là vấn đề thiếunguồn tài chính để hiện đại hoá ngành đường sắt để có đủ sức cạnh tranh vớicác phương tiện vận tải khác. Vì ngành đường sắt muốn hiện đại hoá đòi hỏiphải có vốn đầu tư lớn, nhưng do khả năng thu hồi vốn chậm nên điều kiệnthu hót vốn đầu tư nước ngoài sẽ khó khăn hơn. Đại hội Đảng toàn quốc lần thtứ 8 đã đề ra mục tiêu đến năm 2002 là: “Tiếp tục nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảovệ tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá”. Mục tiêu của côngnghiệp hoá và hiện đại hoá là biến nước ta thành một nước công nghiệp có cơsở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ,phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất vàtinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giầu nước mạnh, xã hộicông bằng văn minh. Trong vài chục năm, từ nay đến khoảng 2020 ra sứcphấn đấu để biến nước ta về cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Với mụctiêu là: đổi mới công nghệ của phần lớn các doanh nghiệp, phát triển nhanhmột số ngành và một số lĩnh vực có lợi thế, hình thành một số ngành mòinhọn như: Chế biến lương thực thực phẩm, khai thác và chế biến dầu khí,công nghiệp điện tử, công nghệ thông tin và một số ngành cơ khí chế tạo.Hình thành các khu công nghiệp tập trung [bao gồm cả khu chế xuất và khucông nghiệp cao], tạo địa bàn thuận lợi cho xây dựng các cơ sở công nghiệpmới. Để có thể thực hiện được các mục tiêu trên thì cần phải tăng cường việcxây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng giao thông vận tải, trong đó đặc biệt phảikể đến vận tải đường sắt, nó cần được củng cố nâng cấp mạng đường sắt hiệncó. Trước mắt cần tập trung ở các tuyến có khối lượng vận chuyển lớn nh: HàNội – Thành phố Hồ Chí Minh, sau đó là các tuyến Hà Nội – Lào Cai và HàNội – Hải PHòng. Các tuyến này nằm trên 2 trục đường Bắc Nam và ĐôngTây, nối liền hầu hết các vùng kinh tế, các vùng đồng bằng Bắc Bộ và NamBộ, các khu vực công nghiệp và khai khoáng trong cả nước. Nó là chiếc cầunối liền giữa sản xuất và tiêu thụ, giữa các thành phố với nhau, giữa nôngthôn với thành thị, giữa miền ngược với miền xuôi, không những thế, nó cònđóng vai trò quan trọng về an ninh quốc phòng, vận chuyển nhanh chóng antoàn bí mật vũ khí, khí tài. Đặc biệt ngày nay trong tình hình kinh tế mở nócòn giữ vai trò quan trọng trong giao lưu kinh tế văn hoá giữa các nước trongkhu vực đặc biệt là: Trung Quốc, Lào, Campuchia và các nước ASEAN. Mạng lưới đường sắt không thể sắp đặt tuỳ ý của ngành đường sắt màphải nằm trong chiến lược chung của nền kinh tế, xã hội, quốc phòng của đấtnước, nhằm mục đích đưa nền kinh tế Việt Nam ngày càng phát triển để trởthành nước công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Muốn vậy về mạng đường sắt vàcơ sở hạ tầng của nó phải đảm bảo các yêu cầu sau: Thoả mãn tối đa các yêucầu vận chuyển của nền kinh tế và xã hội với tốc độ phát triển nhanh. Trongmột thời gian ngắn nhất có thể đuổi kịp trình độ của đường sắt các nước tiêntiến trong khu vực. Đảm bảo an toàn chạy tầu và có các chỉ tiêu kinh tế kỹthuật tiên tiến. Với mạng lưới đường sắt được cải tạo và nâng cấp còng nh xâydựng mới qua các thời kỳ sẽ tạo nên một mạng lưới hoàn chỉnh hợp lý ở cáckhu vực và vùng kinh tế công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Song việc quyếtđịnh rất quan trọng trong khai thác và kinh doanh vận tải có hiệu quả haykhông còn phải kết đến phương tiện vận tải và các thiết bị phục vụ. Nếu đầutư đúng và thoả đáng thì sẽ đạt được các mục tiêu, thu hót được khách hàngvà chủ hàng, giảm giá thành, an toàn chạy tầu và cạnh tranh thắng lợi. 1.3. Giới thiệu công ty vận tải hàng hoá đường sắt Công ty vận tải hàng hoá đường sắt được thành lập theo quyết định số02/QĐ/ĐS – TCCB – LĐ, ngày 07/07/2003 của hội đồng quản trị Tổng côngty đường sắt Việt Nam, là doanh nghiệp Nhà nước hạch toán phụ thuộc Tổngcông ty đường sắt Việt Nam. Công ty có tư cách pháp nhân, co các quyền vànghĩa vụ dân sự theo luật định, tự chịu trách nhiệm về hoạt động khai tháckinh doanh vận tải đường sắt, có con dấu riêng, có tài sản, được mở tài khoảntại các ngân hàng trong nước và nước ngoài theo quy định của pháp luật, đượctổ chức và hoạt động theo điều lệ của Công ty.Công ty có trụ sở chính và đặt tại 130 đường Lê Duẩn, thành phố Hà Nội.Công ty có các nhiệm vụ chính sau đây:* Thực hiện nhiệm vụ khai thác kinh doanh vận tải hàng hoá, tham giavận tải hành khách, vận tải đa phương thức trong nước và liên vận quốc tế.Bảo dưỡng, khám chữa, chỉnh bị và sửa chữa đầu máy toa xe, các thiết bị vàcơ sở vật chất kỹ thuật được Tổng công ty giao.Đề xuất các phương án cảitạo, thiết kế, chế tạo, đóng mới đầu máy toa xe, phương tiện máy móc, thiết bịchuyên dùng. Tổ chức quản lý công tác nghiệp vụ chạy tầu hàng, công tácgiao tiếp kỹ thuật, thương vụ, bảo quản, xếp dỡ giao nhận hàng hoá. Cung cấpđầu máy theo kế hoạch của Tổng công ty, tổ chức triển khai và phối hợp chặtchẽ với các đơn vị hữu quan trong và ngoài ngành đường sắt để thực hiệncông tác cứư chữa và đảm bảo an toàn giao thông vận tải đường sắt. Đại lývận tải khác, đại lý xăng dầu mỡ nhờn và đại lý bảo hiểm các loại. Kinhdoanh du lịch lữ hành trong và ngoài nước, kinh doanh khách sạn nhà nghỉ,cho thuê nhà nghỉ, địa điểm văn phòng, phương tiện thiết bị quảng cáo. Hợp tác liên doanh liên kết với các tổ chức trong và ngoài nước tronghoạt động của công ty và tiến hành các hoạt động kinh doanh khác theo pháp luật.* Nhận và sử dụng có hiệu quả tài sản và các nguồn lực khác do Tổngcông ty giao, nhận, bảo quản và phát triển vốn được Tổng công ty giao theochế độ hiện hành của Nhà nước và phân cấp của Tổng công ty. * Tổ chức nghiên cứu thực hiện, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật,công nghệ để đáp ứng nhu cầu phát triển của công ty và Tổng công ty. * Thc hin cỏc nhim v khỏc do Tng cụng ty giao. - Cỏc n v trc thuc cụng ty gm cú: C quan cụng tyCỏc xớ nghip vn dng toa xe hng: Xớ nghip vn dng toa xe hngH Ni, xớ nghip vn dng toa xe hng Si Gũn. Cỏc xớ nghip u mỏy: Xớ nghip u mỏy Vinh, Xớ nghip u mỏyH Lo, Xớ nghip c khớ xp d Si Gũn. Cỏc ga, xớ nghip vn ti: Cỏc ga hng ln v ga giao tip biờn gii:Lo Cai, ng ng, Yờn Viờn, Giỏp Bỏt, Hi Phũng, Xuõn Giao, Tiờn Kiờn,Lõm Thao, Thnh Chõu, Bút Sn, Hong Mai, ụng H, Súng Thn, v xớnghip vn ti ng st H Thỏi, xớ nghip vn ti ng st H Qung. T CHC CễNG TY VN TI HNG HO NG STTổng giám đốcCác bộ phận tham m u Các XNVD toa xe hàngXN cơ khí, xếp dỡ Sài GònCác XN sửa chữa toa xeCác ga XN vận tải XNVDTX hàng Hà NộiXNVDTX hàng Sài GònXNTX VinhXNTX Đà NẵngCác ga: Giáp Bát, Thịnh Châu, Bút Sơn, Bỉm Sơn, Hoàng Mai, Đông Hà, Sóng Thần, Yên Viên, Đồng Đăng, Tiên Kiên, Lâm Thao, Lào Cai, Xuân Giao, Hải Phòng, XNVTĐS Hà Thái, XNVTĐS Hà Thái, XNVTĐS Hà Quảng1.4. Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất của Tổng công ty đường sắt Việt Nam: * Mô hình hạch toán kinh tế Tổng công ty và các công ty vận tảiThông qua hạch toán giữa Tổng công ty và các công ty vận tải, là hạch toán theo sản phẩm công đoạn. Hạch toán giữa các công ty vận tải A và công ty vận tải B, C là hạch toán theo các sản phẩm tác nghiệp làm hộ nhau và đơn giá thanh toán tác nghiệp được Tổng công ty qui định. Với mỗi công ty vận tải sẽ có 3 phần chi phí [về mặt hạch toán] có doanh thu riêng, lợi nhuận riêng. Trong đó chi phí bao gồm: - Chi phí làm cho công ty khác[ thanh toán].- Chi phí công ty - Chi phí thu được từ công ty khác thanh toán. * Quan hệ giữa doanh thu, chi phí Tổng công ty Đường sắt Việt Nam. Doanh thu Tổng công ty gồm có: Doanh thu công ty vận tải hàng hoá đường sắt, doanh thu công ty vận tải hành khách đường sắt Hà Nội, doanh thu công ty vận tải hành khách Đường Sắt Hà Nội, doanh thu công ty vận tải hành khách đường sắt Sài Gòn và doanh thu tại Tổng công ty. Chi phí của Tổng công ty bao gồm có: Chi phí tại Công ty vận tải hàng hoá, chi phí tại công ty vận tải hành khách Hà Nội; chi phí tại công ty vận tải hành khách Đường sắt Sài Gòn và chi phí tại Tổng công ty. * Nội dung xác định chi phí của các công ty vận tải Trên cơ sở nhiệm vụ sản xuất được giao gồm có khối lượng, sản xuất vận tải của công ty và khối lượng các tác nghiệp của công ty bạn người ta tiếnhành lập kế hoạch chi phí sản xuất của công ty trên cơ sở hệ thống khoản mụcchi của ngành vận tải Đường sắt. Trong hệ thống khoản mục chi thể hiện 2 loại phí là: - Chi phí để làm ra sản phẩm của chính công ty mình gọi là chi phí thuộc nhóm I. - Chi phớ lm ra sn phm cho cụng ty bn mụ hỡnh mi quan h chi phớ.Chi phớ nhúm I gm cú chi phớ h tng c s, khu hao ti sn c nh, v lói vay tp trung. T s trờn ta suy ra: n giỏ ni b tng hp =cụng ty hng Chi phớ lm ra sn phmca cụng ty hng +Chi phớ ca cụng ty khỏch lm cỏctỏc nghip cho Cụng ty hngTng s tn km vn chuyn hng hoỏn giỏ ni bộ tnghp ca cụng ty = khỏch [HN] Chi phớ lm ra sn phmca cụng ty khỏch H Ni +Chi phớ do cỏc cụng ty khỏc lm h cỏctỏc nghip cho cụng ty khỏch [HN]Tng số HK.Km ca cụng ty khỏch HNn giỏ sn phm theo tỏc =nghip i Chi phớ c phõn b theo tỏc nghip i[Chi phớ ca c 3 cụng ty]Tng sn phm ca tỏc nghip i [ca c 3 cụng ty]* Ni dung xỏc nh Doanh thu riờng, chi phớ riờng v li nhun riờng. Cỏc cụng ty vn ti cn c vo nhim v k hoch c Tng cụng ty gm cú sn phm tng hp ca cụng ty hng [Tkm], cụng ty khỏch [HK.Km] Chi phí phát sinh tại công ty AChi phí phát sinh tại công ty BChi phí nhóm I Chi phí làm ra sản phẩm Chi phí làm ra sản phẩm của công ty bạn [B]Chi phí làm ra sản phẩm của công ty A. Chi phí do công ty bạn làm cho công ty AChi phí để xác định đơn giá nội bộ Tổng hợp công ty AChi phí nhóm I Chi phí làm ra sản phẩm của công ty mìnhChi phí làm ra sản phẩm của công ty bạn [A]Chi phí làm ra sản phẩm của công ty BChi phí do công ty bạn làm cho công ty BChi phí để xác định đơn giá nội bộ tổng hợp công ty B==và đơn giá của sản phẩm tổng hợp từ đó xác định được doanh thu riêng của công ty. Căn cứ vào các sản phẩm tác nghiệp cho công ty bạn như là đm km đóngửi tàu… và đơn giá thanh toán các tác nghiệp xác định được chi phí thanhtoán cho công ty bạn và từ đó xác định được doanh thu riêng do Tổng công tythanh toán. = Σsptkm * đơn giá nội bộ tổng hợp * hệ số điều chỉnh [kđc]. Đồng thời xác định được thu nhập do công ty bạn thanh toán các tácnghiệp làm hé. = tác nghiệp i] * [ đơn giá thanh toán tác nghiệp i]Chi phí của công ty vận tải gồm có chi phí riêng của công ty để làm rasản phẩm chính của công ty và chi phí làm ra các sản phẩm tác nghiệp chocông ty bạn [dùng để thanh toán với công ty bạn] cân đối giữa doanh thuriêng và chi phí riêng thì tạo ra lợi nhuận riêng khi đó ta có:LNR = DTR – CPRHệ số điều chỉnh =[kđ/c]Xuất thu bình quân hàng hoá [HK] thực hiện Xuất thu bình quân hàng hoá [HK] kế hoạchMục đích sử dụng hệ số điều chỉnh là để gắn trách nhiệm của các côngty trong việc tận thu của Tổng công ty nghĩa là các công ty phải cung ứng vàđể xác định được chi phí mà phụ thuộc vào doanh thu.* Các sản phẩm trong thanh toán của các công ty vận tải là có 2 loại sảnphẩm trong hạch toán theo mô hình Tổng công ty.Sản phẩm nội bộ tổng hợp là sản phẩm dùng trong thanh toán giữaTổng công ty với các công ty thông thường là những sản phẩm liên quan đếnsản xuất chính của công ty. Với công ty vận tải hàng hoá đường sắt là Tkmhàng hoá vận chuyển và với công ty vận tải hành khách đường sắt là HK.km tínhđổi. Sản phẩm nội bộ theo tác nghiệp là để thanh toán tác nghiệp giữa cáccông ty vận tải với nhau gồm có: - Tấn xếp dỡ là 1 tấn hàng xếp hoặc dỡ dùng để thanh toán giữa các gathuộc công ty vận tải hành khách với ga thuộc công ty vận tải hàng hoá. - Hành khách đi tàu tính đổi dùng để thanh toán giữa các ga thuộc côngty hàng với các ga thuộc công ty khách. - Đoàn tàu đón gửi dùng để hai bên thanh toán cho nhau.- Sè xe qua trạm kiểm tra kĩ thuật dùng để thanh toán giữa hai bên vớinhau. - Ngày xe vận dụng [nếu có] - Đm.km dọc đường dùng để xác định theo loại máy i là sản phẩmthanh toán phần chi phí sửa chữa đầu máy các cấp. - Ngày máy kéo tàu xác định theo loại tàu dùng để thanh toán phần chiphí của bộ phận lái máy. - Tkm tổng trọng dùng để thanh toán phần chi phí nhiên liệu.

Video liên quan

Chủ Đề