Việc làm nào sâu đây của học sinh góp phần phát triển kinh tế gia đình

Tìm hiểu về chức năng cơ bản của gia đình

  • 1. Quy định về chức năng của gia đình
  • 2. Khái niệm về gia đình ?
  • 3. Các chức năng xã hội cơ bản của gia đình
  • 3.1 Chức năng sinh đẻ
  • 3.2 Chức năng giáo dục
  • 3.3 Chức năng kinh tế
  • 4. Dịch vụ tư vấn công ty Luật Minh Khuê

1. Quy định về chức năng của gia đình

Gia đình là tế bào của xã hội, là nơi nuôi dưỡng mỗi con người, có ý nghĩa quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách của mỗi con người. Theo Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam thì gia đình có ba chức năng cơ bản: chức năng sinh đẻ, chức năng giáo dục, chức năng kinh tế. Chức năng sinh đẻ nhằm tái sản xuất ra con người, nhằm duy trì và phát triển nòi giống. Nhờ có chức năng sinh để của gia đình mà xã hội không thể bị diệt vong. Chức năng giáo dục nhằm trang bị cho con người những tri thức cần thiết để phục vụ cuộc sống, phục vụ cho sự phát triển của đất nước. Chức năng kinh tế của gia đình nhằm tạo ra những gia đình ấm no. Kinh tế gia đình phát triển thì nền kinh tế quốc gia mới hưng thịnh. Trong các chức năng trên, chức năng giáo dục đóng vai trò quan trọng. Ngoài ra, gia đình Việt Nam còn có chức năng quan tâm, chăm sóc, bảo vệ người cao tuổi.

Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài 24/7 gọi số: 1900.6162 hoặc gửi qua email: Tư vấn pháp luật qua Email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật Minh Khuê.

2. Khái niệm về gia đình ?

Có nhiều ngành khoa học nghiên cứu về gia đình như luật học, triết học, xã hội học... Do phạm vi nghiên cứu của mỗi ngành khoa học khác nhau nên khái niệm gia đình cũng khác nhau.

Theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014, gia đình là sự liên kết của nhiều người dựa trên cơ sở hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng, những người này có các quyền và nghĩa vụ với nhau, cùng nhau xây dựng gia đình, nuôi dạy thế hệ trẻ và chăm sóc người cao tuổi dưới sự giúp đỡ của Nhà nước và xã hội.

Gia đình được hình thành trên một trong ba cơ sở: Hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng.

3. Các chức năng xã hội cơ bản của gia đình

Với tư cách là tế bào của xã hội, gia đình có các chức năng xã hội cơ bản sau:

3.1 Chức năng sinh đẻ

Gia đình là một hình thức tổ chức đời sống chung của xã hội loài người mà trong đó diễn ra quá trình tái sản xuất sinh học nhằm duy trì và phát triển nòi giống. Các quốc gia đều quan tâm đến việc điều tiết chức năng sinh đẻ của gia đình. Việc khuyến khích hay hạn chế chức năng sinh đẻ của gia đình phụ thuộc vào yếu tố dân số, vào nguồn nhân lực và các điều kiện kinh tế-xã hội khác. Ở Việt Nam, để hoạch định chính sách hợp lý cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, Nhà nước đã có chính sách kế hoạch hóa gĩa đình: “Mỗi gia đình chỉ nên có từ một đến hai con”.

3.2 Chức năng giáo dục

Gia đình thực hiện chức năng giáo dục đối với các thế hệ kế tiếp bắt đầu từ khi mỗi thành viên được sinh ra cho đến khi trưởng thành và thậm chí cho đến suốt đời. Giáo dục trong gia đình có vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách cá nhân, cần kết họp giữa giáo dục gia đình, giáo dục nhà trường và giáo dục ngoài cộng đồng trong sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và giáo dục thế hệ trẻ.

Các yếu tố tác động tới thực hiện chức năng giáo dục của gia đình

Gia đình là một trong những thiết chế xã hội quan trọng. Sự thay đổi của gia đình ở các thời kỳ khác nhau chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như: kinh tế, chính trị, văn hóa, pháp luật…

Sự phát triển của nền kinh tế trong mỗi giai đoạn lịch sử luôn có những tác động tới các yếu tố xã hội khác. Đối với việc thực hiện chức năng giáo dục của gia đình, có thể thấy sự khác biệt rõ rệt giữa giai đoạn hiện nay và giai đoạn phong kiến khi trình độ kinh tế-xã hội có sự khác biệt đáng kể. Nền kinh tế thị trường đã tạo cơ hội cho mỗi cá nhân, mỗi gia đình có điều kiện tích lũy, làm giàu và tự do đầu tư vào các hoạt động theo nhu cầu. Nhờ đó chức năng giáo dục của gia đình được cải thiện đáng kể. Trong gia đình con trai và con gái đều được tới trường học tập và được chuẩn bị cơ sở vật chất cần thiết cho việc thực hiện giáo dục tại gia đình.

Sự phát triển của khoa học, công nghệ tạo điều kiện để con người có cơ hội tiếp xúc với các ứng dụng mới. Sự phổ biển internet, điện thoại di động… đã có những tác động không nhỏ tới việc giáo dục nói chung và giáo dục tại gia đình nói riêng. Tuy nhiên, việc lạm dụng các ứng dụng công nghệ ảnh hưởng tới sức khỏe, tâm lý của cá nhân. Điều này gây những khó khăn không nhỏ cho việc thực hiện chức năng giáo dục của gia đình bởi thời gian các thành viên bên nhau ngày càng thu hẹp, sự gắn bó giữa các cá nhân bị suy giảm đáng kể.

Về mặt chính trị, sự ổn định của môi trường chính trị là một yếu tố góp phần phát triển mọi mặt của xã hội. Khi môi trường sống có trật tự, ổn định thì việc thực hiện các chức năng của gia đình, trong đó có chức năng giáo dục sẽ được đầu tư hơn về mặt thời gian, công sức, qua đó sẽ thu được những hiệu quả như mong đợi. Ngược lại, khi tình hình chính trị bất ổn, môi trường sinh hoạt không ổn định thì tâm lý, thời gian đều bị chi phối và việc tập trung cho bất cứ một hoạt động cụ thể nào là điều không dễ dàng.

Về ảnh hưởng của yếu tố văn hóa, sự tác động của phong tục, tập quán có những ảnh hưởng nhất định đối với đời sống của mỗi cá nhân trong xã hội cũng như của mỗi thành viên trong gia đình. Trong thời kỳ phong kiến, do ảnh hưởng sâu đậm của tư tưởng Nho giáo nên trong gia đình, sự giáo dục thường được thực hiện bởi người đàn ông – người giữ vai trò gia trưởng. Điều này đã hạn chế sự hiểu biết của mỗi cá nhân đối với các vấn đề xã hội bên ngoài gia đình. Ngày nay, với việc tăng cường quyền bình đẳng giới, trong gia đình và ngoài xã hội người phụ nữ được tôn trọng và được trao quyền nhiều hơn, cả trong giáo dục con cái. Nội dung giáo dục đối với các con không chỉ dừng ở các quy tắc, chuẩn mực trong quan hệ gia đình mà còn bao gồm cả cách ứng xử ngoài xã hội, các kiến thức chung về xã hội, khoa học…

Việc pháp luật ghi nhận trách nhiệm giáo dục con cái là của cha mẹ và quyền lợi của trẻ em trong gia đình là cơ sở pháp lý đảm bảo việc thực hiện chức năng giáo dục của gia đình. Các quy định trong Hiến pháp, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em, Luật Giáo dục…cho thấy mối quan hệ giữa gia đình và pháp luật về việc giáo dục mỗi cá nhân – công dân. Nói cách khác, việc thực hiện các quy định của pháp luật về giáo dục trong gia đình cũng chính là một trong các cách nhằm thực hiện chức năng giáo dục của gia đình.

Sự ảnh hưởng của các yếu tố trên không diễn ra một cách riêng lẻ và một chiều mà có sự tác động đồng bộ, qua lại giữa các yếu tố. Khi một trong các yếu tố có sự thay đổi sẽ kéo theo sự thay đổi của một hoặc một số yếu tố khác. Như khi nền kinh tế xã hội có những thay đổi sẽ kéo theo những biến đổi trong đời sống chính trị, trong lối sống, trong phong tục…khi đó, yếu tố pháp luật cũng có những thay đổi và tách động tới thói quen, đời sống của mỗi công dân. Sự thay đổi của pháp luật có thể theo chiều hướng tích cực hoặc ngược lại, trong phạm vi giáo dục tại gia đình, điều đó có thể dẫn tới việc mở rộng hoặc thu hẹp các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ, con cái trong việc thực hiện chức năng giáo dục của gia đình.

3.3 Chức năng kinh tế

Mỗi gia đình phải tự tổ chức đời sống vật chất của các thành viên trong gia đình, thỏa mãn những nhu cầu vật chất và tinh thần của các thành viên đó. Trong điều kiện phúc lợi xã hội của quốc gia còn hạn chế thì việc thực hiện chức năng kinh tế của gia đình rất có ý nghĩa trong việc đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của mỗi cá nhân.

4. Dịch vụ tư vấn công ty Luật Minh Khuê

Ngoài những dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của khách hàng như đại diện tiến hành thủ tục ly hôn [thuận tình hoặc đơn phương], chúng tôi luôn sẵn sàng hỗ trợ và giải đáp mọi vướng mắc pháp lý mà người dân gặp phải trong lĩnh vực hôn nhân gia đình.

Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài 24/7 gọi số: 1900.6162 hoặc gửi qua email: Tư vấn pháp luật qua Email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật Minh Khuê.

Trân trọng./.

Bộ phận tư vấn pháp luật hôn nhân - Công ty luật Minh Khuê

được biên tập bởi Thích Nhật Từ

Giới thiệu về cuốn sách này

[TG]-Vì gia đình, nhà trường là nơi có ảnh hưởng trực tiếp tới sự định hình, phát triển nhân cách của con người và xã hội là nơi thử thách, đánh giá sự trưởng thành của nhân cách đó, cho nên, mỗi con trẻ/con người nếu có được sự quan tâm đúng mức từ ba môi trường này, nhất là từ gia đình thì tất yếu sẽ có điều kiện phát triển lành mạnh, hình thành, phát triển nhân cách tốt.

"Gia đình là kiệt tác của tạo hóa"

Trong triết học Mác - Lênin, nhân cách được hiểu là “những cá nhân con người với tính cách là sản phẩm của sự phát triển xã hội, chủ thể của lao động, của sự giao tiếp, của nhận thức, bị quy định bởi những điều kiện lịch sử - cụ thể của đời sống xã hội”[1]. Nhân cách là bản sắc độc đáo, riêng biệt của mỗi cá nhân, là nội dung và tính chất bên trong của mỗi cá nhân; trong đó, cá nhân là phương thức biểu hiện của giống loài, còn nhân cách vừa là nội dung vừa là cách thức biểu hiện riêng biệt của mỗi cá nhân, là đặc trưng xã hội của con người, là “phẩm chất xã hội” của con người. Do đó, trong môi trường [gia đình, nhà trường, xã hội], thì gia đình và giáo dục gia đình góp phần quan trọng vào sự hình thành và phát triển nhân cách của mỗi con người.

GIÁO DỤC GIA ĐÌNH GIỮ VAI TRÒ CHỦ ĐẠO

Giáo dục giữ vai trò chủ đạo trong sự hình thành và phát triển nhân cách con người, bao gồm giáo dục gia đình, giáo dục nhà trường, giáo dục xã hội. Trong đó, 1] Gia đình là tổ ấm - nơi tràn đầy tình yêu thương ruột thịt, vừa là nơi đáp ứng nhu cầu riêng tư, thực hiện chức năng phát triển nòi giống vừa là trường học đầu tiên hình thành, phát triển nhân cách con trẻ/con người. 2] Giáo dục nhà trường [bao gồm cả sinh hoạt tập thể và hoạt động xã hội công ích] cung cấp cho con người/học sinh những tri thức khoa học cơ bản, hiện đại, hình thành những năng lực, phẩm chất trí tuệ và phát triển những phẩm chất đạo đức của nhân cách. 3] Giáo dục xã hội qua sách báo, phim ảnh, truyền hình, giao tiếp xã hội, với những nội dung lành mạnh, góp phần tích cực hỗ trợ giáo dục gia đình và nhà trường trong việc hình thành và phát triển nhân cách con người.

Đặc biệt quan tâm vấn đề gia đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của xã hội là gia đình”[2], bởi gia đình là tổ ấm của mỗi người, là tế bào của xã hội; đồng thời, cũng là nơi bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống, môi trường quan trọng để hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người. Gia đình Việt Nam truyền thống được hình thành và phát triển, gắn kết một cách bền chặt là do tình nghĩa và trách nhiệm giữa các thành viên; với những chuẩn mực giá trị tốt đẹp như: Kính trên nhường dưới, hòa thuận, thủy chung, nghĩa tình, hy sinh cho con, tôn trọng, hiếu đễ với ông bà, cha mẹ, anh em, yêu thương đùm bọc lẫn nhau, hiếu học, cần cù, sáng tạo trong lao động, v.v.. trở thành cái nôi, thành nền tảng hình thành và nuôi dưỡng nhân cách con người Việt Nam.

Với ý nghĩa là môi trường văn hóa đầu tiên, nơi mà mỗi cá nhân từ khi chào đời đến phát triển, trưởng thành liên tục được tiếp nhận những tình cảm tốt đẹp từ các thành viên, văn hóa gia đình là giá trị cốt lõi của văn hóa xã hội, vì rằng, đó là khởi nguồn sinh ra con người, nuôi dưỡng con người từ thuở lọt lòng đến khi trưởng thành. Văn hóa gia đình là hệ thống những giá trị, chuẩn mực đặc thù điều tiết mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình và mối quan hệ giữa gia đình với xã hội, gắn liền với những điều kiện cụ thể của tự nhiên, kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong những thành tố của văn hóa gia đình, việc tổ chức cuộc sống có nền nếp, trật tự, gia phong; việc dạy dỗ, ứng xử, giao tiếp giữa cha mẹ và con cái, giữa các thành viên gia đình thuộc các thế hệ rất quan trọng, bởi thông qua đó, các thế hệ đi trước truyền thụ cho con trẻ những giá trị văn hóa truyền thống và hiện đại, tạo nên giá trị xã hội và nhân cách văn hóa của mỗi con người. Nhân cách, đạo đức, lối sống của các thành viên trong gia đình ảnh hưởng rất nhiều đến con trẻ; trong khi đó, sự giáo dục ở gia đình không có chương trình, kế hoạch cụ thể và các thành viên không được đào tạo chính quy về giáo dục, cho nên, giáo dục gia đình không chuẩn mực sẽ dẫn con trẻ đến suy nghĩ và hành vi lệch chuẩn. Nền tảng của một gia đình hạnh phúc biểu hiện ở mối quan hệ ứng xử tốt đẹp, hiểu biết, sẻ chia, thông cảm và thương yêu nhau giữa vợ và chồng; sự thương yêu, chăm sóc, hy sinh của cha mẹ vì con và sự kính trọng, biết ơn, hiếu thảo của con đối với cha mẹ, ông bà… Cho nên, văn hoá gia đình và giáo dục trong một gia đình văn hóa tạo ra nền nếp, kỷ cương để mọi người cùng thực hiện và đó cũng chính là gia lễ, gia phong - cái gốc của gia đình, giữ cho con người Việt Nam và tạo cho gia đình và xã hội Việt Nam một sức sống mãnh liệt.

Yếu tố gia đình chịu trách nhiệm ban đầu đối với quá trình xã hội hóa của con trẻ/cá nhân, ảnh hưởng không nhỏ đến việc hình thành phẩm chất, nhân cách gốc của con trẻ. Giáo dục và nuôi dưỡng là hai yếu tố then chốt quyết định tạo nên tài năng và nhân cách của mỗi con người, mà nhân cách con người bắt đầu hình thành từ lúc còn nằm trong bụng mẹ cho đến khi trưởng thành vẫn chưa dừng lại… Trong hành trình đó, lứa tuổi ấu thơ được chăm sóc, nuôi dưỡng tại gia đình là giai đoạn quan trọng, mặc dù khi đó, nhân cách chưa được thể hiện rõ ràng, song thông qua hành vi bắt chước hành động của người lớn, con trẻ bắt đầu thu nhận các tương tác nhân - sinh - quan để hình thành nhân cách của mình. Để con trẻ trở thành một người có nhân cách tốt, việc giáo dục của mỗi gia đình đóng vai trò chủ đạo. Theo đó, giáo dục con trẻ không chỉ dừng lại ở lời nói hay mà phải bằng những cử chỉ, việc làm đẹp, bởi mọi hành vi, thái độ, lối sống của người lớn, nhất là cha mẹ có tác động trực tiếp tới việc hình thành, phát triển nhân cách của con trẻ. Người xưa thường nói “dạy con từ thuở còn thơ”, cho nên, việc thường xuyên giáo dục con trẻ thái độ, cử chỉ, lời nói lễ phép, kính trên nhường dưới, tôn sư trọng đạo… để khi trưởng thành con trẻ thấu hiểu, biết ơn đấng sinh thành, nuôi dưỡng, chăm sóc ông bà, cha mẹ là hết sức cần thiết.

Trong mỗi gia đình, kết hợp giữa giáo dục truyền thống với hiện đại, cha mẹ, ông bà không chỉ giáo dục con trẻ đạo đức và văn hóa gia đình, giáo dục lao động, giáo dục phát triển trí tuệ, giáo dục thể lực toàn diện, giáo dục thẩm mỹ; trong đó, việc giáo dục, dạy dỗ về thái độ, cử chỉ, giao tiếp và ứng xử lễ nghĩa, kính trọng người già, chăm lo, nhường nhịn người nhỏ tuổi; uốn nắn, phê phán, ngăn chặn thái độ, cử chỉ bất nhã, bất hiếu của con trẻ mà còn rèn tính tự giác trong học tập, suy nghĩ, sinh hoạt đúng giờ, gọn gàng ngăn nắp, kỹ năng sống… giúp con trẻ hình thành nhân cách, sớm ý thức được trách nhiệm của mình đối với mọi người và mọi người đối với mình trong gia đình. Văn hóa gia đình chính là thành lũy kiên cố để bảo vệ và giúp con trẻ duy trì, phát huy được những giá trị chân, thiện, mỹ từ truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc; đồng thời, khơi dậy cho con trẻ những ý tưởng sáng tạo, hình thành lối sống lành mạnh, góp phần vào quá trình giáo dục, hình thành và phát triển nhân cách con người.

Tuy nhiên, trong bối cảnh đất nước ngày càng đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng, gia đình Việt Nam truyền thống đang có những biến đổi mạnh mẽ trong cấu trúc, hình thái, quy mô và mối quan hệ giữa các thành viên, thế hệ. Chịu tác động từ xu thế toàn cầu hóa, những giá trị, chuẩn mực truyền thống cũng đã và đang thay đổi; trong đó, ở không ít gia đình, mối quan tâm, chăm sóc của một bộ phận cha mẹ dành cho con trẻ suy giảm, thậm chí có không ít gia đình còn “khoán trắng” cho xã hội và nhà trường việc giáo dục con trẻ. Bên cạnh đó, một số không ít cha mẹ chưa dành thời gian thích đáng cho con trẻ; một số khác thiếu kỹ năng và phương pháp giáo dục khoa học…, đã tạo ra những hệ lụy, ảnh hưởng đến tâm sinh lý, việc học hành, sự hình thành nhân cách, lối sống đúng đắn, thậm chí sự thành công của con trẻ ở tương lai. Đó cũng chính là một nguyên nhân quan trọng khiến cho gia đình chưa phát huy được vai trò của nó với tư cách là môi trường góp phần nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người, chống lại các tệ nạn xã hội, tạo nguồn nhân lực có chất lượng tốt phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Thực tế cho thấy, ở một bộ phận gia đình hiện nay, nhân cách của con trẻ đang chịu tác động xấu bởi tư tưởng cá nhân chủ nghĩa, lối sống thực dụng, trọng tiền tài, vật chất nói chung, thiếu vắng sự chăm sóc, dạy dỗ, bảo vệ con trẻ nói riêng. Nhận thức sâu sắc thực trạng này, văn kiện các kỳ Đại hội của Đảng, nhất là những nhiệm kỳ gần đây đã nhấn mạnh: “Tình trạng suy thoái, xuống cấp về đạo đức, lối sống, sự gia tăng tệ nạn xã hội và tội phạm đáng lo ngại, nhất là trong lớp trẻ”[3]. Đây không chỉ là một trong những thách thức lớn đối với sự nghiệp giáo dục nói chung và giáo dục đạo đức, lối sống, nuôi dưỡng sự hình thành và phát triển nhân cách con trẻ trong gia đình nói riêng mà còn ảnh hưởng đến việc tạo dựng, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Nguyên nhân của thực trạng này có nhiều, song không thể không nói đến thực tế là: vì nhiều lý do khác nhau, một bộ phận gia đình đã không còn thật sự là “tổ ấm” để trao truyền yêu thương, chăm lo, dạy dỗ, giáo dục và nuôi dưỡng con trẻ. Ở đó, cấu trúc gia đình lỏng lẻo, liên kết giữa các thành viên gia đình yếu, cha mẹ thiếu gương mẫu, thường xuyên mâu thuẫn, xung đột, dẫn đến bạo lực gia đình; trong đó, bạo lực của người chồng đối với người vợ và bạo lực của cha mẹ đối với con cái xảy ra nghiêm trọng. Ở những nơi con trẻ thường xuyên phải chứng kiến những “hình ảnh”, “sự việc” không đẹp đó, ắt chúng hoặc bị khủng hoảng tâm lý “đòn roi”, lệch lạc trong suy nghĩ dẫn đến lệch lạc trong hành động, có xu hướng áp dụng các hành vi bạo lực đối với người khác trong tương lai. Cùng với các mâu thuẫn, xung đột và bạo lực gia đình là vấn đề ly hôn, nhất là các gia đình cha mẹ ly hôn khi con còn nhỏ tuổi, thì con trẻ thường thấy: hoặc là dễ bị rơi vào khủng hoảng tâm sinh lý, hoặc thu mình, rồi dẫn đến có những hành vi lệch chuẩn trong tương lai.

CHÚ TRỌNG XÂY DỰNG GIA ĐÌNH HẠNH PHÚC

Sự hình thành và phát triển nhân cách con người là trách nhiệm, nghĩa vụ của toàn xã hội, của các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể, gia đình và mỗi cá nhân; trong đó, gia đình có vai trò hết sức quan trọng. Vì giải quyết tốt các vấn đề của gia đình cũng đồng thời là giải quyết tốt các vấn đề xã hội, cho nên chú trọng xây dựng gia đình hạnh phúc, phát huy vai trò giáo dục của gia đình cũng chính là để xóa bỏ những khó khăn và thách thức đang làm suy yếu gia đình, suy yếu động lực của sự phát triển.

Thực tế cũng cho thấy, trải qua nhiều thế hệ, gia đình Việt Nam được hình thành và phát triển; trong đó, những giá trị truyền thống quý báu như lòng yêu nước, yêu quê hương, yêu thương đùm bọc lẫn nhau, thuỷ chung, hiếu nghĩa, hiếu học, cần cù và sáng tạo trong lao động, bất khuất kiên cường vượt qua mọi khó khăn thử thách đã được gìn giữ, vun đắp và phát huy. Coi xây dựng gia đình là cơ sở, điều kiện để mỗi gia đình/một tế bào/hạt nhân trong xã hội bền vững, là môi trường trong sạch, chắc chắn để hình thành và phát triển nhân cách con người, Chỉ thị số 49 CT/TW ngày 21/2/2005 về “” đã nhấn mạnh việc phải “tăng cường công tác giáo dục đời sống gia đình. Cung cấp tới từng gia đình các kiến thức, kỹ năng sống, như: kỹ năng làm cha mẹ, kỹ năng ứng xử giữa các thành viên trong gia đình với nhau và với cộng đồng. Giáo dục và vận động mọi gia đình tự nguyện, tự giác, tích cực thực hiện nếp sống văn minh... Trong giáo dục, phải kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam gắn với xây dựng những giá trị tiên tiến của gia đình trong xã hội phát triển”.

Gia đình không chỉ là tế bào tự nhiên mà còn là một đơn vị kinh tế của xã hội, vì thế, muốn có một xã hội phát triển lành mạnh thì trước hết từng tế bào phải phát triển bền vững, để xã hội tồn tại và phát triển. Trên tinh thần đó, Văn kiện Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh: “Phát huy giá trị truyền thống tốt đẹp, xây dựng gia đình Việt Nam ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; thực hiện tốt bình đẳng giới, sự tiến bộ của phụ nữ; chăm sóc, giáo dục và bảo vệ quyền trẻ em”[4]. Vì thế, yêu cầu phải “sớm có chiến lược quốc gia về xây dựng gia đình Việt Nam, góp phần giữ gìn và phát triển những giá trị truyền thống của văn hóa, con người Việt Nam, nuôi dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ. Đúc kết và xây dựng hệ giá trị chung của người Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”[5] đã được chú trọng.


Trên tinh thần đó, “ đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 29/5/2012. Chiến lược khẳng định, gia đình là môi trường quan trọng để hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống tốt đẹp, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong đó, bên cạnh mục tiêu chung: “Xây dựng gia đình Việt Nam no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thực sự là tổ ấm của mỗi người, là tế bào lành mạnh của xã hội”, chiến lược còn đề ra 3 mục tiêu cụ thể, gồm : Nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí, trách nhiệm của gia đình và cộng đồng trong việc thực hiện tốt chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật về hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới, phòng, chống bạo lực gia đình, ngăn chặn các tệ nạn xã hội xâm nhập vào gia đình; trong đó, hằng năm, trung bình giảm từ 10 - 15% hộ gia đình có bạo lực gia đình... : Kế thừa, phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam; tiếp thu có chọn lọc các giá trị tiên tiến của gia đình trong xã hội phát triển; thực hiện đầy đủ các quyền và trách nhiệm của các thành viên trong gia đình, đặc biệt đối với trẻ em, người cao tuổi, phụ nữ có thai, nuôi con nhỏ; trong đó, phấn đấu đến năm 2020 đạt 95% hộ gia đình dành thời gian chăm sóc, dạy bảo con, cháu, tạo điều kiện cho con, cháu phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ, đạo đức và tinh thần, không phân biệt con, cháu là trai hay gái... : Nâng cao năng lực của gia đình trong phát triển kinh tế, ứng phó với thiên tai và khủng hoảng kinh tế; tạo việc làm, tăng thu nhập và phúc lợi, đặc biệt đối với các hộ gia đình chính sách, hộ nghèo và cận nghèo theo quy định…

Tiếp tục đánh giá vị trí, tầm quan trọng của gia đình với ý nghĩa là nền tảng, tế bào của xã hội; đồng thời cũng là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống, hình thành và phát triển nhân cách con người, nơi giữ vai trò đặc biệt quan trọng liên quan tới số lượng, chất lượng dân số và cơ cấu dân cư của quốc gia, Văn kiện Ðại hội XII của Đảng nêu rõ: “Thực hiện chiến lược phát triển gia đình Việt Nam. Phát huy giá trị truyền thống tốt đẹp, xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh. Xây dựng mỗi trường học thật sự là một trung tâm văn hóa giáo dục, rèn luyện con người”[6].

Việc thực hiện chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Ðảng, chiến lược của Chính phủ; các Bộ luật Dân sự, Luật Hôn nhân và Gia đình; Luật Bình đẳng giới; Luật Phòng, chống bạo lực gia đình; Luật Trẻ em ra đời, bổ sung và sửa đổi được thực thi; việc tổ chức thường niên Ngày hội gia đình 28/6... đã góp phần khắc phục hiện tượng một bộ phận gia đình “hỏng từ gốc”. Ở những gia đình đó, cha mẹ phạm tội hoặc sa vào tệ nạn; gia đình bỏ mặc, không quan tâm đến con cái, những gia đình cha mẹ đã mất hoặc bỏ rơi con cái để con trẻ trở thành trẻ mồ côi, bị bỏ rơi, lang thang cơ nhỡ; cách giáo dục gia đình không đúng, gây ảnh hưởng tiêu cực đến việc phát triển nhân cách, định hướng lối sống của con trẻ, thiết thực phòng, chống tệ nạn tội phạm, tệ nạn xã hội, lối sống tiêu cực, ích kỷ, thờ ơ vô cảm, hành xử bạo lực của con người nói chung, con trẻ nói riêng...

Để xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh và phát huy vai trò của giáo dục gia đình trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách con người, cần thiết phải có sự phối hợp đồng bộ giữa gia đình, nhà trường và xã hội; trong đó, chú trọng vai trò nền tảng từ gia đình. Vì thế, cần tập trung vào những vấn đề trọng tâm sau:

, nâng cao nhận thức của cấp ủy, chính quyền, các ban, ngành chức năng về vấn đề xây dựng gia đình nói chung, giáo dục trong mỗi gia đình nói riêng để giáo dục đạo đức, lối sống, nâng cao thể chất, trí lực, góp phần quan trọng vào việc hình thành và phát triển nhân cách của con trẻ nói riêng, con người nói chung. Cùng với đó, phối hợp chặt chẽ ba môi trường giáo dục là gia đình - nhà trường - xã hội; trong đó, phát huy những ưu điểm của từng môi trường giáo dục để không chỉ đi đến sự thống nhất trong giáo dục con trẻ mà còn hỗ trợ và đồng hành cùng mục tiêu chung là tạo dựng nguồn lực con người Việt Nam chuẩn mực về đạo đức, hoàn thiện về tri thức, kỹ năng. Đi liền cùng đó là phát huy vai trò của các trung tâm bảo trợ, nuôi dạy trẻ mồ côi, các làng trẻ, trại trẻ mồ côi, những ngôi chùa,v.v.. để những con trẻ bị thiệt thòi vì không thể/thiếu một mái ấm gia đình được chăm sóc, yêu thương, học tập và vui chơi cùng các bạn đồng hoàn cảnh…

, chú trọng tạo dựng môi trường gia đình tràn ngập tình yêu thương, bình đẳng và trách nhiệm, tổ chức lối sống gia đình lành mạnh, các thành viên trong gia đình yêu thương, sẻ chia, gắn kết và cha mẹ, ông bà nêu gương cho con trẻ học theo, làm theo những điều tốt đẹp, có giá trị nhân văn lớn lao. Đi liền cùng đó, trong mỗi gia đình, các bậc cha mẹ ý thức được trách nhiệm của mình; xác định mục tiêu giáo dục con trẻ trong từng giai đoạn và trong cả quá trình, phù hợp tâm sinh lý và lứa tuổi để thống nhất phương pháp giáo dục; để không chỉ phòng, tránh trường hợp mỗi người một phương pháp mà còn khắc phục được tâm lý gây áp lực cho con trẻ. Trong giáo dục, việc tạo điều kiện để con trẻ được nêu chính kiến, quan điểm thậm chí phản biện lại một vấn đề nào đó là vô cùng cần thiết, bởi đây là năng lực, bản lĩnh cần thiết của mỗi con người được giáo dục hiện đại khuyến khích, góp phần quan trọng vào việc hình thành và phát triển nhân cách của con người từ khi còn nhỏ.

, lấy con trẻ làm trọng tâm trong quá trình dạy dỗ, giáo dục và nghiêm túc trong việc dạy bảo con trẻ, giáo dục, rèn luyện con trẻ học hỏi tính kỷ luật, sự tôn trọng các thành viên, nhất là cha mẹ, ông bà để con trẻ có thời gian luyện tập nhân cách của mình. Cùng với đó, mỗi bậc cha mẹ không chỉ cần quan tâm, chăm sóc mà còn phải tôn trọng, hiểu đúng về con trẻ để việc giáo dục đúng, đạt hiệu quả. Cụ thể là, phải tạo được sự gần gũi, thân mật, tin tưởng ở con trẻ, để con trẻ coi mình là những người bạn lớn mà chia sẻ tâm tư, tình cảm, diễn biến tâm lý bên trong, từ đó cha mẹ, ông bà có thể hiểu được các mối quan hệ, khát vọng, cảm xúc, suy nghĩ, nguyện vọng, mong muốn, sở thích, lo lắng, niềm vui, nỗi buồn của con trẻ..

, các bậc cha mẹ không ngừng học hỏi, tìm hiểu những tri thức khoa học, xã hội, trang bị và nâng cao kiến thức, khả năng chăm sóc, dạy dỗ và giáo dục con cái, để không chỉ góp phần tăng cường, nâng cao và phát huy được vai trò giáo dục gia đình, nhất là với các bậc cha mẹ ở khu vực nông thôn, miền núi mà còn khắc phục phương pháp giáo dục chỉ dựa trên kinh nghiệm và cảm tính. Thực tế cho thấy, cha mẹ có quyền và thường tác động đến sự phát triển và định hướng tương lai của con trẻ, song nếu giáo dục không đúng và định hướng “không chuẩn”, không sát điều kiện thực tế của chính bản thân con trẻ và gia đình thì con trẻ không những không phát huy được khả năng của mình mà còn luôn cảm thấy căng thẳng, dễ dẫn đến suy sụp tinh thần và thể chất.

, phát huy vai trò của các cơ quan truyền thông gắn với tăng cường tuyên truyền Chiến lược xây dựng gia đình và văn hóa gia đình để nâng cao nhận thức và hành động, góp phần thực hiện tốt hơn nữa chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về gia đình. Qua đó, giúp cho các gia đình có kiến thức và kỹ năng sống, chủ động phòng, chống các tệ nạn xã hội xâm nhập vào trong gia đình, phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc và gia đình ngày càng phát triển bền vững theo tinh thần Chỉ thị số 49CT/TW ngày 21/2/2005 về “” và.

Nói giáo dục gia đình, giáo dục nhà trường và môi trường xã hội chính là nền tảng để nuôi dưỡng tâm hồn con trẻ, định hình và phát triển nhân cách, cung cấp tri thức và rèn luyện con người... cũng có nghĩa là cần phải chú trọng xây dựng gia đình và phát huy vai trò của giáo dục gia đình trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách mỗi con người./.

Tăng cường công tác giáo dục đời sống gia đình. Cung cấp tới từng gia đình các kiến thức, kỹ năng sống, như: kỹ năng làm cha mẹ, kỹ năng ứng xử giữa các thành viên trong gia đình với nhau và với cộng đồng. Giáo dục và vận động mọi gia đình tự nguyện, tự giác, tích cực thực hiện nếp sống văn minh.

Vận động các gia đình tích cực tham gia xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước, quy chế dân chủ cơ sở; phát triển các hình thức tổ hoà giải, các câu lạc bộ gia đình tại cộng đồng; giữ gìn và phát huy văn hoá gia đình và truyền thống tốt đẹp của dòng họ; xây dựng tình làng nghĩa xóm, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, nhắc nhở, động viên nhau thực hiện tốt chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước.

Trong giáo dục, phải kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam gắn với xây dựng những giá trị tiên tiến của gia đình trong xã hội phát triển.

“”]

TS. Văn Thị Thanh Mai

TS. Đinh Quang Thành

[1] Từ điển bách khoa triết học, Nxb Mátxcơva, 1964, t.3, tr.196

[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.12, tr.300

[3]Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.172-173

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.126

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2012, tr.223

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.128

Video liên quan

Chủ Đề