Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội liên hệ việc xây dựng ý thức xã hội mới ở nước ta hiện nay

Quan điểm duy vật biện chứng về xã hội không chỉ khẳng định tính quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội, mà còn làm sáng tỏ những nội dung của tính độc lập tương đối của ý thức xã hội.

Thứ nhất, ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội.

Theo nguyên lý tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội thì khi tồn tại xã hội biến đổi sẽ tất yếu dẫn tới những sự biến đổi của ý thức xã hội [ý thức xã hội cũ mất đi và làm nảy sinh ý thức xã hội mới]. Tuy nhiên, không phải trong mọi trường hợp, sự biến đổi của tồn tại xã hội đều ngay lập tức dẫn đến sự biến đổi của ý thức xã hội. Trái lại, nhiều yếu tố của ý thức xã hội [trong đời sống tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội] có thể còn tồn tại rất lâu dài ngay cả khi cơ sở tồn tại xã hội sản sinh ra nó đã được thay đổi cản bản. Mặt khác không phải mọi yếu tố của ý thức xã hội mới đều ngay lập tức nảy sinh trên cơ sở tồn tại xã hội mới. Sở dĩ như vậy là vì: Một là, do bản chất của ý thức xã hội chỉ là sự phản ánh của tồn tại xã hội cho nên nói chung ý thức xã hội chỉ có thể biến đổi sau khi có sự biến đổi của tồn tại xã hội. Mặt khác, sự biến đổi của tồn tại xã hội do sự tác động mạnh mẽ, thường xuyên và trực tiếp của hoạt động thực tiễn, diễn ra vơi tốc độ nhanh mà ý thức không thể phản ánh kịp. Hai là, do sức mạnh của thói quen, truyền thống, tập quán cũng như do tính lạc hậu, bảo thủ của một số hình thái ý thức xã hội. Ba là, ý thức xã hội luôn gắn với lợi ích của những nhóm, những tập đoàn người, những giai cấp nhất định trong xã hội. Vì vậy, những tư tưởng cũ, lạc hậu thường được các lực lượng xã hội phản tiến bộ lưu giữ và truyèn bá nhằm chống lại các lực lượng xã hội tiến bộ.

Thứ hai, ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội.

Khi khẳng định tính thường lạc hậu hơn của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội, chủ nghĩa duy vật lịch sử đồng thời thừa nhận rằng, trong những điều kiện nhất định, tư tưởng của con người, đặc biệt những tư tưởng khoa học tiên tiến có thể vượt truớc sự phát triển của tồn tại xã hội, dự báo được tương lai và có tác dụng tổ chức, chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con nguời, hướng hoạt động đó vào việc giải quyết những nhiệm vụ mới do sự phát triển chín muồi của đời sống vật chất của xã hội đặt ra. Tuy nhiên, suy đến cùng, khả năng phản ánh vượt trước ý thức xã hội vẫn phụ thuộc vào tồn tại xã hội.

Thứ ba, ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của nó.

Lịch sử phát triển đời sống tinh thần của xã hội cho thấy ràng, những quan điểm lý luận của mỗi thời đại không xuất hiện trên mảnh đất trống không mà được tạo ra trên cơ sở kế thừa những tài liệu lý luận của các thời đại trước.

Do ý thức có tính kế thừa trong sự phát triển, nên không thể giải thích được một tư tưởng nào đó nếu chỉ dựa vào những quan hệ kinh tế hiện có, không chú ý đến các giai đoạn phát triển tư tưởng trước đó. Lịch sử phát triển của tư tưởng đã cho thấy những giai đoạn hưng thịnh hoặc suy tàn của triết học, văn học, nghệ thuật, v.v. nhiều khi không phù hợp hoàn toàn với những giai đoạn hưng thịnh hoặc suy tàn của kinh tế.

Trong xã hội có giai cấp, tính chất kế thừa của ý thức xã hội gắn với tính chất gai cẩp của nó. Những giai cấp khác nhau kế thừa những nội dung ý thức khác nhau của các thời đại trước. Các giai cấp tiên tiến tiếp nhận những di sản tư tưởng tiến bộ của xã hội cũ để lại. V.I.Lênin nhấn mạnh rằng, văn hóa xã hội chủ nghĩa cần phải phát huy những thành tựu và truyền thống tốt đẹp nhất của nền văn hóa nhân loại từ cổ chí kim. Trên cơ sở thế giới quan mácxít, Người viết: "Văn hóa vô sản phải là sự phát triển hợp quy luật của tổng số những kiến thức mà loài người đã tích lũy được dưới ách thống trị của xã hội tư bản, xã hội của bọn địa chủ và xã hội của bọn quan liêu".

Thứ tư, sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự phát triển của chúng.

Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội là một nguyên nhân làm cho trong mỗi hình thái ý thức có những mặt, những tính chất không thể giải thích được một cách trực tiếp tư tồn tại xã hội.

Lịch sử phát triển của ý thức xã hội cho thấy, thông thường ở mỗi thời đại, tùy theo những hoàn cảnh lịch sử cụ thể có những hình thái ý thức nào đó nổi lên hàng đầu và ác động mạnh đến các hình thái ý thức khác. Ở Hy Lạp thời cổ đại, triết học và nghệ thuật đã từng đóng vai trò đậc biệt quan trọng. Ở Tây Âu thời trung cổ, tôn giáo đã có một ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi mặt tinh thần của xã hội như: triết học, đạo đức, nghệ thuật, chính trị, pháp quyền. Các nước Tây Âu ở giai đoạn lịch sử sau này thì ý thức chính trị lại đóng vai trò to lớn, tác động mạnh mẽ đến các hình thái ý thức xã hội khác. Ở Pháp từ nửa sau thế kỷ XVIII và ở Đức cuối thế kỷ XIX, triết học và văn học là công cụ quan trọng nhất để tuyên truyền những tư tưởng chính trị, là vũ đài của cuộc đấu tranh chính trị của các lực lượng xã hội tiên tiến. Ngày nay, trong sự tác động lẫn nhau giữa các hình thái ý thức xã hội, ý thức chính trị thường có vai trò đặc biệt quan trọng. Ý thức chính trị của giai cấp cách mạng định hướng cho sự phát triển theo chiểu hướng tiến bộ của các hình thái ý thức khác.

Thứ năm, ý thức xã hội có khả năng tác động trở lại tồn tại xã hội.

Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những phê phán quan điểm duy tâm [tuyệt đối hóa vai trò của ý thức xã hội] mà còn bác bỏ quan điểm duy vật tầm thường hay "chủ nghĩa duy vật kinh tế" [tức quan điểm phủ nhận tác dụng tích cực của ý thức xã hội trong đời sống xã hội]. Theo Ph.Ăngghen: "Sự phát triển của chính trị, pháp luật triết học, tôn giáo, văn hóa, nghệ thuật, v.v. đều dựa trên cơ sở sự phát triển kinh tế. Nhưng tất cả chúng cũng ảnh hường lẫn nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế". Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối với sự phát triển xã hội phụ thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ thể; vào tính chất của các mối quan hệ kinh tế mà trên đó tư tưởng nảy sinh; vào vai trò lịch sử của giai cấp mang ngọn cờ tư tưownrg vào mức độ phản ánh đúng đắn của tư tưởng đối với các nhu cầu phát triển xã hội; vào mức độ mở rộng của tư tưởng trong quần chúng, V.V.. Cũng do đó, ở đây cần phân biệt vai trò của ý thức tư tưởng tiến bộ và ý thức tư tưởng phản tiến bộ đối với sự phát triển xã hội.

Như vậy, nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử về tính độc lập tương đối của ý thức xã hội đã chỉ ra bức tranh phức tạp trong lịch sử phát triển của ý thức xã hội và đời sống tinh thần xã hội nói chung. Nó bác bỏ mọi quan điểm siêu hình, máy móc, tầm thường về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.

Quan điểm duy vật mácxít về vai trò quyết định của lồn tại xã hội đối với ý thức xã hội và tính độc lập tương đối của ý thức xã hội là một trong những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử, một trong những cơ sở phương pháp luận căn bản của hoại động nhận thức và thực tiễn. Theo đó, một mặt, việc nhận thức các hiện tượng của đời sống tinh thần xã hội cần phải căn cứ vào tồn tại xã hội đã làm nảy sinh ra nó. Mặt khác cũng cần phải giải thích các hiện tượng đó từ những phương diện khác nhau thuộc nội dung tính độc lập tương đối của chúng. Do vậy, trong thực tiễn cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới cần phải được tiến hành đồng thời trên cả hai mặt tồn tại xã hội vàả ý thức xã hội, trong đó việc thay đổi tồn tại xã hội cũ là điều kiện cơ bản nhất để thay đổi ý thức xã hội cũ. Đồng thời, cũng cần thấy rằng không chỉ những biến đổi trong tồn tại xã hội mới tất yếu dẫn đến những thay đổi to lớn trong đời sống tinh thần của xã hội mà ngược lại, những tác động của đời sống tinh thần xã hội, với những điều kiện xác định cũng có thể tạo ra những biến đổi mạnh mẽ, sâu sắc trong tồn tại xã hội.

Loigiaihay.com

ý thức xã hội là thuộc lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm tư tưởng cùng những tình cảm tâm trạng, nẩy sinh từ tồn tại xã hội và phản ảnh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển lịch sử xã hội nhất định.

Phân tích:

Ý thức xã hội là thuộc Lĩnh vực đời sống tinh thần: Đời sống con người chia làm 2 loại, đời sống vật chất và đời sống tinh thần.

Đời sống tinh thần Bao gồm ý thức xã hội và hoạt động của con người trong lĩnh vực tinh thần. Vì thế ý thức xã hội chỉ là một bộ phận của đời sống tinh thần

Ý thức xã hội bao gồm những quan điểm tư tưởng, tình cảm, tâm trạng phản ánh tồn tại xã hội nhất định - theo từng giai đoạn.

Kết cấu [cấu trúc]:

Có nhiều cách chia, cách chia phổ biến nhất là  theo cấp độ có tâm lý xã hội, hệ tư tưởng.

Thứ nhất: Tâm lý xã hội là Bao gồm toàn bộ những tình cảm, tâm trạng, tập quán... của cộng đồng người được hình thành 1  cách tự phát từ cuộc sống con người.

Tâm lý xã hội biểu hiện rất phức tạp bởi ở những cộng đồng người khác nhau, ở những điều kiện khác nhau, cuộc sống khác nhau sẽ biểu hiện khác nhau.

Tâm lý xã hội có tính lây lan, trong quá trình phản ánh tồn tại xã hội   nó có sự truyền cảm lây lan

Thứ 2:  hệ tư tưởng là những quan điểm tư tưởng đã được khái quát hóa hệ thống hóa dưới dạng các học thuyết về chính trị, pháp quyền, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo, khoa học…

+ Hệ tư tưởng hình thành tự giác trong quá trình tích cực của tư duy.

+Hệ tư tưởng của giai cấp thống trị là hệ tư tưởng thống trị.

+Hệ tư tưởng không đồng nhất với chân lý. Hệ tư tưởng phản ánh đúng hiện thực mới là chân lý. Còn Không phản ánh đúng hiện thực thì không phải là chân lý.

+ Ý thức xã hội vừa có tính giai cấp vừa có tính nhân loại.

-Ngoài ra còn chia ý thức xã hội thành ýthức xã hội thông thường và ý thức lý luận

Thứ nhất Ý thức xã hội thông thườnglà những tri thức, những quan niệm của con người hình thành một cách trực tiếp trong hoạt động thực tiễn hàng ngày, chưa được hệ thống hoá, khái quát hoá.

VÍ DỤ : Trời chuẩn bị mưa, thông thường mọi người đi ra ngoài, có ý thức mang theo áo mưa

Thứ 2: Ý thức lý luậnlà những tư tưởng quan điểm được hệ thống hoá, khái quát hoá thành các học thuyết xã hội và được trình bày dưới dạng những khái niệm, phạm trù, quy luật.

VÍ DỤ : Bác Hồ đưa ra lý luận về xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân.

* Tính giai cấp của ý thức xã hội

 - Khi nào xuất hiện giai cấp, Nhà nước, khi đó ý thức xã hội mang tính giai cấp.

- Giai cấp nào nắm quyền thống trị thì ý thức xã hội phục vụ cho giai cấp đó

 - Hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin phục vụ cho giai cấp công nhân và NHÂN DÂN LAO ĐỘNG vì học thuyết của nó mang bản chất của Giai cấp công nhân.
 

II.Tính độc lập tương đối  của ý thức xã hội?

* Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội

Một là, ý thức xã hội chỉ là cái phản ánh của tồn tại xã hội nên luôn biến đổi sau khi tồn tại xã hội đã biến đổi.

VÍ DỤ : ý thức tư tưởng phong kiến, phản ánh xã hội phong kiến, nhưng khi xã hội phon kiến đã thay đổi thì ý thức vẫn chưa thay đổi kịp “Trọng nam khinh nữ”,“ép duyên”,“gia trưởng”

Hai là, ý thức xã hội thường tồn tại lâu dài, chậm thay đổi do thói quen, truyền thống và do tính bảo thủ của một số hình thái ý thức xã hội.

VÍ DỤ : Việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã được hơn 30 năm song ý thức tự giác chưa cao, ý thức làm chủ tập thể, lao động tập, trách nhiệm với công việc, với cộng đồng chưa cao. Do thói quen, tư tưởng, lối sống cũ để lại như: trông chờ, ỷ lại, ngại đổi mới, chậm đổi mới, ý thức trách nhiệm công dân kém..,

Ba là, ý thức xã hội luôn gắn với lợi ích của giai cấp, tập đoàn người trong xã hội. Vì vậy, những tư tưởng cũ lạc hậu, thường được các lực lượng xã hội phản tiến bộ lưu giữ và truyền bá nhằm chống lại các lực lượng xã hội tiến bộ, bảo vệ lợi ích của họ.

* Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội

- Ý thức xã hội tiến bộ cách mạng có khả năng vượt trước tồn tại xã hội

LIÊN HỆ : Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh đất nước bị chìm đắm trong nô lệ, với thân phận là người dân bị mất nước. Ngay từ rất sớm người đã ý thức về con đường cứu nước giải phóng dân tộc:

Người nói: Tôi muốn ra nước ngoài sang nước Pháp và một số nước khác xem họ làm ăn ra sao để về giúp đỡ đồng bào ta khỏi đói nghèo

                     Chính chủ nghĩa yêu nước đã đưa tôi đến với Lênin, tin và đi theo Lênin, theo Quốc tế III, Quốc tế cộng sản

                      Muốn cứu nước, giải phóng dân tộc không còn con đường nào khác con đường cách mạng vô sản.

- Ý thức xã hội có thể dự báo tương lai, dự kiến khả năng sẽ tới và sẽ có tác dụng chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người.

Ví dụ: vào nửa đầu thế kỷ XIX, C. Mác đã đưa ra học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội dự báo được sự phát triển của xã hội loài người từ thấp đến cao, từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác là một quá trình lịch sử - tự nhiên.

* Tính kế thừa trong sự phát triển của ý thức xã hội

- Ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội, trong quá trình phản ánh ý thức xã hội luôn có tính kế thừa các giá trị của nhân loại để lại.

VÍ DỤ : Tư tưởng lấy “Dân làm gốc”

        Hồ Chí Minh: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”

*Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức XÃ HỘI trong sự phát triển của chúng: ý thức Xã hội được thể hiện dưới nhiều hình thái cụ thể như: chính trị, pháp quyền, đạo đức, triết học, nghệ thuật, tôn giáo, khoa học. Mỗi hình thái ý thức XÃ HỘI phản ánh một đối tượng nhất định, một phạm vi nhất định của tồn tại XÃ HỘI , nhưng giữa chúng có mối liên hệ với nhau. Sự liên hệ tác động đó làm cho mỗi hình thái ý thức có những t/c và những mặt không thể giải thích được một cách trực tiếp bằng tồn tại XÃ HỘI hay bằng các điều kiện vật chất.

III.Ý nghĩa PHƯƠNG PHÁP LUẬN và thực tiễn

Ý nghĩa:Thứ nhất: Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội chứng tỏ rằng ý thức xã hội nói chung, ý thức con người nói riêng vừa bao hàm cả yếu tố tích cực và lạc hậu , vì thế trong cuộc sống chúng ta phải biết phát huy tính tích cực, phát huy những tiến bộ, hạn chế những tiêu cực lạc hậu. Công việc này trong cách mạng xã ội chủ ngĩa là làm cách mạng trong lĩnh vực tư tưởng văn hóa  

Đây là tính tất yếu của cách mạng trong lĩnh vực tư tưởng văn hóa.

Thứ 2:  thấy được tầm quan trọng của ý thức xã hội, đặc biệt là  ý thức xã hội mới,  phải chú ý đến giáo dục ý thức xã hội mới để định hướng cho hoạt động của con người. s 

Page 2

ý thức xã hội là thuộc lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm tư tưởng cùng những tình cảm tâm trạng, nẩy sinh từ tồn tại xã hội và phản ảnh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển lịch sử xã hội nhất định.

Phân tích:

Ý thức xã hội là thuộc Lĩnh vực đời sống tinh thần: Đời sống con người chia làm 2 loại, đời sống vật chất và đời sống tinh thần.

Đời sống tinh thần Bao gồm ý thức xã hội và hoạt động của con người trong lĩnh vực tinh thần. Vì thế ý thức xã hội chỉ là một bộ phận của đời sống tinh thần

Ý thức xã hội bao gồm những quan điểm tư tưởng, tình cảm, tâm trạng phản ánh tồn tại xã hội nhất định - theo từng giai đoạn.

Kết cấu [cấu trúc]:

Có nhiều cách chia, cách chia phổ biến nhất là  theo cấp độ có tâm lý xã hội, hệ tư tưởng.

Thứ nhất: Tâm lý xã hội là Bao gồm toàn bộ những tình cảm, tâm trạng, tập quán... của cộng đồng người được hình thành 1  cách tự phát từ cuộc sống con người.

Tâm lý xã hội biểu hiện rất phức tạp bởi ở những cộng đồng người khác nhau, ở những điều kiện khác nhau, cuộc sống khác nhau sẽ biểu hiện khác nhau.

Tâm lý xã hội có tính lây lan, trong quá trình phản ánh tồn tại xã hội   nó có sự truyền cảm lây lan

Thứ 2:  hệ tư tưởng là những quan điểm tư tưởng đã được khái quát hóa hệ thống hóa dưới dạng các học thuyết về chính trị, pháp quyền, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo, khoa học…

+ Hệ tư tưởng hình thành tự giác trong quá trình tích cực của tư duy.

+Hệ tư tưởng của giai cấp thống trị là hệ tư tưởng thống trị.

+Hệ tư tưởng không đồng nhất với chân lý. Hệ tư tưởng phản ánh đúng hiện thực mới là chân lý. Còn Không phản ánh đúng hiện thực thì không phải là chân lý.

+ Ý thức xã hội vừa có tính giai cấp vừa có tính nhân loại.

-Ngoài ra còn chia ý thức xã hội thành ýthức xã hội thông thường và ý thức lý luận

Thứ nhất Ý thức xã hội thông thườnglà những tri thức, những quan niệm của con người hình thành một cách trực tiếp trong hoạt động thực tiễn hàng ngày, chưa được hệ thống hoá, khái quát hoá.

VÍ DỤ : Trời chuẩn bị mưa, thông thường mọi người đi ra ngoài, có ý thức mang theo áo mưa

Thứ 2: Ý thức lý luậnlà những tư tưởng quan điểm được hệ thống hoá, khái quát hoá thành các học thuyết xã hội và được trình bày dưới dạng những khái niệm, phạm trù, quy luật.

VÍ DỤ : Bác Hồ đưa ra lý luận về xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân.

* Tính giai cấp của ý thức xã hội

 - Khi nào xuất hiện giai cấp, Nhà nước, khi đó ý thức xã hội mang tính giai cấp.

- Giai cấp nào nắm quyền thống trị thì ý thức xã hội phục vụ cho giai cấp đó

 - Hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin phục vụ cho giai cấp công nhân và NHÂN DÂN LAO ĐỘNG vì học thuyết của nó mang bản chất của Giai cấp công nhân.
 

II.Tính độc lập tương đối  của ý thức xã hội?

* Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội

Một là, ý thức xã hội chỉ là cái phản ánh của tồn tại xã hội nên luôn biến đổi sau khi tồn tại xã hội đã biến đổi.

VÍ DỤ : ý thức tư tưởng phong kiến, phản ánh xã hội phong kiến, nhưng khi xã hội phon kiến đã thay đổi thì ý thức vẫn chưa thay đổi kịp “Trọng nam khinh nữ”,“ép duyên”,“gia trưởng”

Hai là, ý thức xã hội thường tồn tại lâu dài, chậm thay đổi do thói quen, truyền thống và do tính bảo thủ của một số hình thái ý thức xã hội.

VÍ DỤ : Việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã được hơn 30 năm song ý thức tự giác chưa cao, ý thức làm chủ tập thể, lao động tập, trách nhiệm với công việc, với cộng đồng chưa cao. Do thói quen, tư tưởng, lối sống cũ để lại như: trông chờ, ỷ lại, ngại đổi mới, chậm đổi mới, ý thức trách nhiệm công dân kém..,

Ba là, ý thức xã hội luôn gắn với lợi ích của giai cấp, tập đoàn người trong xã hội. Vì vậy, những tư tưởng cũ lạc hậu, thường được các lực lượng xã hội phản tiến bộ lưu giữ và truyền bá nhằm chống lại các lực lượng xã hội tiến bộ, bảo vệ lợi ích của họ.

* Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội

- Ý thức xã hội tiến bộ cách mạng có khả năng vượt trước tồn tại xã hội

LIÊN HỆ : Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh đất nước bị chìm đắm trong nô lệ, với thân phận là người dân bị mất nước. Ngay từ rất sớm người đã ý thức về con đường cứu nước giải phóng dân tộc:

Người nói: Tôi muốn ra nước ngoài sang nước Pháp và một số nước khác xem họ làm ăn ra sao để về giúp đỡ đồng bào ta khỏi đói nghèo

                     Chính chủ nghĩa yêu nước đã đưa tôi đến với Lênin, tin và đi theo Lênin, theo Quốc tế III, Quốc tế cộng sản

                      Muốn cứu nước, giải phóng dân tộc không còn con đường nào khác con đường cách mạng vô sản.

- Ý thức xã hội có thể dự báo tương lai, dự kiến khả năng sẽ tới và sẽ có tác dụng chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người.

Ví dụ: vào nửa đầu thế kỷ XIX, C. Mác đã đưa ra học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội dự báo được sự phát triển của xã hội loài người từ thấp đến cao, từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác là một quá trình lịch sử - tự nhiên.

* Tính kế thừa trong sự phát triển của ý thức xã hội

- Ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội, trong quá trình phản ánh ý thức xã hội luôn có tính kế thừa các giá trị của nhân loại để lại.

VÍ DỤ : Tư tưởng lấy “Dân làm gốc”

        Hồ Chí Minh: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”

*Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức XÃ HỘI trong sự phát triển của chúng: ý thức Xã hội được thể hiện dưới nhiều hình thái cụ thể như: chính trị, pháp quyền, đạo đức, triết học, nghệ thuật, tôn giáo, khoa học. Mỗi hình thái ý thức XÃ HỘI phản ánh một đối tượng nhất định, một phạm vi nhất định của tồn tại XÃ HỘI , nhưng giữa chúng có mối liên hệ với nhau. Sự liên hệ tác động đó làm cho mỗi hình thái ý thức có những t/c và những mặt không thể giải thích được một cách trực tiếp bằng tồn tại XÃ HỘI hay bằng các điều kiện vật chất.

III.Ý nghĩa PHƯƠNG PHÁP LUẬN và thực tiễn

Ý nghĩa:Thứ nhất: Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội chứng tỏ rằng ý thức xã hội nói chung, ý thức con người nói riêng vừa bao hàm cả yếu tố tích cực và lạc hậu , vì thế trong cuộc sống chúng ta phải biết phát huy tính tích cực, phát huy những tiến bộ, hạn chế những tiêu cực lạc hậu. Công việc này trong cách mạng xã ội chủ ngĩa là làm cách mạng trong lĩnh vực tư tưởng văn hóa  

Đây là tính tất yếu của cách mạng trong lĩnh vực tư tưởng văn hóa.

Thứ 2:  thấy được tầm quan trọng của ý thức xã hội, đặc biệt là  ý thức xã hội mới,  phải chú ý đến giáo dục ý thức xã hội mới để định hướng cho hoạt động của con người. s 

Video liên quan

Chủ Đề