Theo hồ chí minh, tính chất và nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng thuộc địa là gì?

1. Mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc

a] Tính chất và nhiệm vụ của cách mạng thuộc địa

- Tính chất của cuộc cách mạng thuộc địa

Hồ Chí Minh nhận thấy sự phân hóa giai cấp ở các nước thuộc địa phương Đông không giống như ở các nước tư bản phương Tây. Họ đều chung một số phận mất nước, giữa họ vẫn có sự tương đồng lớn, họ đều chung số phận là người nô lệ mất nước.

Mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội thuộc địa phương Đông là mâu thuẫn giữa dân tộc bị áp bức với chủ nghĩa thực dân. Chính vì vậy mà tính chất cuộc đấu tranh cách mạng ở các nước thuộc địa trước hết là phải tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.

 Đối tượng của cách mạng thuộc địa đó là chủ nghĩa thực dân và tay sai phản động.

Yêu cầu bức thiết của nhân dân các nước thuộc địa là độc lập dân tộc “... vấn đề cơ bản của cách mạng thuộc địa là vấn đề nông dân”, và chủ trương nhấn mạnh vấn đề ruộng đất, nhấn mạnh đấu tranh giai cấp.

- Nhiệm vụ của cuộc cách mạng thuộc địa

Trong tác phẩm Đường cách mệnh, Người nhấn mạnh tính chất và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là cách mạng giải phóng dân tộc và người thực hiện nhiệm vụ cách mạng đó chính là nông dân.

Cương lĩnh Chính trị đầu tiên của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo xác định nhiệm vụ về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, nổi lên hàng đầu là nhiệm vụ chống đế quốc giành độc lập dân tộc. Trong đó bao hàm cả giải phóng giai cấp và giải phóng con người.

Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương Đảng [5/1941] do Hồ Chí Minh chủ trì kiên quyết giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, nhấn mạnh đó là “nhiệm vụ bức thiết nhất”, chủ trương tạm gác khẩu hiện “cách mạng ruộng đất”, và chỉ tiến hành nhiệm vụ đó ở một mức độ thích hợp nhằm phục vụ cho nhiệm vụ giải phóng dân tộc.

Trong những bài nói, bài viết thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, Hồ Chí Minh tiếp tục nhấn mạnh nhiệm vụ giải phóng dân tộc.

b] Mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc

- Cách mạng giải phóng dân tộc nhằm đánh đổ ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc và thiết lập chính quyền của nhân dân.

- Mục tiêu cấp thiết của cách mạng ở thuộc địa chưa phải là giành lại quyền lợi riêng biệt của mỗi giai cấp mà là quyền lợi chung của toàn dân tộc.

- Tháng 5 - 1941, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ tám chủ trương: “thay đổi chiến lược” từ nhấn mạnh giai cấp sang nhấn mạnh cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Vì vậy, cuộc cách mạng Đông Dương trong giai đoạn hiện nay là một cuộc cách mạng dân tộc giải phóng.

- Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 cũng như những thắng lợi trong 30 năm chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945 - 1954 trước hết là thắng lợi của đường lối cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn và tư tưởng độc lập, tự do của Hồ Chí Minh.

2. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản

a] Rút bài học từ sự thất bại của các con đường cứu nước trước đó

- Để giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân Pháp, ông cha ta đã sử dụng nhiều con đường gắn với những khuynh hướng chính trị khác nhau, sử dụng những thứ vũ khí tư tưởng khác nhau song đều thất bại.

- Đất nước lâm vào “... tình hình đen tối tưởng như không lối ra”. Đó là tình trạng khủng hoảng về đường lối cứu nước ở Việt Nam thế kỷ XX.

- Sinh ra trong cảnh nước mất nhà tan, nhân dân phải chịu cảnh lầm than Hồ Chí Minh chứng kiến các phong trào yêu nước của ông cha. Chính vì thế, mặc dù rất khâm phục tinh thần cứu nước của ông cha, nhưng Hồ Chí Minh không tán thành con đường của họ mà quyết tâm ra đi tìm một con đường mới. Đoạn tuyệt với sự phát triển theo con đường của chủ nghĩa phong kiến, Hồ Chí Minh đến nhiều quốc gia và châu lục trên thế giới.

b] Cách mạng tư sản là không triệt để

- Trong khoảng 10 năm vượt qua các đại dương đến với nhân loại cần lao đang tranh đấu ở nhiều châu lục và quốc gia trên thế giới, Nguyễn Ái Quốc đã kết hợp tìm hiểu lý luận với thực tiến nhất là ở ba nước tư bản phát triển: Anh, Pháp, Mỹ.

- Người nhận thấy: “Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa”. Bởi lẽ đó, Người không đi theo con đường cách mạng tư sản.

c] Con đường giải phóng dân tộc

- Hồ Chí Minh thấy được cách mạng Tháng Mười Nga không chỉ là một cuộc cách mạng vô sản mà nó còn là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Nó nêu tấm gương sáng về sự giải phóng các dân tộc thuộc địa và “... mở ra trước mắt họ thời đại cách mạng chống đế quốc và cách mạng giải phóng dân tộc.”

- Người hoàn toàn tin theo Lênin và Quốc tế thứ ba vì “... đã bênh vực cho các dân tộc bị áp bức”. Người thấy trong lý luận của Lênin một phương hướng mới để giải phóng dân tộc: Con đường cách mạng vô sản.

- Vượt qua sự hạn chế về tư tưởng của các sĩ phu yêu nước và các nhà cách mạng có xu hướng tư sản đương thời, Hồ Chí Minh đã đến với học thuyết của chủ nghĩa Mác-lênin và lựa chọn xu hướng chính trị vô sản. Người khẳng định: “Muốn cứu nước giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản.”, “chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ.”

3. Con đường giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do Đảng công sản lãnh đạo

a] Cách mạng trước hết phải có Đảng lãnh đạo

- Nguyễn Ái Quốc phân tích: “Phàm làm việc gì cũng vậy, bất kỳ lớn bé, bất kỳ khó dễ, nếu không ra sức chắc không thành công...”, “Việc giải phóng gông cùm nô lệ cho đồng bào, cho nhân loại “là việc to tát” nên phải gắng sức” .“Muốn làm cách mạng thì phải bền gan, đồng chí, đồng lòng và biết quyết tâm”, “...lại phải biết cách làm thì mới chóng.”

- Nhưng muốn làm cách mệnh, “... trước phải làm cho dân giác ngộ… phải giảng giải lý luận và chủ nghĩa cho dân hiểu”. “Cách mạng phải hiểu phong triều thế giới, phải bày sách lược cho dân… Vậy nên sức cách mạng phải tập trung, muốn tập trung phải có đảng cách mệnh.”

- Trong tác phẩm Đường cách mệnh, Người khẳng định: “Trước hết phải có đảng cách mệnh để trong thì vận động tổ chức quần chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản phong kiến mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy.”

b] Đảng cộng sản Việt Nam là người lãnh đạo duy nhất

- Đầu năm 1930, Người sáng lập Đảng cộng sản Việt Nam, một chính đảng của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin “làm cốt” có tổ chức chặt chẽ, kỷ luật, nghiêm minh và mật thiết liên lạc với quần chúng.

- Hồ Chí Minh đã xây dựng được một đảng cách mạng tiền phong, phù hợp với thực tiến cách mạng Việt Nam, gắn bó với nhân dân, với dân tộc, một lòng phụng sự Tổ Quốc, phụng sự nhân dân được dân tộc ta thừa nhận là đội tiền phong của mình.

- Ngay từ khi mới ra đời, Đảng đã nắm ngon cờ lãnh đạo duy nhất đối với cách mạng Việt Nam và trở thành nhân tố hàng đầu bảo đảm mọi thắng lợi của cách mạng.

4. Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm toàn dân tộc

a] Cách mạng là sự nghiệp của dân chúng bị áp bức

Hồ Chí Minh đã tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin và kế thừa truyền thống “thân dân” cuả dân tộc, Người đặc biệt coi trọng vai trò cách mạng của quần chúng:

“Gốc có vững cây mới bền

Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”

- Từ 1924 Hồ Chí Minh đã nghĩ đến cuộc khởi nghĩa vũ trang toàn dân, cuộc khởi nghĩa phải được chuẩn bị trong quần chúng.

- Hồ Chí Minh nghiêm khắc phê phán việc lấy ám sát cá nhân và bạo động non làm phương thức hành động và khẳng định “... cách mệnh là việc chung của cả dân chúng chứ không phải việc riêng của một hai người”.

- Trong quá trình chỉ đạo và hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh luôn lấy nhân dân làm nguồn gốc sức mạnh, quan điểm lấy dân làm gốc xuyên suốt quá trình chỉ đạo chiến tranh của Người: “có dân là có tất cả”, “... dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”.

- Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò của quần chúng nhân dân trong khởi nghĩa vũ trang. Người coi sức mạnh vĩ đại và năng lực sáng tạo vô tận của quần chúng là then chốt bảo đảm thắng lợi: “... dân khi mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không chống lại nổi”…

b] Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc

- Dưới chế độ cai trị của thực dân Pháp, xã hội Việt Nam từ phong kiến thuần túy đã trở thành xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Tất cả mọi mặt của đời sống xã hội đều phải đặt trong quỹ đạo chuyển động của xã hội đó. Ngoài giai cấp công nhân và nông dân, giai cấp tư sản dân tộc và một bộ phận địa chủ vừa và nhỏ mặc dù có mặt hạn chế trong quan hệ với quần chúng nhưng họ cũng là người Việt Nam chịu nỗi nhục mất nước. Đó không phải là giai cấp thống trị mà trái lại có khả năng tham gia phong trào giải phóng dân tộc.

- Hồ Chí Minh phân tích “Dân tộc cách mệnh thì chưa phân giai cấp nghĩa là sĩ, nông, công thương đều nhất trí chống lại cường quyền”.

- Trong Cương lĩnh Chính trị đầu tiên, Người xác định lực lượng cách mạng bao gồm cả dân tộc: đại bộ phận giai cấp công nhân, nông dân, tư sản, trí thức, trung nông.

- Trong lực lượng toàn dân tộc Hồ Chí Minh nhấn mạnh:

+ Động lực của cách mạng là giai cấp công nhân và nông dân, Người phân tích công nhân và nông dân có số lượng đông nhất nên có sức mạnh lớn nhất. Họ lại bị áp bức, bóc lột nặng nề nên “... lòng cách mệnh càng bền, chí cách mệnh càng quyết.”

+ Công nông là gốc cách mệnh.

Đây là một vấn đề hết sức mới mẻ của Bác so với các nhà yêu nước trước đó.

Tuy vậy Người không coi nhẹ vai trò khả năng tham gia sự nghiệp giải phóng dân tộc của các giai cấp và tầng lớp khác. Người coi tiểu tư sản, tư sản dân tộc và một bộ phận địa chủ là đồng minh của cách mạng.

5. Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc

a] Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo

- Khi chủ nghĩa tư bản chuyển thành chủ nghĩa đế quốc thì thuộc địa trở thành một trong những nguồn sống của chủ nghĩa đế quốc.

- Nguyễn Ái Quốc khẳng định “... tất cả sinh lực của chủ nghĩa tư bản đều lấy từ các xứ thuộc địa.” Người chỉ rõ “... nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các thuộc địa”.

- Người thẳng thắn phê bình một số đảng cộng sản như Anh, Pháp không thấy được vấn đề quan trọng đó. Hồ Chí Minh khẳng định: trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân, cách mạng thuộc địa có tầm quan trọng đặc biệt. Nhân dân các dân tộc thuộc địa có khả năng cách mạng to lớn.

Theo Hồ Chí Minh “... phải làm cho các dân tộc từ trước đến nay vẫn cách biệt nhau, hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một liên minh phương Đông tương lai, khối liên minh này sẽ là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản”.

- Tại Đại hội V Quốc tế cộng sản [1924], Nguyễn Ái Quốc phê phán các đảng cộng sản: Anh, Pháp, Hà Lan, Bỉ và các đảng cộng sản ở các nước có thuộc địa chưa thi hành chính sách thật tích cực trong vấn đề thuộc địa.

- Trong khi yêu cầu Quốc tế cộng sản và các đảng cộng sản quan tâm đến cách mạng thuộc địa, Hồ Chí Minh vẫn khẳng định: công cuộc giải phóng nhân dân thuộc địa chỉ có thể thực hiện bằng sự nỗ lực tự giải phóng.

- Vận dụng công thức của C.Mác: “... sự giải phóng của giai cấp công nhân là sự nghiệp của bản thân giai cấp công nhân” Người đi đến luận điểm “công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”

- Người đánh giá cao sức mạnh của một dân tộc vùng dậy chống thực dân và Người chủ trương phát huy năng lực chủ quan của dân tộc, tránh ỷ lại. “Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”.

b] Quan hệ giữa cách mạng thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính quốc

- Hồ Chí Minh cho rằng giữa cách mạng giải phóng thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại lẫn nhau trong việc chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc nhưng đó là mối quan hệ bình đẳng chứ không phải quan hệ phụ thuộc.

- Nhận thức vai trò, vị trí chiến lược của cách mạng thuộc địa và sức mạnh dân tộc, Nguyễn Ái Quốc cho rằng cách mạng giải phóng thuộc địa có thể giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.

Đây là luận điểm sáng tạo có giá trị lý luận và tiên tiến, một cống hiến quan trọng của chủ tịch Hồ Chí Minh vào kho tàng lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin. Thực tế thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới gần một thế kỷ qua là hoàn toàn đúng đắn.

6. Các mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường cách mạng bạo lực

a] Tính tất yếu của cách mạng bạo lực

- Tính tất yếu:

+ Các thế lực đế quốc dùng bạo lực để xâm lược và thống trị thuộc địa, đàn áp dã man các phong trào yêu nước… Vì thế con đường để giành và giữ độc lập chỉ có thể là con đường cách mạng bạo lực.

+ Đánh giá đúng bản chất cực kỳ phản động của bọn đế quốc và tay sai, Hồ Chí Minh chỉ rõ: Cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền.

+ Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh cho rằng bạo lực cách mạng là bạo lực của quần chúng nhân dân.

+ Trong thời kỳ 1940 – 1945 Người cùng Trung ương Đảng chỉ đạo xây dựng cơ sở của cách mạng bạo lực gồm: lực lượng chính trị quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân. Mặt trận Việt Minh chính là nơi tập hợp, giác ngộ và rèn luyện lực lượng chính trị.

- Hình thức cách mạng bạo lực.

Gồm cả đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang nhưng phải “tùy tình hình” để “khéo kết hợp các hình thức đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị để giành thắng lợi”.

+ Trong Cách mạng tháng Tám bạo lực cách mạng thể hiện bằng khởi nghĩa vũ trang với lực lượng chính trị là chủ yếu.

+ Trong chiến tranh cách mạng lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang và đấu tranh vũ trang giữ vị trí quyết định trong việc tiêu diệt lực lượng quân sự địch. Nhưng đấu tranh vũ trang không tách biệt đấu tranh chính trị.

b] Tư tưởng bạo lực cách mạng gắn bó hữu cơ với tư tưởng nhân đạo và hòa bình

Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng bạo lực khác hẳn tư tưởng hiếu chiến của các thế lực đế quốc xâm lược, xuất phát từ tình yêu thương, quý trọng con người.

- Việc tiến hành chiến tranh chỉ là giải pháp bắt buộc cuối cùng khi không còn khả năng hòa hoãn khi kẻ thù ngoan cố.

- Tư tưởng bạo lực cách mạng và tư tưởng nhân đạo hòa bình thống nhất biện chứng với nhau yêu thương con người, yêu chuộng hòa bình, tự do, công lý, tranh thủ mọi khả năng hòa bình để giải quyết xung đột nhưng một khi không thể tránh khỏi chiến tranh thì phải kiên quyết tiến hành chiến tranh, kiên quyết dùng bạo lực cách mạng, dùng khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng để giành, giữ và bảo vệ hòa bình vì độc lập, tự do.

 c] Hình thái bạo lực cách mạng

Theo Hồ Chí Minh, trong sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc “lực lượng chính là ở dân”. Người chủ trương tiến hành khởi nghĩa toàn dân và chiến tranh nhân dân.

- Xuất phát từ tương quan lực lượng lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít đánh nhiều, Hồ Chí Minh chủ trương phát động chiến tranh nhân dân dựa vào lực lượng toàn dân, có lực lượng vũ trang làm nòng cốt theo phương châm: toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính.

- Toàn dân khởi nghĩa, toàn dân nổi dậy là nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về hình thái bạo lực cách mạng.

+ Trong chiến tranh “quân sự là việc chủ chốt” nhưng đồng thời phải kết hợp chặt chẽ với đấu tranh chính trị.

+ Đấu tranh ngoại giao cũng là một mặt trận có ý nghĩa chiến lược, có tác dụng thêm bạn, bớt thù… Hồ Chí Minh chủ trương “nửa đánh, nửa đàm”.

+ Đấu tranh kinh tế là ra sức tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, phát triển kinh tế của ta, phá hoại kinh tế của địch.

+ Chiến tranh về văn hóa cũng rất quan trọng.

+ Trước những kẻ thù lớn mạnh, Hồ Chí Minh chủ trương đánh lâu dài.

+ Tự lực cánh sinh là một phương châm chiến lược rất quan trọng nhằm phát huy sức mạnh chủ quan, tránh trông chờ, ỷ lại… phát huy đến mức cao nhất mọi nỗ lực của dân tộc, đề cao tinh thần độc lập, tự chủ.


Video liên quan

Chủ Đề