Thế nào là tín ngưỡng, tôn giáo

Căn cứ tại Điều 2, Luật tín ngưỡng tôn giáo năm 2016, tín ngưỡng là niềm tin của con người được thể hiện thông qua những lễ nghi gắn liền với phong tục, tập quán truyền thống để mang lại sự bình an về tinh thần cho cá nhân và cộng đồng.

Hoạt động tín ngưỡng là hoạt động thờ cúng tổ tiên, các biểu tượng linh thiêng; tưởng niệm và tôn vinh người có công với đất nước, với cộng đồng; các lễ nghi dân gian tiêu biểu cho những giá trị lịch sử, văn hóa, đạo đức xã hội.

Cơ sở tín ngưỡng là nơi thực hiện hoạt động tín ngưỡng của cộng đồng như đình, đền, miếu, nhà thờ dòng họ và những cơ sở tương tự khác.

Tôn giáo là niềm tin của con người tồn tại với hệ thống quan niệm và hoạt động bao gồm đối tượng tôn thờ, giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức. Hoạt động tôn giáo là hoạt động truyền bá tôn giáo, sinh hoạt tôn giáo và quản lý tổ chức của tôn giáo. Cơ sở tôn giáo gồm chùa, nhà thờ, nhà nguyện, thánh thất, thánh đường, trụ sở của tổ chức tôn giáo, cơ sở hợp pháp khác của tổ chức tôn giáo.

Điều 24, Hiến pháp năm 2013 quy định mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. 

Do vậy, không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật.

Kế thừa tinh thần của Hiến pháp năm 2013, Điều 3, Luật tín ngưỡng tôn giáo năm 2016 quy định cụ thể về trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo như sau: 

- Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người; bảo đảm để các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật.

- Nhà nước tôn trọng, bảo vệ giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tín ngưỡng, tôn giáo, truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh người có công với đất nước, với cộng đồng đáp ứng nhu cầu tinh thần của Nhân dân.

- Nhà nước bảo hộ cơ sở tín ngưỡng, cơ sở tôn giáo và tài sản hợp pháp của cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo. Trong đó, Cơ sở tín ngưỡng là nơi thực hiện hoạt động tín ngưỡng của cộng đồng như đình, đền, miếu, nhà thờ dòng họ và những cơ sở tương tự khác, cơ sở tôn giáo gồm chùa, nhà thờ, nhà nguyện, thánh thất, thánh đường, trụ sở của tổ chức tôn giáo, cơ sở hợp pháp khác của tổ chức tôn giáo.

Bên cạnh trách nhiệm cỉa Nhà nước trong việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, Điều 4, Luật tín ngưỡng tôn giáo năm 2016 còn quy định về trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam bao gồm: 

- Tập hợp đồng bào theo tín ngưỡng, tôn giáo và đồng bào không theo tín ngưỡng, tôn giáo xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

- Phản ánh kịp thời ý kiến, nguyện vọng, kiến nghị của Nhân dân về các vấn đề có liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

- Tham gia xây dựng văn bản quy phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo; phản biện xã hội đối với các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước có liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo theo quy định của pháp luật.

- Tham gia tuyên truyền, vận động chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ, người theo tín ngưỡng, tôn giáo, các tổ chức tôn giáo và Nhân dân thực hiện pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo.

- Giám sát hoạt động của cơ quan, tổ chức, đại biểu dân cử và cán bộ, công chức, viên chức trong việc thực hiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo.

Luật Hoàng Anh 

Những người không theo tôn giáo nào, có thể họ không đọc kinh, cầu nguyện, không đến cơ sở thờ tự tôn giáo hành lễ, nhưng đã là người Việt có lẽ ai cũng thiết lập bàn thờ gia tiên trong nhà để thờ ông bà, bố mẹ, cụ kỵ tổ tiên. Đó là các sinh hoạt tôn giáo và tín ngưỡng. Mặt khác, khi trong nhà gặp hoạn nạn, thường thường người ta đi xem bói để tìm hiểu nguyên nhân của hiện tượng đó. Đây được coi là biểu hiện của hoạt động mê tín dị đoan. Tuy nhiên, cho đến nay, có lẽ có một bộ phận dân cư không nhỏ vẫn chưa phân biệt được sự giống nhau và khác nhau giữa sinh hoạt tôn giáo với tín ngưỡng, giữa tín ngưỡng với mê tín dị đoan. Trong bài này, chúng tôi xin làm rõ sự giống nhau và khác nhau đó, đồng thời tìm ra mối quan hệ giữa tôn giáo với tín ngưỡng, giữa tôn giáo, tín ngưỡng với mê tín dị đoan, nhằm giúp bạn đọc phân biệt rõ hơn về ba loại hình sinh hoạt tâm linh này.

1. Sự giống nhau và khác nhau giữa tôn giáo và tín ngưỡng

1.1. Sự giống nhau giữa tôn giáo và tín ngưỡng

Một là, những người có tôn giáo [Phật giáo, Thiên chúa giáo, đạo Tin lành,…] và có sinh hoạt tín ngưỡng dân gian [tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tín ngưỡng thờ Thành hoàng, tín ngưỡng thờ Mẫu,…] đều tin vào những điều mà tôn giáo đó và các loại hình tín ngưỡng đó truyền dạy, mặc dù họ không hề được trông thấy Chúa Trời, đức Phật hay cụ kỵ tổ tiên hiện hình ra bằng xương bằng thịt và cũng không được nghe bằng chính giọng nói của các đấng linh thiêng đó.

Sự giống nhau thứ hai giữa tôn giáo và tín ngưỡng là những tín điều của tôn giáo và tín ngưỡng đều có tác dụng điều chỉnh hành vi ứng xử giữa các cá thể với nhau, giữa cá thể với xã hội, với cộng đồng, giải quyết tốt các mối quan hệ trong gia đình trên cơ sở giáo lý tôn giáo và noi theo tấm gương sáng của những đấng bậc được tôn thờ trong các tôn giáo, các loại hình tín ngưỡng đó.

1.2. Sự khác nhau giữa tôn giáo và tín ngưỡng

Một là, nếu tôn giáo phải có đủ 4 yếu tố cấu thành, đó là: giáo chủ, giáo lý, giáo luật và tín đồ, thì các loại hình tín ngưỡng dân gian không có 4 yếu tố đó. Giáo chủ là người sáng lập ra tôn giáo ấy [Thích ca Mâu ni sáng lập ra đạo Phật, đức chúa Giê su sáng lập ra đạo Công giáo, nhà tiên tri Mô ha mét sáng lập ra đạo Hồi,…]; giáo lý là những lời dạy của đức giáo chủ đối với tín đồ; giáo luật là những điều luật do giáo hội soạn thảo và ban hành để duy trì nếp sống đạo trong tôn giáo đó; tín đồ là những người tự nguyện theo tôn giáo đó[1].

Hai là, nếu đối với tín đồ tôn giáo, một người, trong một thời điểm cụ thể, chỉ có thể có một tôn giáo thì một người dân có thể đồng thời sinh hoạt ở nhiều tín ngưỡng khác nhau. Chẳng hạn, người đàn ông vừa có tín ngưỡng thờ cụ kỵ tổ tiên, nhưng ngày mùng Một và Rằm âm lịch hàng tháng, ông ta còn ra đình lễ Thánh. Cũng tương tự như vậy, một người đàn bà vừa có tín ngưỡng thờ ông bà cha mẹ, nhưng ngày mùng Một và Rằm âm lịch hàng tháng còn ra miếu, ra chùa làm lễ Mẫu,…

Ba là, nếu các tôn giáo đều có hệ thống kinh điển đầy đủ, đồ sộ thì các loại hình tín ngưỡng chỉ có một số bài văn tế [đối với tín ngưỡng thờ thành hoàng], bài khấn [đối với tín ngưỡng thờ tổ tiên và thờ Mẫu]. Hệ thống kinh điển của tôn giáo là những bộ kinh, luật, luận rất đồ sộ của Phật giáo; là bộ “Kinh thánh” và “Giáo luật” của đạo Công giáo; là bộ kinh “Qur’an” của Hồi giáo,… Còn các cuốn “Gia phả” của các dòng họ và những bài hát chầu văn mà những người cung văn hát trong các miếu thờ Mẫu không phải là kinh điển.

Bốn là, nếu các tôn giáo đều có các giáo sĩ hành đạo chuyên nghiệp và theo nghề suốt đời, thì trong các sinh hoạt tín ngưỡng dân gian không có ai làm việc này một cách chuyên nghiệp cả. Các tăng sĩ Phật giáo và các giáo sĩ đạo Công giáo đề là những người làm việc chuyên nghiệp và hành đạo suốt đời [có thể có một vài ngoại lệ, nhưng số này chiếm tỷ lệ rất ít]. Còn trước đây, những ông Đám của làng có 1 năm ra đình làm việc thờ Thánh, sau đó lại trở về nhà làm những công việc khác, và như vậy không phải là người làm việc thờ Thánh chuyên nghiệp.

2. Sự giống nhau và khác nhau giữa tín ngưỡng với mê tín dị đoan

2.1. Sự giống nhau giữa tín ngưỡng với mê tín dị đoan

Giống như sự giống nhau giữa tôn giáo với tín ngưỡng dân gian, tức là đều tin vào những điều mà mắt mình không trông rõ, tai mình không nghe thấy thân hình và giọng nói của đấng thiêng liêng và của đối tượng thờ cúng; hạ là, những tín điều của tín ngững dân gian và mê tín dị đoan đều có tác dụng điều chỉnh hành vi ứng xử giữa con người với con người, giữa con người với xã hội, với cộng đồng, điều chỉnh hành vi ứng xử trong gia đình trên cơ sở những tín điều mà người ta tin theo và noi theo tấm gương sáng của những đấng bậc và những đối tượng tôn thờ trong các loại hình tín ngưỡng và trong mê tín dị đoan.

2.2.Sự khác nhau giữa tín ngưỡng với mê tín dị đoan

Một là, xét về mục đích, nếu sinh hoạt tín ngưỡng có mục đích là thể hiện nhu cầu của đời sống tinh thần, đời sống tâm linh thì người hoạt động mê tín dị đoan lấy mục đích kiếm tiền là chính. Người hoạt động trong lĩnh vực này chỉ làm việc với khách hàng khi có tiền.

Hai là, nếu trong lĩnh vực sinh hoạt tín ngưỡng không có ai làm việc chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp, thì những người hoạt động mê tín dị đoan hầu hết là hoạt động bán chuyên nghiệp hoặc chuyên nghiệp. Nhiều người sống và gây dựng cơ nghiệp bằng nghề này.

Ba là, nếu sinh hoạt tín ngưỡng có cơ sở thờ tự riêng [đình, từ đường, miếu,…] thì những người hoạt động mê tín dị đoan thường phải lợi dụng một không gian nào đó của những cơ sở thờ tự của tín ngưỡng dân gian để hành nghề hoặc hành nghề tại tư gia.

Bốn là, nếu những người có sinh hoạt tín ngưỡng thường sinh hoạt định kỳ tại cơ sở thờ tự [ngày mùng Một, ngày Rằm âm lịch hàng tháng ra đình làm lễ Thánh; hàng năm đến ngày giỗ bố mẹ ông bà, phải làm giỗ,…] thì những người hoạt động mê tín dị đoan hoạt động không định kỳ, vì người đi xem bói chỉ gặp thầy bói khi trong nhà có việc bất thường xảy ra [mất của, chết đuối, ốm đau, hỏa hoạn,…], còn bình thường, có lẽ họ chẳng gặp thầy bói làm gì.

Năm là, nếu sinh hoạt tín ngưỡng được pháp luật bảo vệ, được xã hội thừa nhận thì hoạt động mê tín dị đoan bị xã hội lên án, không đồng tình.

3. Mối quan hệ giữa tôn giáo, tín ngưỡng và mê tín dị đoan

Như trên đã trình bày, giữa tôn giáo và tín ngưỡng; giữa tín ngưỡng với mê tín dị đoan có một số điểm khác biệt nhưng cũng có một số điểm tương đồng. Chính từ những điểm tương đồng này khiến chúng có mối quan hệ với nhau. Mối quan hệ đó thể hiện ở các phương diện sau:

Trước hết, các nhà truyền giáo của các tôn giáo phải dựa vào tín ngưỡng bản địa để tuyên truyền và thể hiện đức tin tôn giáo của mình. Về phía cộng đồng có đời sống tín ngưỡng cũng học hỏi được một số điểm phù hợp của một số tôn giáo về nghi thức hành lễ, về phẩm phục, về cách bài trí nơi thờ tự,…

Hai là, đối với hoạt động mê tín dị đoan, do không có cơ sở thờ tự chính thức, những người hành nghề đã mượn cơ sở thờ tự của tôn giáo [chủ yếu là của Phật giáo] và cơ sở thờ tự của tín ngưỡng dân gian để hành nghề. Cũng do hành nghề tại các cơ sở thờ tự tôn giáo và tín ngưỡng dân gian mà trong một mức độ nào đó, “độ tin cậy” của họ đối với khách hàng có thể được nâng cao

Ba là, một số tôn giáo và tín ngưỡng dân gian [tín ngưỡng thờ Mẫu, tín ngưỡng thờ Thành hoàng] dựa vào sự thiếu hiểu biết của người dân đã sử dụng một số thủ thuật của nghề mê tín dị đoan để tăng thêm sự huyền bí của một số lễ thức ngoài tôn giáo và tín ngưỡng [chẳng hạn, lễ thức xin âm dương, rút thẻ,…] mà tôn giáo, tín ngưỡng nào đó vay mượn. Mặt khác, người hành nghề mê tín dị đoan cũng học được ở các pháp sư Phật giáo một số thế tay bắt quyết để họ hành nghề trừ tà ma,…

Bốn là, những người hành nghề mê tín dị đoan hoạt động tại các cơ sở thờ tự tôn giáo và cơ sở thờ tự tín ngưỡng dân gian sẽ dễ dàng tiếp cận được với số đông khách hàng, và như vậy, nguồn lợi mà họ thu được sẽ nhiều hơn.

Tóm lại, tôn giáo, tín ngưỡng dân gian và mê tín dị đoan có những điểm giống và khác nhau và chúng có mối quan hệ qua lại với nhau. Mối quan hệ này được tạo ra bởi những người trực tiếp hoạt động trên những lĩnh vực đó. Phân biệt được sự giống nhau, khác nhau và mối quan hệ giữa chúng sẽ giúp chúng ta có cơ sở để góp phần phát huy mặt tích cực của tôn giáo, tín ngưỡng và khắc phục mặt tiêu cực của của chúng.

[1] Căn cứ theo tiêu chí là một tôn giáo phải có đầy đủ 4 yếu tố này, thì theo chúng tôi, tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam không phải là một tôn giáo [đạo] như có học giả đã chủ trương mà nó chỉ là một loại tín ngưỡng của người Việt. Cũng tương tự như vậy, tín ngường thờ cụ kỵ tổ tiên ở nước ta cũng chỉ là một loại hình tín ngưỡng chứ không phải là “Đạo Ông bà” như có học giả người Pháp đã xác định vào thời kỳ trước năm 1945.

Theo Ban Tôn giáo Chính phủ

Video liên quan

Chủ Đề