Tác giả Thanh Tịnh đã như thế nào

Viết đoạn văn về tác giả Thanh Tịnh

Chào bạn! Có phải bạn đang muốn viết một đoạn văn giới thiệu về tác giả Thanh Tịnh vừa ngắn gọn lại vừa chi tiết phải không?
Hãy cùng tham khảo những đoạn văn mẫu do Vui Học Văn tự biên tập dưới đây để giúp cho việc học văn của bạn trở nên dễ dàng hơn bao gi
ờ hết nhé!


Viết Đoạn văn giới thiệu về tác giả Thanh Tịnh

Đoạn văn giới thiệu ngắn gọn về nhà văn Thanh Tịnh

Trong những cây bút văn nghệ của dòng thơ thời tiền chiến, Thanh Tịnh nổi bật lên như một nhà thơ sở hữu tài năng sử dụng bút pháp hiện thực lãng mạn một cách điêu luyện. Bạn biết không? Ven sông Hương, ngoại ô Huế vào ngày 12 tháng 12 năm 1911, Trần Văn Ninh [tên thật của Thanh Tịnh] đã cất lên những tiếng khóc đầu đời. Lớn lên cùng dòng chảy hiền hòa của văn chương dân tộc, cùng với những tháng năm tự thân nuôi dưỡng niềm đam mê con chữ, sau này ông đã thi đỗ bằng Thành chung và làm nghề dạy học từ năm 1933. Có thể nói rằng, cuộc đời và sự nghiệp văn chương là một mảnh hồn liền mạch, không thiếu vị ngọt ngào cũng chẳng bớt vị đắng cay đối với một cây bút của tâm hồn nhạy cảm như Thanh Tịnh. Bởi lẽ, nghiệp văn chương của nhà thơ, nhà văn đã từng làm chủ nhiệm Tạp văn nghệ quân đội đã trải qua không ít trầm luân. Từ việc vụt sáng như một thơ ca đầy tài năng bằng những dấu ấn đậm nét mang phong vị cá nhân với tác phẩm “Rồi một hôm” ra đời năm 1936, ông đã có sự chuyển biến về thể loại để chuyển sang viết truyện ngắn với tập “Quê mẹ" được xuất bản năm 1945. Bằng chất giọng tâm tình, ngọt ngào pha lẫn nét êm dịu, đằm thắm, những truyện ngắn của Thanh Tịnh đã đưa những sáng tác của mình đến gần hơn với độc giả đương thời. Dù trải qua chặng đường cuối đời trong lẻ loi, hiu quạnh, đơn côi thế nhưng Thanh Tịnh vẫn vẹn nguyên nụ cười để rời xa nhân thế trong một ngày đẫm buồn của Huế cạnh ven sườn núi Thiên Thai vào hè năm 1988.

Đoạn văn giới thiệu chi tiết về tác giả Thanh Tịnh

Thanh Tịnh [1911-1988] là một trong những cây bút xuất sắc của làng văn học hiện thực lãng mạn. Các tác phẩm thơ và truyện ngắn của ông đều toát lên một vẻ êm dịu, đằm thắm. Có lẽ, mảnh đất ven sông Hương của thành phố Huế dịu êm đã vun bồi thêm cho tâm hồn tác giả nét thi vị rất riêng ấy. Cũng từ đó mà một loạt tập thơ như Hận chiến trường [1936], hai bài thơ “Mòn mỏi” và “Tơ trời với tơ lòng” được Hoài Thanh – Hoài Chân giới thiệu trong Thi nhân Việt Nam [1942] càng làm cho dấu ấn thơ của Thanh Tịnh trở nên vô cùng đậm nét. Bên cạnh đó, Thanh Tịnh còn mang cả chất thi sĩ của mình vào trong văn xuôi để từ đó sản sinh ra những tác phẩm truyện ngắn mang đầy phong vị của thi ca như Quê mẹ [1941], Chị và em 1942], Ngậm ngải tìm trầm [1943],… Dù là truyện ngắn hay thi ca thì độc giả đều có thể tìm thấy những hình ảnh trữ tình của làng quê thân yêu đã nuôi dưỡng tâm hồn của Thanh Tịnh. Chính vì vậy, càng độc văn, thơ của Thanh Tịnh thì người đọc càng say, say với hương vị nhớ thương của miền quê, xứ sở thân quen. Cùng với đó là sự tiếc thương khi phải tiễn biệt sự ra đi của người con đầy tăng của xứ Huế mộng mơ trong một ngày đẫm buồn của Huế cạnh ven sườn núi Thiên Thai vào hè năm 1988.

Cảm ơn quý độc giả đã dành thời gian để đọc bài viết này của chúng tôi. Các bạn muốn tìm hiểu thêm những thông tin khác liên quan đến nhà văn Thanh Tịnh có thể vào đây để tham khảo: Xem thêm

Từ khóa nhà văn thanh tịnh tác giả thanh tịnh thanh tịnh truyện ngắn của thanh tịnh viết đoạn văn giới thiệu về thanh tịnh

Bằng cách đăng ký, bạn đồng ý với Điều khoản sử dụng và Chính sách Bảo mật của chúng tôi.

Khái niệm phong cách nghệ thuật là một phạm trù thẩm mỹ, chỉ sự thống nhất tương đối ổn định của hệ thống hình tượng, của các phương tiện biểu hiện nghệ thuật, nói lên cái nhìn độc đáo trong sáng tác của một nhà văn, trong tác phẩm riêng lẻ, trong trào lưu văn học hay trong văn học dân tộc

– Trong nhận định trên, khái niệm phong cách được đề cập là phong cách nghệ thuật của một nhà văn, không phải bất cứ nhà văn nào cũng có phong cách. Chỉ có những nhà văn có tài năng, có bản lĩnh [nhà văn ưu tú] mới có được phong cách riêng độc đáo.

– Nhà văn có phong cách nhà văn chính là nhà văn phải đem lại một tiếng nói mới cho văn học, đó là sự độc đáo mà đa dạng, bền vững mà luôn đổi mới. Đặc biệt nó phải có tính chất thẩm mĩ nghĩa là đem lại cho người đọc sự hưởng thụ thẩm mĩ dồi dào. Phong cách không chỉ là dấu hiệu trưởng thành của một nhà văn mà khi đã nở rộ thì nó còn là bằng chứng của một nền văn học đã trưởng thành.

– Phong cách nghệ thuật có cội nguồn từ cá tính sáng tạo của nhà văn. Cá tính sáng tạo là sự hợp thành của những yếu tố như thế giới quan, tâm lí, khí chất, cá tính sinh hoạt… Phong cách của nhà văn cũng mang dấu ấn của dân tộc và thời đại.

– Có thể nhận ra phong cách của nhà văn trong tác phẩm. Có bao nhiêu yếu tố trong tác phẩm thì có bấy nhiêu chỗ cho phong cách nhà văn thể hiện. Cụ thể:

+ Qua cái nhìn, cách cảm thụ  giàu tính khám phá nghệ thuật đối với cuộc đời

+ Qua giọng điệu riêng, gắn liền với cảm hứng sáng tác

+ Nét riêng trong sự lựa chọn, xử lý đề tài, xác định chủ đề, xác định đối tượng miêu tả…

+ Tính thống nhất, ổn định trong cách sử dụng các phương thức và phương tiện nghệ thuật

- Các biểu hiện của phong cách văn học không tồn tại tách rời mà bao hàm lẫn nhau hay tồn tại thông qua nhau. Tất cả tạo thành một nguyên tắc xuyên suốt trong việc xây dựng hình thức nghệ thuật, đem lại cho hiện tượng văn học một tính chỉnh thể toàn vẹn.

- Làm rõ cách hiểu của bản thân qua một vài sáng tác [thuộc văn học lãng mạn Việt Nam 1930-1945] của một tác giả đã học, đọc thêm.

Học sinh có thể chọn một vài tác phẩm của một cây bút lãng mạn [thơ hoặc văn xuôi]: Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, Thạch Lam, Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử, Huy Cận…. Tuy nhiên học sinh phải đảm bảo yêu cầu:

+ Tác phẩm, tác giả được chọn để minh hoạ là văn học lãng mạn thuộc giai đoạn 1930-1945.

+ Phần minh hoạ phải bám sát vấn đề lí luận đã lí giải, phải làm nổi bật nét độc đáo [cái mới] mà tác giả đem đến cho văn học, nghĩa là cách cảm nhận độc đáo về thế giới và hệ thống bút pháp phù hợp với cách cảm nhận ấy được tác giả thể hiện như thế nào trong tác phẩm.

+ Quá trình lấy dẫn chứng, học sinh phải nhìn nhận tác phẩm theo nguyên tắc chỉnh thể [vì các biểu hiện của phong cách văn học không tồn tại tách rời mà bao hàm lẫn nhau hay tồn tại thông qua nhau].

Trong giới văn nghệ nói chung và cánh nhà văn ở Tạp chí Văn nghệ quân đội nói riêng, Thanh Tịnh nổi tiếng là một người hài hước, hóm hỉnh với những giai thoại và các mẩu chuyện vui được truyền tụng qua nhiều thế hệ. Vậy mà giữa hàng ngũ những người chịu ngang trái về mặt tình cảm phải chịu cảnh cô đơn trong giới văn nghệ sĩ thì trường hợp của ông là kéo dài lặng lẽ và xót xa hơn cả.

Đất nước 30 năm chiến tranh, bao con người phải chịu nỗi đau chia cắt, nhưng số phận Thanh Tịnh bi đát vào bậc nhất. Có gia đình vợ con từ sớm nhưng hầu như suốt đời ông chịu cảnh "ăn cơm tập thể, ngủ giường cá nhân". Năm 1946 từ Huế, được cử ra Việt Bắc họp Đại hội Văn hoá, kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ông khoác balô đi theo kháng chiến. Ngay sau năm 1954 khi về làm chủ nhiệm [Tổng biên tập] đầu tiên của Tạp chí Văn nghệ quân đội cho đến cuối đời, ông vẫn một thân một mình đơn lẻ.

Năm 1975, bao gia đình đón niềm vui sum họp, ông về Huế ít ngày rồi lại lặng lẽ trở về ngôi nhà số 4 Lý Nam Đế. Việc duy nhất mà Đại tá Thanh Tịnh đã làm trong những ngày ở Huế là viết một lá đơn xin bảo lãnh cho một đại tá ngụy là chồng người vợ cũ của mình. Con gái lớn đã đi ra nước ngoài. Con trai thứ sống ở Nha Trang. Ông đã kể lại câu chuyện riêng của mình với một nụ cười buồn bã.

Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, tên tuổi Thanh Tịnh được gắn liền với những tập truyện ngắn. Nhưng trên con đường nghệ thuật của mình, nơi ông thử sức đầu tiên lại thuộc về lĩnh vực thơ ca. Thanh Tịnh xuất hiện và được "định vị" ngay trên thi đàn vào những năm đầu của phong trào Thơ Mới, năm 1936, bài thơ “Rồi một hôm” của ông đã đoạt giải nhất cuộc thi thơ do Hà Nội báo tổ chức. Một số bài thơ khác như “Mòn mỏi” in trên báo Tinh hoa, “Tơ trời với tơ lòng” in trên báo Phong Hoá vừa xuất hiện đã gây được tiếng vang trong công chúng.

Những câu thơ lãng mạn, mang phong vị ngậm ngùi buồn man mác đã làm xao xuyến trái tim bao người đọc ngay từ khi mới ra đời. Thơ Thanh Tịnh nhẹ nhàng, êm ái giống như văn ông, và cái đặc sắc của nó nằm ở những lời, những ý đậm đà hương sắc, cảnh vật của làng quê Việt Nam.

Thơ Thanh Tịnh có nhiều câu gần gũi với âm hưởng ca dao. Thế mạnh đó của ông ngày càng được phát huy. Sau này có rất nhiều câu thơ của Thanh Tịnh được lan truyền trong nhân dân với tư cách là những câu ca dao.

Thanh Tịnh làm thơ không nhiều, nếu so với các "chủ tướng" của phong trào Thơ Mới như Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử... Nhưng với những bài thơ đã có, ông cũng đã được người đời biết đến với danh hiệu nhà thơ, đã được ghi nhận như là một trong những gương mặt đã góp phần tạo nên "một thời đại mới trong thi ca" - thời kỳ Thơ Mới.

Tên tuổi của nhà thơ Thanh Tịnh được nhiều người biết đến rộng rãi hơn khi tập truyện ngắn “Quê mẹ” của ông ra đời vào năm 1941. Từ khi xuất hiện cho đến nay “Quê mẹ” đã gắn liền với cuộc đời Thanh Tịnh và trở thành một dấu ấn quan trọng trong hành trình nghệ thuật của ông. Bao trùm lên toàn bộ tập truyện là một tình cảm êm dịu nhẹ nhàng của người dân vùng quê xứ Huế. “Quê mẹ” cũng như những tập truyện ngắn sau này phần lớn đều viết về Huế, nơi Thanh Tịnh sinh ra và lớn lên, đầy kỷ niệm.

Nhiều truyện ngắn của ông mang đầy phong vị Huế và tạo riêng cho ông một thi pháp văn xuôi độc đáo. Là một nhà thơ lãng mạn, Thanh Tịnh đã mang vào truyện ngắn chất trữ tình sâu lắng. Tập “Quê mẹ” man mác tình quê hương, tình người, từng trang viết của ông thấm đượm hương vị làng quê, một làng quê miền Trung với những vẻ đẹp thanh bình, êm ả nhưng cũng không hiếm những cảnh đời khổ đau, ngang trái.

Đọc truyện ngắn của Thanh Tịnh, chúng ta cảm nhận rất rõ điều này. Một làng quê nhỏ bé đã là cái nôi tâm hồn nuôi dưỡng những tác phẩm của ông. Ở đó chúng ta gặp gỡ và đồng cảm với tác giả trong mối tình quê rung rinh, lai láng trong khung cảnh sông nước ruộng đồng. Dường như tâm hồn ông gần gũi và ưa thích với những vẻ đẹp nhè nhẹ, những nét buồn lặng lặng...

Truyện ngắn Thanh Tịnh kể về một bến đò hiu hắt, một dòng sông với con đò dọc ẩn hiện những lời trao duyên tình tứ, về nỗi nhớ quê mẹ của một người con gái đi lấy chồng xa, về một nhà ga nho nhỏ giữa cánh đồng với con tàu bỏ lại đằng sau nó những hoài niệm về một tình yêu không bao giờ tới, về nỗi lòng bịn rịn của một cô gái quê khi phải chia tay với người bạn trai sau mùa gặt hái.

Đọc những truyện ngắn của Thanh Tịnh, người ta thường ít chú ý đến cốt truyện mà chỉ nhớ cái không khí, cái dư vị quyến luyến ngọt ngào, có pha chút ngậm ngùi buồn thương. Cảm giác ấy lắng sâu trong tâm hồn người đọc và cùng với cảm giác đó là một âm hưởng buồn buồn thấm thía qua những trang văn. Phong cách truyện ngắn của nhà văn Thanh Tịnh sớm định hình và tương đối nhất quán.

Từ “Quê mẹ”, “Chị và em” rồi đến “Ngậm ngải tìm trầm”, giọng điệu của ông không mấy thay đổi. Cái tôi của tác giả khiêm nhường đứng đằng sau những con người bình thường và nhỏ bé. Cái tôi của những cảm giác, cảm xúc mơ hồ, thoáng qua rất khó nắm bắt. Thanh Tịnh tập trung sự chú ý của mình vào đời sống nội tâm của nhân vật, đặc biệt là những xao động bất chợt, những giây lát gặp gỡ tình cờ mà làm khuấy động cả một nếp sống thường ngày bình lặng.

Tác phẩm của Thanh Tịnh đậm chất trữ tình, trong sáng và gợi cảm. Thạch Lam đã nhận xét rằng ở Thanh Tịnh "truyện ngắn nào hay đều có chất thơ và bài thơ nào hay đều có cốt truyện". Cùng với một số nhà văn như Thạch Lam, Hồ Dzếnh, Ngọc Giao, Đỗ Tốn, Thanh Châu… các truyện ngắn của Thanh Tịnh đã góp phần làm nên dòng truyện ngắn trữ tình đặc sắc trước năm 1945. Bản thân Thanh Tịnh cũng ý thức về điều này. Khi Hồ Dzếnh mất, ông làm bài thơ viếng: Đời xếp anh, tôi với Thạch Lam/ Ngồi chung một chiếu Hội Văn đàn/ Chao ôi! chiếu đã hai lần lạnh/ Còn lại mình tôi trên thế gian.

Tôi có may mắn được biết nhà thơ Thanh Tịnh từ nhỏ. Ông vốn là bạn và là người đồng hương miền Trung với cha tôi - nhà thơ, nhà viết kịch Lưu Quang Thuận. Nhưng cho đến năm 1983 khi Viện Văn học tổ chức làm tập sách Cách mạng kháng chiến và đời sống văn học, được cử đến làm việc với ông, tôi mới có dịp hiểu rõ hơn về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của ông.

Qua hồi ký “Độc tấu và hành trình theo kháng chiến” của ông, chúng tôi hiểu điều gì đã khiến cho một thi sĩ lãng mạn nổi danh từ thời tiền chiến như Thanh Tịnh đến với Cách mạng, hoà nhập và gắn bó hết lòng với thực tế kháng chiến đầy khó khăn, gian khổ. Đó chính là tình yêu đối với con người, với quê hương đất nước, là sự nhạy cảm bản năng của người nghệ sĩ.

Cũng trong thời gian này, ông đã khai sinh ra thể loại độc tấu, một thể loại lai tạo giữa thơ và kịch, vừa đi vừa viết vừa diễn, bộ môn nghệ thuật được coi là khinh binh và xung kích..

Lúc sinh thời, Thanh Tịnh thường hay nói đùa vui, tếu táo để che giấu nỗi buồn riêng. Có lần vào thăm ông trong Bệnh viện Quân đội 108, ông nói: Bác đã nói với các anh ở Tạp chí Sông Hương. Khi nào tôi chết cho xin một khung nhỏ nhưng đừng đề là tin buồn hoặc cáo phó mà hãy đề: Tin vui. Nhà thơ Thanh Tịnh đã trở về Quê mẹ". Nhà văn Đỗ Chu đã nói về tuổi già và nỗi cô đơn của ông bằng một câu thơ thật nhói buốt: Cổ mạch hàn phong cộng nhất nhân [đường xa gió lạnh thổi dồn vào một người].

Thanh Tịnh sinh năm 1911, ông bảo là mình cùng tuổi với Nhà hát Lớn Hà Nội và mất vào mùa hè năm 1988, nhưng đến ba năm sau ông mới được về cư ngụ bên sườn núi Thiên Thai, phía Tây thành phố Huế. Ngôi mộ ông hình đoá sen tròn nằm trên đồi thông tĩnh lặng và trong trẻo trong lòng Quê mẹ

Lưu Khánh Thơ

Video liên quan

Chủ Đề