Sau chiến tranh thế giới thứ 2 quan hệ giữa Liên Xô và Mỹ chuyển sang thế đối đầu là gì

Thời điểm mở màn Chiến tranh Lạnh

Vào tháng 4/1947, thuật ngữ “Chiến tranh Lạnh” được đưa ra lần đầu tiên để miêu tả sự chia rẽ chính trị giữa Mỹ và Liên Xô. Cuộc đối đầu kéo dài đó được cho là kết thúc vào năm 1991 với sự sụp đổ của Liên Xô. Nhưng hóa ra, tình trạng ngưng đó dường như chỉ xảy ra trong trí tưởng tượng.

Đồ họa về cuộc cạnh tranh khốc liệt trên nhiều mặt giữa 2 cường quốc Mỹ và Nga hiện nay. Nguồn: BBC.

Mặc dù Washington và Moscow là các đồng minh hiệu quả trong trận chiến chung chống Đức Quốc xã, hai đối thủ về hệ tư tưởng này không còn có thể che giấu sự thù địch lẫn nhau vào thời điểm Thế chiến II kết thúc năm 1945. Sau đó là tình trạng đối đầu lạnh giá phủ khắp hành tinh trong khoảng nửa thế kỷ khiến nhiều người e sợ về một thảm họa chiến tranh hạt nhân hủy diệt.

75 năm trước, cũng vào tháng 4 này, Bertrand Baruch – nhà tài phiệt và chính khách Mỹ, đã sáng tạo ra thuật ngữ “Chiến tranh Lạnh” để mô tả thế căng thẳng đối đầu kéo dài giữa 2 phe.

Phát biểu trước một phái đoàn nghị sĩ Mỹ, ông Bertrand nói: “Chúng ta đừng để bị đánh lừa, chúng ta đang ở giữa một cuộc chiến tranh lạnh. Kẻ thù chúng ta được phát hiện ở nước ngoài và cả trong nước. Đừng bao giờ quên điều này: Sự bất ổn của chúng ta là cốt lõi trong thành công của họ”.

Các sử gia có xu hướng nhất trí rằng Chiến tranh Lạnh bắt đầu vào năm 1947 với cái gọi là Học thuyết Truman – một chương trình “kiềm chế” nhằm vào kẻ thù không đội trời chung của Mỹ, theo khuyến nghị của nhà ngoại giao Mỹ George Kennan, và kéo dài đến ngày 26/12/1991, khi Liên Xô chính thức giải thể.

Một số người khác thì lập luận rằng Chiến tranh Lạnh thực sự bắt đầu từ tận năm 1945 khi Mỹ thả 2 quả bom nguyên tử lên các thành phố Hiroshima và Nagasaki của Nhật Bản vào những ngày cuối cùng của Thế chiến II.

Chính hành động đáng sợ đó [ném bom hạt nhân xuống Nhật Bản] – điều khiến cả Liên Xô và thế giới bất ngờ, thúc đẩy lãnh tụ Liên Xô Joseph Stalin tăng tốc chương trình hạt nhân Xô viết. Vào ngày 29/8/1949, Liên Xô thử thành công vũ khí hạt nhân đầu tiên của mình, nhờ đó đạt được thế cân bằng chiến lược với Mỹ.

Đối với hàng triệu người trên thế giới, đây là sự khởi đầu của cuộc Chiến tranh Lạnh thực sự - một cơn ác mộng thực sự, trong đó 2 cường quốc vũ trang hạt nhân bị vướng chặt vào một trận chiến ý thức hệ. Tại Mỹ, cũng như tại Liên Xô, học sinh đều đặn tham gia các cuộc diễn tập khẩn cấp để chuẩn bị cho những điều khủng khiếp có thể xảy ra do chiến tranh hạt nhân.

Có lẽ thời điểm thế giới tiến sát nhất tới một cuộc chiến tranh hạt nhân quy mô lớn là trong cuộc Khủng hoảng Tên lửa Cuba năm 1962, khi Tổng thống Mỹ Kennedy và Lãnh đạo Liên Xô Khrushchev thực hiện những bước đi cân não để tránh đối đầu hạt nhân mà vẫn giữ được thể diện. Cuối cùng tên lửa đạn đạo của hai bên đã được rút khỏi Thổ Nhĩ Kỳ [gần Nga] và khỏi Cuba [gần Mỹ].

Liên Xô tan rã nhưng Chiến tranh Lạnh chưa thực sự mất đi

30 năm sau sự kiện Tên lửa Cuba, Liên Xô đã tan rã và chỉ còn tồn tại trong sách vở. Một câu hỏi đặt ra là Chiến tranh Lạnh đã thực sự chấm dứt khi đó hay bóng ma của nó vẫn còn đeo đẳng cho tới hiện tại?

Ngay sau khi Liên Xô sụp đổ, Nga đối mặt với thách thức to lớn là chuyển đổi từ nền kinh tế chỉ huy sang nền kinh tế thị trường. Lúc này, cả Nga và Mỹ đã gạt sang một bên sự thù địch trong quá khứ, còn các cố vấn phương Tây đã tới Nga để hỗ trợ nước này cải cách kinh tế.

Sử dụng các kỹ thuật “liệu pháp sốc” theo kiểu tự do hóa do Quỹ Tiền tệ Quốc tế [IMF] tài trợ, Nga đã xóa bỏ kiểm soát giá và trợ cấp nhà nước, trong khi đưa ra kế hoạch “cho vay cổ phiếu” dành cho tư nhân hóa các tài sản trước đây thuộc sở hữu nhà nước. Kết quả cuối cùng là hàng loạt thảm họa như lạm phát diện rộng, thất nghiệp, đối nghèo tràn lan, sự trỗi dậy của tầng lớp đầu sỏ chính trị và sự gia tăng chưa từng thấy tỷ lệ tử vong. Ít nhất một nghiên cứu đã quy trách nhiệm về tình trạng này cho mức độ tự do hóa cẩu thả.

Như vậy hợp tác đầu tiên hậu Xô viết giữa Nga và Mỹ đã không phải là một sự khởi đầu đầy hứa hẹn.

Bước ngoặt trong quan hệ Mỹ-Nga thời hiện đại xuất hiện sau loạt tấn công khủng bố vào ngày 11/9/2001. Dù ông Vladimir Putin là lãnh đạo thế giới đầu tiên gọi điện cho Tổng thống Mỹ George W. Bush, đề xuất Nga dành cho Mỹ sự ủng hộ vô điều kiện, phía Mỹ đã đáp lễ bằng một việc mà Nga sẽ không thể nào sớm quên: Chỉ vài tháng sau đó, vào ngày 13/12/2001, Tổng thống Bush chính thức thông báo rằng Mỹ sẽ rút khỏi Hiệp ước chống Tên lửa đạn đạo [ABM]. Được Moscow và Washington ký kết vào năm 1972, Hiệp ước ABM duy trì sự ngang bằng chiến lược, và quan trọng hơn nữa là duy trì hòa bình giữa các cường quốc hạt nhân này - một dạng hành động cân bằng thường được mô tả bằng cụm từ “đảm bảo hủy diệt lẫn nhau”.

Mỹ đã làm gì ngay sau khi rút khỏi Hiệp ước 30 năm tuổi? Họ đã xúc tiến các kế hoạch triển khai ở Ba Lan một hệ thống tinh vi chống tên lửa đạn đạo, nằm rất sát biên giới nước Nga. Năm nay [2022], Mỹ đã triển khai cả binh sĩ ở Ba Lan.

Tờ báo Stars & Stripes vào tháng 1/2022 đưa tin: “Hải quân Mỹ gần đây đưa các thủy thủ lên một căn cứ mới – một cơ sở chiến lược ở miền Bắc Ba Lan. Cơ sở này sẽ hậu thuẫn cho hệ thống phòng thủ tên lửa châu Âu của NATO”.

VOV.VN - Cuộc chiến giữa Nga và Ukraine không có dấu hiệu sẽ sớm kết thúc. Cuộc chiến này làm xáo trộn lục địa châu Âu và có thể gây bất ổn hơn nữa cho hệ thống quốc tế. Không những vậy, nguy cơ leo thang thành xung đột hạt nhân đang gia tăng giữa Nga và phương Tây.

Năm 2021, Mikhail Khodarenok – một đại tá Nga về hưu, đã bình luận về ý nghĩa của hệ thống này đối với an ninh Nga và châu Âu.

Khodarenok viết: “Sự phát triển của tổ hợp Aegis Ashore ở Ba Lan làm Nga lo ngại. Đây chính là vấn đề. Hệ thống phóng Mark-41 có thể được điều chỉnh nhanh chóng và tên lửa SM-3 sẽ được thay thế bằng tên lửa hành trình tấn công mặt đất Tomahawk”.

Khodarenok nêu câu hỏi: “Nga sẽ phải làm gì trong tình huống này, khi sự chuyển đổi hệ thống Aegis đặt trên cạn ở Ba Lan có thể tạo ra một mối đe dọa thực sự đối với an ninh quốc gia của Nga”.

Tuy nhiên Nga đã không ngồi yên. Họ đã bận rộn tìm cách ứng phó với các nỗ lực của Mỹ và NATO nhằm xây dựng một hệ thống chống tên lửa đạn đạo ở Đông Âu. Ngay khi Washington rút khỏi Hiệp ước ABM, Moscow đã lập tức bắt tay tìm cách vượt qua hệ thống lá chắn tên lửa của Mỹ. Cuối cùng các nỗ lực của Nga đã đền đáp họ theo nhiều cách mà Mỹ có thể không đoán trước được.

Năm 2018, Tổng thống Nga Putin đọc một thông điệp Liên bang khá phi chính thống, trong đó ông công bố việc Nga chế tạo được tên lửa siêu thanh có thể bay nhanh đến mức “các hệ thống phòng thủ tên lửa bị vô dụng trước chúng”.

Nhà lãnh đạo Nga khi ấy tuyên bố một cách thách thức: “Không ai thực sự muốn nói chuyện với chúng tôi về cốt lõi của vấn đề này [tức hệ thống phòng thủ tên lửa của Mỹ ở Đông Âu] và không ai muốn lắng nghe chúng tôi. Giờ thì hãy lắng nghe nhé”.

Mối quan ngại của Moscow về cấu trúc quân sự chiến lược đang được xây dựng ở nước ngoài sát biên giới Nga không phải là bí mật gì cả. Hồi năm 2007, ông Putin đã trình bày diễn văn tại Hội nghị An ninh Munich, trong đó ông nhấn mạnh rằng đối với nước Nga, việc NATO mở rộng “thể hiện một sự khiêu khích nghiêm trọng làm giảm mức độ tin tưởng lẫn nhau”. Ông Putin đã nêu thẳng câu hỏi như sau: “Sự mở rộng đó là nhằm vào ai?”.

Từ đây đã xuất hiện hàng loạt diễn biến trên các lĩnh vực trong quan hệ Mỹ-Nga, cho thấy sự hồi sinh của “Chiến tranh Lạnh”: Thái độ không hài lòng của Mỹ đối với việc Nga can thiệp vào nội chiến Syria để chống IS, rồi đến các cáo buộc Nga can thiệp vào bầu cử Mỹ năm 2016…

Giờ đây khi chiến sự Ukraine đe dọa vượt ra ngoài vòng kiểm soát, đã đến lúc thế giới nguyện cầu cho cuộc Chiến tranh Lạnh mới không chuyển hóa thành chiến tranh nóng giữa Mỹ và Nga./.

Tiếp tục ôn thi môn Lịch sử, hôm nay các bạn sẽ được PGS.TS Vũ Quang Hiển hướng dẫn về nội dung “Quan hệ quốc tế [1945 – 2000]”.

A. Mục tiêu

– Trình bày và phân tích được những nét nổi bật của quan hệ quốc tế từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến năm 1991. Đó là sự đối đầu giữa hai phe: tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa.

– Trình bày được những biểu hiện của sự đối đầu Đông – Tây trong thời kì Chiến tranh lạnh: Chiến tranh Đông Dương 1946 – 1954; Chiến tranh Triều Tiên 1950-1953; Chiến tranh Việt Nam 1954 – 1975[1].

– Nêu và giải thích được những biểu hiện của xu hướng hoà hoãn Đông – Tây từ đầu những năm 70 [thế kỉ XX]. Phân tích tác động của xu thế đó với thế giới.

– Nêu được các xu thế của thế giới sau Chiến tranh lạnh với nội dung lấy phát triển kinh tế làm trọng điểm.

B. Nội dung

1. Nguyên nhân và sự khởi đầu của Chiến tranh lạnh

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, hai cường quốc Mĩ và Liên Xô nhanh chóng chuyển sang đối đầu và đi tới tình trạng Chiến tranh lạnh.

Nguyên nhân dẫn tới tình trạng Chiến tranh lạnh là:

+ Sự đối lập nhau về mục tiêu và chiến lược của hai cường quốc.

+ Mĩ hết sức lo ngại trước sự phát triển của chủ nghĩa xã hội, đã trở thành một hệ thống thế giới.

+ Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Mĩ vươn lên thành một nước tư bản giàu mạnh nhất, nắm ưu thế về vũ khí hạt nhân. Mĩ tự cho mình có quyền lãnh đạo thế giới.

Chiến tranh lạnh là chính sách thù địch, căng thẳng trong quan hệ giữa Mĩ và các nước phương Tây với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa.

Những sự kiện khởi đầu Chiến tranh lạnh là:

+ Thông điệp của Tổng thống Truman tại Quốc hội Mĩ [tháng 3-1947] khẳng định: Sự tồn tại của Liên Xô là nguy cơ lớn đối với nước Mĩ và đề nghị viện trợ 400 triệu USD cho Hi Lạp và Thổ Nhĩ Kì nhằm biến hai nước đó thành căn cứ quân sự chống Liên Xô.

+ “Kế hoạch Mác san” [tháng 6-1947] với khoản viện trợ 17 tỉ USD cho các nước Tây Âu nhằm tập hợp liên minh quân sự chống Liên Xô. Việc thực hiện kế hoạch này đã tạo nên sự phân chia đối lập về kinh tế và chính trị giữa các nước Tây Âu tư bản chủ nghĩa và các nước Đông Âu xã hội chủ nghĩa.

+ Tháng 4-1949, Mĩ lôi kéo 11 nước thành lập khối quân sự NATO, đây là liên minh quân sự do Mĩ cầm đầu nhằm chống Liên Xô và các nước Đông Âu.

+ Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Liên Xô đẩy mạnh việc giúp đỡ các nước Đông Âu khôi phục kinh tế xây dựng chế độ mới.

+ Tháng 1-1949, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa thành lập Hội đồng tương trợ kinh tế [SEV] để thúc đẩy sự hợp tác và sự giúp đỡ lẫn nhau giữa các nước.

+ Tháng 5-1955, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa thành lập Tổ chức Hiệp ước Vac-sa-va để tăng cường sự phòng thủ và chống lại sự đe doạ của Mĩ và phương Tây.

– Như vậy, sự ra đời của NATO và Tổ chức Hiệp ước Vácsava là những sự kiện đánh dấu sự xác lập của cục diện hai cực, hai phe do hai siêu cường Mĩ và Liên Xô đứng đầu mỗi cực, mỗi phe. Chiến tranh lạnh đã bao trùm thế giới.

2. Xu thế hoà hoãn Đông – Tây và sự chấm dứt “Chiến tranh lạnh”

– Từ đầu những năm 70 [thế kỉ XX], xu hướng hoà hoãn Đông – Tây đã xuất hiện với những cuộc gặp gỡ thương lượng Xô – Mĩ.

+ Trên cơ sở những thoả thuận Xô – Mĩ, Hiệp định về những cơ sở của quan hệ giữa Đông Đức và Tây Đức được kí kết [tháng 11-1972].

+ Năm 1972, Liên Xô và Mĩ kí Hiệp ước về việc hạn chế hệ thống phòng chống tên lửa [ABM] và Hiệp định hạn chế vũ khí tiến công chiến lược [SALT-1].

+ Tháng 8-1975, 33 nước châu Âu cùng Mĩ và Canađa kí Định ước Henxinki, khẳng định những nguyên tắc trong quan hệ giữa các quốc gia và tạo nên một cơ chế giải quyết các vấn đề liên quan đến hoà bình, an ninh ở châu Âu.

– Từ năm 1985 trở đi, Mĩ và Liên Xô kí kết các văn kiện hợp tác về kinh tế và khoa học – kĩ thuật.

– Tháng 12-1989, tại đảo Manta [Địa Trung Hải] hai nhà lãnh đạo M.Goócbachốp [Liên Xô] và G.Busơ [Mĩ] đã chính thức tuyên bố chấm dứt Chiến tranh lạnh, tạo điều kiện giải quyết các xung đột, tranh chấp ở nhiều khu vực trên thế giới.

– Tình trạng Chiến tranh lạnh chỉ thực sự kết thúc sau khi Liên Xô tan rã [1991], trật tự hai cực không còn nữa.

– Nguyên nhân chấm dứt tình trạng Chiến tranh lạnh:

+ Cuộc chạy đua vũ trang kéo dài bốn thập kỉ đã làm cho cả hai nước quá tốn kém và bị suy giảm thế mạnh trên nhiều mặt so với các cường quốc khác.

+ Sự vươn lên mạnh mẽ của Nhật Bản và Tây Âu…, trở thành những đối thủ cạnh tranh đối với Mĩ. Còn liên Xô lúc này nền kinh tế ngày càng lâm vào khủng hoảng trầm trọng.

3. Tình hình thế giới sau Chiến tranh lạnh

– Tình hình thế giới có những thay đổi lớn và phức tạp, phát triển theo các xu thế chính sau đây:

+ Một là, trật tự thế giới hai cực đã tan rã, trật tự thế giới mới đang trong quá trình hình thành và ngày càng theo xu thế đa cực với sự vươn lên của Mĩ, Liên minh châu Âu, Nhật Bản, Nga và Trung Quốc…

+ Hai là, các quốc gia đều điều chỉnh chiến lược phát triển, tập trung vào phát triển kinh tế, xây dựng sức mạnh thực sự của quốc gia.

+ Ba là, sự tan rã của Liên Xô tạo cho Mĩ có lợi thế tạm thời, Mĩ ra sức thiết lập trật tự thế giới “đơn cực” để làm bá chủ thế giới. Nhưng trong so sánh lực lượng giữa các cường quốc, Mĩ không dễ dàng thực hiện được tham vọng đó.

+ Bốn là, sau Chiến tranh lạnh, tuy hoà bình thế giới được củng cố, nhưng xung đột, tranh chấp và nội chiến lại xảy ra ở nhiều khu vực như bán đảo Bancăng, châu Phi và Trung Á.

– Thời cơ và thách thức:

+ Bước sang thế kỉ XXI, với sự tiến triển của xu thế hoà bình, hợp tác và phát triển, các dân tộc hi vọng về một tương lai tốt đẹp của loài người.

+ Nhưng cuộc tấn công khủng bố bất ngờ vào nước Mĩ ngày 11-9-2001đã mở đầu cho một thời kì biến động lớn, đặt các quốc gia dân tộc đứng trước những thách thức của chủ nghĩa khủng bố. Nó đã gây ra những tác động to lớn, phức tạp đối với tình hình thế giới và các quan hệ quốc tế.

C. Câu hỏi ôn tập

Câu 1. Trình bày nguyên nhân, diễn biến, đặc điểm và hệ quả của Chiến tranh lạnh?

Câu 2. Chiến tranh lạnh đã ảnh hưởng đến tình hình châu Á như thế nào?

Câu 3. Nêu những biểu hiện của xu thế hoà hoãn Đông – Tây và sự chấm dứt “Chiến tranh lạnh”. Vì sao hai nước Xô – Mĩ đi đến chấm dứt tình trạng Chiến tranh lạnh?

Câu 4. Sau khi Chiến tranh lạnh chấm dứt, tình hình thế giới có những biến đổi như thế nào?

____

[1] Phần này thuộc chương trình Nâng cao

Xem tiếp bài 6: Cách mạng Khoa học Công nghệ và Xu thế toàn cầu hoá

Video liên quan

Chủ Đề