Qua Đèo Ngang cách ngắt nhịp gieo vần

Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây

Dưới đây là một vài câu hỏi có thể liên quan tới câu hỏi mà bạn gửi lên. Có thể trong đó có câu trả lời mà bạn cần!

Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây

Dưới đây là một vài câu hỏi có thể liên quan tới câu hỏi mà bạn gửi lên. Có thể trong đó có câu trả lời mà bạn cần!

I – GỢI DẪN

Bài thơ này được viết theo thể thất ngôn bát cú. Đây là một trong hai dạng cơ bản, phổ biến nhất của thơ Đường luật, gồm thất ngôn bát cú [bảy chữ, tám câu] và thất ngôn tứ tuyệt [bảy chữ, bổn câu]. Thơ thất ngôn bát cú Đường luật có những quy định rất chặt chẽ về bố cục [tổ chức cơ bản về nội dung và hình thức], luật [quy định về vần, thanh trong cả bài, đối giữa các cặp câu 3 – 4, 5 – 6], niêm [sự liên kết giữa các câu 1 – 8, 2. – 3, 4 – 5, 6 – 7]. Ví dụ như về bố cục, thơ thất ngôn bát cú luật Đường chia thành bốn phần :

*        Hai câu đề [1, 2]   1 – Phá đề : mở ý của đầu bải.

*        Thừa đề : tiếp ý phá đề, chuyển vào thân bài

*        Hai câu thực [3, 4]         – Giải thích rõ ý của đầd bài

*        Hai câu luận [5, 6]         – Phát triển rộng ý của đầu bài

*        Hai câu kết [7, 8]  – Kết thúc ý của đầu bài.

Giống như Bà Chúa Thơ Nôm Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan là một trong số ít nữ sĩ tài danh của thời đại phong kiến. Tuy nhiên, thơ Hồ Xuân Hương và thơ Bà Huyện Thanh Quan khác nhau rất nhiều. Thơ Xuân Hương bình dị mà sắc sảo, bà thường tìm cách phá vỡ những nét chuẩn mực, đặc trưng của thơ ca phong kiến, đám chọc giận cả những vị “chính nhân quân tử”, qua đó đề cao, bảo vệ vẻ đẹp cũng như quyền sống, quyền hạnh phúc của người phụ nữ. Ngược lại, thơ Bà Huyện Thanh Quan thường phát triển theo hướng chuẩn mực, ngay ngắn, sức mạnh của thơ Xuân Hương là ở khả năng liên tưởng rộng rãi, phong phú từ những sự vật bình thường đến những yếu tố cao quý [ví dụ như vẻ đẹp của người phụ nữ]. Ngược lại, vẻ đẹp trong thơ Bà Huyện Thanh Quan là vẻ đẹp tinh tế của một tâm hồn thơ giàu nhạy cảm, những hình ảnh như tạc, vẽ, chạm, khắc làm nổi bật một cảnh trí thiên nhiên trong cái nhìn chan chứa yêu thương của tác giả đối với quê hương đất nước.

Bài thơ miêu tả vẻ đẹp hoang sơ của Đèo Ngang thuở trước đồng thời thể hiện một cách kín đáo nỗi cô đơn, niềm nhớ nước thương nhà của tác giả.

Trong bài Bạn đến chơi nhà, Nguyễn Khuyến cũng viết ta với ta :

Bạn đến chơi đây, ta với ta

Cùng là ta với ta nhưng nghĩa lại không giống nhau. Ta với ta trong thơ Nguyễn Khuyến chỉ hai người [chủ nhà và khách], còn ta với ta trong bài thơ này thì chỉ có một nhà thơ đang đối diện với chính mình. Nguyễn Khuyên vui với bạn trong cảnh nghèo, còn Bà Huyện Thanh Quan đôi diện với non xanh nước biếc mà lòng quạnh quẽ, hoang vắng. Bởi thế nên bài thơ bề ngoài là tả cảnh nhưng thưc chất lại là tả tình.

Đọc một bài thơ thất ngôn bát cú, trước hết phải chú ý đọc đúng nhịp [4/3], sau nữa là chú ý đến phép đối trong hai cặp 3 – 4, 5 – 6. Riêng với bài thơ này, cần chú ý đọc chậm, diễn cảm, thể hiện được nỗi buồn sâu lắng của tác giả.

II – KIẾN THỨC CƠ BẢN

Thơ Nôm Đường luật trong văn học Việt Nam đạt đến một trình độ điêu luyện với những bài thơ nổi tiếng của hai nữ sĩ tài hoa Hồ Xuân Hương và Bà Huyện Thanh Quan. Mỗi người, bằng những nét rất riêng, đã in đậm dâu ấn của mình trong lòng người đọc. Bên cạnh cái mạnh mẽ, sắc sảo, đầy cá tính của nữ sĩ họ Hồ là Bà Huyện Thanh Quan với những điệu buồn trang nhã, nhẹ nhàng, man mác mà đa diết thấm sâu. Với một số lượng ít ỏi các tác phẩm nhưng thơ của Bà Huyện lắng sâu, có sức ám ảnh, day đứt tâm can con người. Cùng với Chiều hôm nhớ nhà, Thăng Long thành hoài cổ, bài thơ Qua Đèo Ngang Xứng đáng được xem như một tác phẩm cổ điển của văn học nước nhà.

Không gian chiều thường gợi buồn gợi nhớ. Chiều trong ca dao cũng thường trở đi trở lại với vẻ buồn, nó đồng điệu và bởi thế dễ để người ta giãi bày tâm sự, thổ lộ tâm tư :

–        Chiều chiều ra đứng ngõ sau

Trông về quê mẹ ruột đau chín chiêu.

–        Chiều chiều lại nhớ chiều chiều

Nhớ cô yếm đỏ dải điều thắt lưng

–        Chiều chiều ra đứng bờ ao

Trông cả, cả lội, trông sao, sao mờ.

Thôi Hiệu, nhà thơ Trung Quốc, cũng đã từng buồn nhớ quê hương trong một chiều sông nước mịt mờ sương khói:

Quê hương khuất bóng hoàng hôn

Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai

Qua Đèo Ngang có cảnh có tình, cảnh chiều tà hoang vắng và một nỗi buồn thầm lặng, cô đơn. Bà Huyện Thanh Quan dường như rất có duyên với những cảnh chiều:

-Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo

Nền cũ lâu đài bóng tịch dương

-Chiều trời bảng lảng bóng hoảng hôn

Tiếng ốc xa đưa vẳng trống đồn

Và trong bài thơ này là một chiều qua Đèo Ngang. Hai câu đề mở ra cảnh chiều nơi đèo cao heo hút, hoang sơ :

Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà,

Cỏ cây chen đả, lả chen hoa.

Dừng chân trên đèo khi bóng chiều đã xế, cảnh tượng cây cỏ um tùm gợi một cảm giác ngao ngán, cái buồn đã bắt đầu xâm lấn vào hồn. Điệp từ ở câu thứ hai cực tả được cái hoang dại, rậm rạp choán ngợp không gian trong một cái nhìn gần. Tiếp đến, hai câu thực, với cái nhìn ở tầm xa, từ bên trên mà quan sát, khung cảnh chợt khiến ta bâng khuâng, nao nao buồn :

Lom khom dưới núi, tiều vải chú,

Lác đác bên sồng, chợ mấy nhà.

Bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Khuôn mẫu của thể thơ này đòi hỏi hai liên giữa [hai câu liền nhau] phải đối : câu 3 đôi với câu 4, câu 5 đối với câu 6. Chúng ta thấy một cặp đối ở hai câu thực : Lom khom / Lác đác, dưới núi / bên sông, tiều vài chú / chợ mấy nhà. Nằm trong sự cân đối ấy, hai từ vải và mây gợi vẻ thưa vắng, heo hút, buồn tẻ. Hai câu luận tiếp theo tác giả hé lộ những nỗi niềm :

Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc

Tiếng chim quốc quốc vẳng kêu nghe sao mà da diết, khắc khoải buồn thương. Chuyện xưa kể rằng vua nước Thục sau khi nhường ngôi cho vị tể tướng có tài trị thuỷ, lên ẩn cư tại núi Tây Sơn rồi qua đời, hồn biến thành chim đỗ quyên [chim quốc quốc], vào cữ tháng hai cho tới cuối xuân đầu hè thường cất tiếng kêu nghe ai oán, như tiếng gọi hồn nước cũ. Hai câu thơ này đối rất chỉnh : Nhớ nước / Thương nhà, đau lòng mỏi miệng, con quốc quốc / cái gia gia [theo nghĩa từ Hán Việt thì quốc = nước, gia = nhà, tác giả kín đáo bộc lộ tâm sự]. Đèo Ngang vốn là ranh giới giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài. Bà Huyện sinh vào thời Nguyễn, chồng bà làm quan thời Nguyễn nhưng vốn gốc người Thăng Long Bắc Hà nên lưu luyến triều xưa [nhà Lê] cũng là điều dễ hiểu. Các từ láy ở hai liên giữa giàu sức gợi hình, gợi thanh và tạo âm hưởng [lom khom, lác đác, quốc quốc, gia già]- Hai câu kết:

Dừng chân đứng lại, trời, non, nước,

Một mảnh tình riêng, ta với ta.

Tả cảnh ngụ tình là thủ pháp hay được sử dung trong thơ cổ. Bài thơ này cũng đã cho ta thấy một nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đặc sắc, điêu luyện, cảnh gợi buồn [bóng xê tả, tiều vài chú, chợ mấy nhà,..], có âm thanh nhưng chỉ càng thêm hoang vắng, khắc khoải, lòng người lại bâng khuâng hoài niệm,… tình và cảnh đan quyện vào nhau trong một điệu buồn hoang vắng, cô đơn. Nhưng phải đến những câu kết cái buồn xuyên suốt bài thơ mới bật ra thành những tiếng cảm thán, mang nặng nỗi u hoài không có ai chia sẻ. Một mảnh tình mong manh, riêng chiếc giữa cảnh trời, non, nước bao la càng khiến người ta cảm nhận sâu sắc cái cô độc hiện hữu, thấm thìa đến tận xương tuỷ. Nhịp điệu miên man như chính nỗi buồn nhớ miên man đến đây chợt ngưng đọng, ngắt nhịp 4/1/1/1 ở cuối câu thứ bảy tưa như một thoáng bồn chồn dừng chân.

TA với TA, mình lại đối diện với chính mình, xúc cảm buồn đến đây đã mang một chiều sâu mới. Trong chiều muộn, giữa không gian mênh mông, chỉ mình ta hiểu ta, cảnh có buồn song không thể sẻ chia được nỗi niềm, cô đơn lại càng cô đơn, một sắc thái cô đơn mang đậm phong vị cổ điển.

Vẻ đẹp của Qua Đèo Ngang là nét buồn trang nhã toát lên từ cảnh sắc thiên nhiên và của chính tâm hồn con người. Những cảm xúc đẹp đẽ mà  chúng ta được thưởng thức chỉ có thể được nảy sinh từ một tâm hồn tao nha với một tình yêu quê hương đất nước nặng sâu.

III – LIÊN HỆ

  1. Thơ Đường luật [còn gọi là thơ cận thể]. Thể thơ cách luật ngũ ngôn hoặc thất ngôn được đặt ra từ đời Đường ở Trung Quốc. Có ba dạng chính : thơ bát cú [mỗi bài tám câu], thơ tứ tuyệt [mỗi bài bốn câu] và thơ bài luật [dạng kéo dài của thơ Đường luật], trong đó, thơ bát cú, nhất là thất ngôn bát cú [mỗi bài tám câu, mỗi câu bảy chữ], được coi là dạng cơ bản vì từ nó có thể suy ra các dạng khác, về bố cục mỗi bài bát cú gồm bốn phần : đề, thực, luận, kết. Trong “đề”, câu thứ nhất là phá đề, cầu thứ hai là thừa đề. Câu phá đề có tác dụng mở ý. Câu thừa đề tiếp ý của phá đề chuyển vào thân bài. “Thực” [câu 3 và 4] còn gọi là “thích thực” hay “cập trạng”, giải thích rõ ý của câu đầu bài. “Luận” [câu 5 và câu 6] phát triển rộng ý của đầu bài. “Kết” [hai câu cuối], kết thúc ý toàn bài. Cách chia làm bốn phần như vậy cũng như việc quy định rõ nhiệm vụ cho từng phần càng về sau càng chặt. Các nhà thơ có tài năng thường không để cho bố cục nói trên gò bó. về luật bằng trắc, buộc phải theo sư quy định về thanh bằng và thanh trắc trong từng câu và trong cả bài. Hệ thống này được tính từ chữ thứ hai của câu thứ nhất. Nếu chữ này thanh bằng thì bài thơ thuộc luật bằng [và ngược lại]. Sự sắp xếp âm thanh chẳng qua chỉ làm cho điệu thơ không đơn điệu. Muốn vậy trong mỗi câu, các cặp bằng trắc lần lượt thay nhau : trong mỗi cặp [còn gọi là “liên”], các chữ tương ứng của câu số lẻ và số chẵn phải có thanh ngược nhau [chữ thứ năm và thứ bảy trong liên đầu]. Nhịp đi của “liên” trên phải khác nhịp đi của “liên” dưới, muốn vậy chữ thứ hai của câu chẵn thuộc “liên” trên phải cùng thanh với chữ thứ hai của câu lẻ thuộc “liên” dưới [sư giống nhau đó gọi là “niêm” vì làm cho hai câu thuộc hai liên dính vào nhau]. Ví dụ: Công thức bốn câu đầu của một bài thơ luật bằng :

Trên thực tế ít người theo đúng hoàn toàn công thức, do đó sinh ra lê “bất luận” : chữ thứ nhất của câu hoàn toàn bất luận [bằng trắc đều được] : chữ thứ năm nói chung ngược thanh với chữ thứ bảy, song cũng có thể bất luận ; riêng chữ thứ ba, nếu là bằng thì không nên đổi thành trắc, nhất lả ở câu có vần. về cách đối : đối ở phần “thực” và “luận”. Các chữ đối nhau về nguyên tắc phải cùng từ loại. Các nhà thơ thường thích dùng các kiểu đối khác nhau để giảm tính chất gò bó như đối lưu thuỷ [hơi thơ cũng như ý của câu thứ hai là do câu thứ nhất trượt xuống, không thể đứng một mình], tá đối [mượn âm hoặc nghĩa một từ khác để đối], điệu đối [chủ yếu là đối về âm điệu], tự đối [đối trong nội bộ một câu], khoan đối [đối không thật chỉnh], về cách gieo vần : chỉ gieo một vần và chỉ gieo vần bằng [ở cuối các câu 1, 2, 4, 6, 8]. Riêng chữ cuối câu thứ nhất, đặc biệt là ở thơ ngũ ngôn, có thể không gieo vần.

Trong quá trình sử dụng, các nhà thơ đã sáng tạo thêm nhiều biệt thể mới của thơ Đường luật như tiệt hạ [ý, lời của mỗi câu thơ đều lơ lửng], yết hậu [thơ tứ tuyệt mà câu cuối chỉ có một vài chữ], thủ vĩ ngâm [câu một giống câu tám], v.v. Nhiều nhà thơ Việt Nam như Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Tú Xương, Nguyễn Khuyến, đã sử dụng thể thơ Đường luật để viết nhiều bài thơ có giá trị và trong quá trình sử dụng, đã dân tộc hoá thể thơ này về nhiều phương diện. Do tính chất gò bó về hình thức, từ lâu, đối với số đông người làm thơ, thơ Đường luật khó diễn đạt được đầy đủ, sinh động tình cảm của con người hiện đại. Tuy vậy, thơ Đường luật thỉnh thoảng vẫn còn xuất hiện trên một số lĩnh vực và ở một số trường hợp nhất định trong cuộc sống văn hoá của nhân dân ta”.

NGUYỄN KHẮC PHI [Từ điển văn học, tập II, Sđd]

  1. Từ cảm hứng của Bà Huyện Thanh Quan, tác giả Trần Văn Lợi viết bài thơ Qua Đèo Ngang nhớ Bà Huyện Thanh Quan :

Vịn thơ Bà Huyện trèo lên,

Bâng khuâng tôi đã đứng trên đỉnh chiều.

Con đường thiên lí cheo leo,

Hoành Sơn như dải mây treo vách trời.

Lôi mòn vẫn đá rêu phơi,

Lá chen hoa giống buổi người qua đâỵ.

Tôi ngồi như cỏ như cây,

Nhẩm câu thơ cổ, chắp tay lặng thâm.

Người như mây trắng ngần năm,

Đèo Ngang trầm mặc, biển nằm chiêm bao.

Câu thơ hóa thạch thuở nào,

Người đi, hồn đã nhập vào núi non.

Đi qua một thuở vầng son,

Tháng năm khuất phía hoàng hôn quê nhà.

Nẻo đường trước mặt còn xa,

Phía sau một bước đã là nhớ thương.

Bóng người thấp thoảng đèo sương,

Nối niềm lữ thứ còn vương đến giờ.

Tôi vân vi mây vẩn thơ,

Giật mình tiếng cuốc bên bờ thực hư.

[Tạp chí Văn học và tuổi trẻ, số 8 – 2003]

File PDF

Xem thêm

Bạn đến chơi nhà

Related

Tags:Bà Huyện Thanh Quan · hot · Ngữ văn 7 · Qua đèo Ngang

Video liên quan

Chủ Đề