Promissory estoppel ngoại lệ của consideration
KỲ 1: ĐIỀU KIỆN HÌNH THÀNH HỢP ĐỒNG? SỰ CÓ QUA CÓ LẠI. CÁC VẤN ĐỀ VỀ ĐỐI ỨNG (CONSIDERATION)
Đối ứng là điều kiện hình thành nên hợp đồng ở Anh; là những gì mỗi bên đưa vào một hợp đồng. Nó thường là một sự hứa hẹn cho một hành động hoặc một sự hứa hẹn khác.
Từ điển luật Collins:Consideration là sự trao đổi, hứa hẹn theo đó mỗi bên được lợi và chịu thiệt. Trong luậtAnh, yêu cầu có consideration trước khi hợpđồng ràng buộc pháp lí. Các nhà bình luận và lí thuyết gia pháp lí nhấn mạnh điều này dựa trên sự nhìn nhận hợp đồng là một món hời được trao đi đổi lại[1]. Tác giả Phạm Duy nghĩa nhận định consideration là nghĩa vụ đối ứng, theo đó, để hợp đồng được xác lập một cách có hiệu lực, ngoài cam kết của các bên phải tồn tại consideration như là một lời hứa của người được đề nghị giao kết hợp đồng sẽ thực hiện một nghĩa vụ đối ứng và theothông luật, considerationphải được hiểu như là sự trả giá cho một người khi người này hứa thực hiện một hành vi nhất định[2]. Consideration được coi là một cái gì đó có giá trị được đưa ra nhằm đổi lại cho việc thực hiện hoặc hứa hẹn thực hiện với mục đích hình thành một hợp đồng; nói chung là cần thiết để thực hiện một lời hứa ràng buộc và thực hiện thoả thuận của các bên được thi hành như một hợp đồng.Considerationphân biệt hợp đồng với quà tặng[3]. CASE 1: Cô Paula đang điều hành một doanh nghiệp tại Bờ Tây và vui vẻ với cuộc sống đơn thân, cô đồng ý lời đề nghị của mẹ mình, trở lại Bờ Đông để chăm sóc mẹ. Cảm động, người mẹ hứa cho Paula một khoản tiền trong tài khoản ngân hàng. Không văn bản nào được kí kết, và sau khi mẹ Paula mất, các anh chị em khác phản đối việc Paula sở hữu tài khoản ngân hàng trên. Những người này cho rằng không hợp đồng nào được thiết lập giữa mẹ và Paula vì Paula không đưa ra một consideration nào để đổi lại tài khoản ngân hàng đó. Toà án nhìn nhận: (1) Paula chăm sóc mẹ trên cơ sở đề nghị của mẹ cô và, (2) Việc cô từ bỏ sự nghiệp kinh doanh đang trên đà phát triển đã cấu thành nên consideration, và theo đó lời hứa phải được thực thi. Xem xét tình huống trên, bản chất pháp lí của consideration là sự trao đổi hứa hẹn những gì có giá trị giữa các bên. Trên thực tế, Paula đã thực hiện việc chăm sóc mẹ (1) và đổi lại (2), để cảm ơn, mẹ Paula đã hứa cho Paula số tiền trong tài khoản ngân hàng. Căn cứ cả trao đổi, hứa hẹn đều có giá trị (something of value), Toà án công nhận có consideration trong sự trao đổi đó. Và việc để Paula nắm giữ tài khoản ngân hàng của mẹ cô là hợp pháp. Consideration gồm ba đặc tính[4]: (1) Hứa hẹn trong suốt quá trình thương thuyết, mặc cả phụ thuộc vào những gì các bên nhận được; (2) consideration bao gồm một cái gì đó giá trị (something of value); (3) lợi ích và sự hi sinh của các bên là hợp pháp. Tóm lại, đó là sự trao đổi có qua có lại. Yếu tố tiên quyết thừa nhận có hình thành hợp đồng theo hệ thống Common Law. Thật ra thì xét về consideration thì phải xét là ở Common Law hay Civil Law. Mặc dù consideration là một trong các yếu tố nhằm xét hợp đồng có hiệu lực ở Common Law; Civil Law lại không áp dụng nguyên tắc này, và consideration không là một trong các yếu tố bắt buộc. Ví dụ ở pháp luật Việt Nam thì ở khoản 2 điều 402 Bộ Luật Dân sự 2015 có quy định về hợp đồng đơn vụ theo đó chỉ có 1 bên có nghĩa vụ, chẳng hạn như hợp đồng tặng cho tài sản. Theo Điều 457 Bộ Luật Dân sự 2015 thì Hợp đồng tặng cho tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên tặng cho giao tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù, bên được tặng cho đồng ý nhận.
Có hai loại đối ứng có giá trị pháp lý được thực thi và có thể thực thi. Nếu đối ứng đã xảy ra, thì nó không được tính là căn cứ hình thành hợp đồng. Một bên không nhất thiết đưa cho bên kia cùng một loại đối ứng miễn là đối ứng được đưa ra có giá trị pháp lý. 2.1 Đối ứng được thực thi (executed consideration) Executed consideration là một hành động trao đổi cho một sự hứa hẹn. Nếu A đề nghị một phần thưởng để trao đổi cho một tài sản bị mất, thì lời hứa của anh ta sẽ ràng buộc khi B thực hiện hành động hoàn trả tài sản của A cho anh ta. A không bị ràng buộc trả bất kỳ thứ gì cho bất kỳ ai cho đến khi hành động được mô tả được hoàn tất. Hành động của nguyên đơn trong vụ Carlill[5], đáp lại lời hứa thưởng của công ty đạn khói, do đó tạo thành executed consideration (đối ứng được thực thi). 2.2 Đối ứng có thể thực thi (executory consideration) Executory consideration là một sự hứa hẹn trao đổi cho một sự hứa hẹn. Đối ứng xuất hiện khi lời hứa này đổi lấy lời hứa khác, không phải là một hành động được thực thi. Nếu một khách hàng đặt những món hàng mà người bán hàng cam kết nhận từ nhà sản xuất, người bán hàng hứa hẹn cung cấp những món hàng và khách hàng hứa hẹn nhận và thanh toán cho những món hàng đó. Không có ai đã hoàn thành bất kỳ việc gì, nhưng mỗi bên đã đưa ra lời hứa để nhận được lời hứa của bên còn lại. Vi phạm hợp đồng sẽ xảy ra nếu bất kỳ bên nào rút lại lời hứa mà không được sự đồng ý của bên còn lại. 2.3 Đối ứng trong quá khứ (past consideration) Bất kỳ việc gì đã được thực hiện trước khi một lời hứa được đưa ra là đối ứng trong quá khứ (past consideration). Nhìn chung, việc này không đủ để ràng buộc lời hứa.
Tuy nhiên khi đối ứng được ngụ ý tại thời điểm bắt đầu, nó sẽ không được xem là quá khứ.
Nếu đã có một thỏa thuận hiện hữu. Sau đó chỉ một bên có hứa hẹn xa hơn, thì không có thêm thỏa thuận nào được tạo ra. Ngay cả khi sự hứa hẹn đó liên quan trực tiếp đến việc thương lượng trước đó, nó sẽ được xem là past consideration.
2.4 Tính thỏa đáng và tính hiệu lực Đối ứng không nhất thiết thỏa đáng, nhưng phải có hiệu lực thi hành. Điều này có nghĩa là những gì được xem là đối ứng thì phải phù hợp theo quy định của pháp luật, nhưng không nhất thiết các đối ứng phải có giá trị tương xứng với nhau. Tòa án sẽ đảm bảo rằng một hành động hoặc một lời hứa cụ thể có thể được xem là đối ứng, dựa trên 2 quy tắc sau:
2.4.1 Tính thỏa đáng Xem xét kỹ hơn, một bên được giả định là có đủ khả năng biết được lợi ích của anh ta, và tòa án sẽ không cân nhắc giá trị tương đối của lời hứa hoặc hành động được trao đổi.
2.4.2 Tính hiệu lực thi hành Đối ứng có tính hiệu lực thi hành nếu nó có giá trị có thể nhận biết. Luật pháp chỉ yêu cầu yếu tố thương lượng, không nhất thiết phải là một thương lượng hợp lý.
2.4.3 Một số loại consideration có thể đưa ra làm trao đổi: a) Tiền, tài sản và dịch vụ Tiền là consideration được một bên đề nghị đổi lấy lời hứa hoặc việc thực hiện hợp đồng của bên còn lại. Các bên tự do thương thảo về số tiền làm consderation, trừ trường hợp số tiền này có khung luật định (ví dụ: xăng, dầu, khí ga). Trước khi tiền trở thành phương tiện trao đổi trung gian, consideration bao gồm tài sản và dịch vụ. Thời hiện đại, đặc biệt trong thời kỳ kinh tế suy thoái và lạm phát, đôi khi các bên nhận thấy có lợi hơn khi thoả thuận trao đổi hàng hoá/dịch vụ, thay vì thanh toán bằng tiền mặt. Toà án Hoa Kỳ công nhận các thoả thuận trao đổi đó có consideration hợp lệ. Ví dụ, việc chuyển giao dịch vụ để đổi lại sử dụng xe của người khác, hoặc hứa trao đổi đồng hồ lấy máy đánh chữ, thể hiện lợi ích và sự có qua có lại thiết lập nên consideration hợp lệ. Từ đó có thể ràng buộc thành hợp đồng. b) Cam kết làm từ thiện Vì các tổ chức từ thiện và các tổ chức phi lợi nhuận hoạt động dựa vào sự đóng góp thiện nguyện, nên toà án Hoa Kỳ nhìn nhận các cam kết từ thiện là nghĩa vụ hợp đồng.Khi cam kết tài trợ cho một dự án thiện nguyện cụ thể, người làm từ thiện đã thiết lập một consideration đối với tổ chức thiện nguyện và dự án cụ thể đó. Xét về mặt pháp lí, cam kết từ thiện là một thoả thuận đơn phương có hiệu lực thực thi khi dự án khởi động. c) Hứa không kiện Lời hứa không kiện xảy ra khi một bên có tố quyền (quyền khởi kiện). Các bên thoả thuận điều kiện và điều khoản để bên có tố quyền không thực hiện việc khởi kiện. Đổi lại, bên bị đơn sẽ trả cho bên có tố quyền một khoản tiền. Phương thức này mang tính tập quán trong việc giải quyết các vụ kiện bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (tai nạn giao thông như ví dụ dưới đây). Loại hình consideration này thường được thực hiện đối với các vụ kiện tốn kém chi phí và mất thời gian. Dưới đây là một tình huống minh họa cho consideration hứa không kiện: Shaw bị thương khi một chiếc taxi thuộc sở hữu và điều hành bởi Công ty Taxi Andrews & Limo mất kiểm soát và đâm vào Shaw khi cô băng qua Đại lộ số 5 ở Trung Manhattan. Andrews đề nghị trả 250000 $ cho Shaw nếu cô đồng ý không khởi kiện công ty. Shaw đã đồng ý với các điều khoản. Ở đây, đối ứng có giá trị mà Shaw chuyển giao cho Andrews là quyền khởi kiện (tố quyền). Toà án Hoa Kỳ sẽ tôn trọng thoả thuận này dựa trên lời hứa giữa các bên. Nếu xem xét ví dụ minh họa nêu trên trong hệ quy chiếu của pháp luật Việt Nam thì sẽ thấy thoả thuận không khởi kiện kể trên là vô hiệu. Bởi lẽ,thứ nhất, tố quyền (quyền khởi kiện) tại Việt Nam không thể giá trị được bằng tiền;thứ hai, thoả thuận của các bên thuộc vào các điều cấm của pháp luật dân sự Việt Nam;thứ ba,trường hợp kể trên được xem xét là bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Trên thực tế, các va chạm giao thông ở Việt Nam dẫn đến thoả thuận tương tự không hiếm. Tuy nhiên, xét về mặt pháp lí, thoả thuận này chỉ có hiệu lực ràng buộc đối với các bên trong va chạm giao thông và không được toà án nào công nhận. Tóm lại, trên cơ sở xem xét các khái niệm và ví dụ minh họa nêu trên, consideration có bản chất pháp lí là những gì (things) được trao đi đổi lại giữa các bên trong giao kết hợp đồng, cam kết và hứa hẹn trao đổi những cái khác (things) trong quá trình thực hiện hợp đồng trên thực tế. Thông thường, nếu không có consideration thì hợp đồng không có giá trị ràng buộc các bên trong giao kết hợp đồng. 2.5. Các trường hợp không được coi là có đối ứng 2.5.1 Thực hiện nghĩa vụ của HĐ đang tồn tại (Performance of existing contractual duty) Thực hiện nghĩa vụ hợp đồng đang tồn tại hoặc một nghĩa vụ được quy định trong luật thì không tồn tại sự đối ứng.
Nhưng nếu có thêm điều khoản bổ sung thì thỏa thuận này có thể đối ứng đầy đủ.
Trong vụ của Glasbook, cả hai bên đều không vi phạm luật và điều khoản trong hợp đồng. Khi hành động của một bên dẫn đến việc yêu cầu cảnh sát phải có mặt thường xuyên và cảnh sát cho rằng việc có mặt là cần thiết thì họ có thể nhận tiền công.
2.5.2 Lời hứa thưởng thêm (additional reward) Nếu tồn tại một hợp đồng giữa A và B, và B thỏa thuận trả thêm thù lao cho A nếu A thực hiện các điều khoản trong hợp đồng thì không có sự đối ứng từ A để thỏa thuận có hiệu lực.
Nếu một nguyên đơn thực hiện nhiều hơn điều khoản đã giao trong hợp đồng hiện có thì trường hợp này có thể có đối ứng.
Tòa án ngày nay thực thi theo một hướng khác trong vấn đề trả tiền của đối ứng thêm vào. Nguyên tắc của đối ứng có thể không được áp dụng nếu tranh chấp có thể giải quyết trên cơ sở thay thế.
Như vậy có thể thấy, đối ứng sẽ không xuất hiện trong trường hợp lời hứa hay thỏa thuận được lập có đối tượng là công việc, mà công việc này là nghĩa vụ bắt buộc thực hiện được quy định trong luật hoặc được thỏa thuận trong hợp đồng. Điều này đảm bảo sự đối ứng giữ nguyên bản chất là sự trả giá cho một người khi người này hứa thực hiện một hành vi nhất định[6], chứ không phải là hứa hẹn cho một nghĩa vụ bắt buộc. 2.6 Các trường hợp được coi là có đối ứng 2.6.1 Thực hiện nghĩa vụ HĐ đối với bên thứ ba Nếu A thỏa thuận với B về một khoản thù lao cho việc B thực hiện hợp đồng hiện có với C, tồn tại một đối ứng cho thỏa thuận của A vì A nhận được một lợi ích trước đấy không có và bên B đảm nhận nghĩa vụ mới. Như vậy, đối ứng xuất hiện trong một lời hứa khi bên hứa nhận được một lợi ích trước đấy không có và bên còn lại sẽ xuất hiện một nghĩa vụ mới. Điều này phần nào thể hiện ý chí của các bên khi tham gia vào giao dịch hợp đồng, A mong muốn đạt được lợi ích và B chấp nhận nghĩa vụ phát sinh để nhận được hứa hẹn của A (khoản thù lao). 2.6.2 Từ bỏ quyền đang tồn tại (waiver of existing rights) Nếu X nợ Y 100 bảng Anh nhưng bên Y đồng ý nhận một số tiền ít hơn, khoảng 80 bảng Anh, cho toàn bộ yêu cầu của Y thì đấy là thỏa thuận thực hiện bởi Y để từ bỏ quyền lợi nhận tiền dư 20 bảng Anh. Thỏa thuận, giống như những thỏa thuận khác, nên được hỗ trợ bởi đối ứng.
Tuy nhiên có ngoại lệ là con nợ (X ở trên) phải trả tiền nếu sự từ bỏ có hiệu lực. 2.6.3 Các trường hợp ngoại lệ
References: [1] Stewart, William.J.,Collins Dictionary of Law, Collins, London, The United of Kingdom, 2006, p. 100 [2] Phạm Duy Nghĩa, Pháp luật chung về hợp đồng của Hoa KỳtrongBước đầu tìm hiểu pháp luật thương mại Hoa Kỳ,Đào Trí Úc (chủ biên), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002, tr. 189 và 190 [3] Gifis, Steven.H.,Dictionary of Legal Terms, Barrons, New York, USA, 2008, p. 107. [4] Brown, Gordon.W., Sukys Paul. A., Ibid, p. 139 [5] Vụ án Bà Carlill và quả bóng khói hơi Carbolic (chi tiết tại Phụ lục đính kèm) [6] Phạm Duy Nghĩa, Pháp luật chung về hợp đồng của Hoa Kỳ trong Bước đầu tìm hiểu pháp luật thương mại Hoa Kỳ, Đào Trí Úc (chủ biên), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002, tr. 189 và 190. Nhóm tác giả: Biên tập: Quách Thị Ngọc Thiện [Kỳ 2: Trường hợp miễn trách thực hiện hợp đồng. Chế định Frustration trong Luật hợp đồng Anh] Chia sẻ:Thích bài này:Thích Đang tải... |