Ông ngoại mất để tang bao lâu
Việc để tang cho người thân đã khuất là một ứng xử có tính nghi lễ. Nghi lễ này dựa trên mối giao cảm tự nhiên; là mặc định của thiên luân đối với người đời trong tương quan huyết thống, thân sơ; là mặc định do phép tắc, luân lý mỗi thời quy định…Thế cho nên nghi lễ để tang có thể thay đổi tùy thời. Mỗi thể chế chính trị đều có một bộ luật gồm cả hình sự và dân sự, những quy định về tang khó nằm trong luật hình sự. Tại sao? Vì khi xét tội danh của một tội nhân cụ thể, tính chất nặng nhẹ của tội danh đều liên quan đến người thân của tội nhân. Những ngươi thân phải chịu một phần trách nhiệm hình sự. mà trách nhiệm hình sự của người liên quan chủ yếu xét qua quan hệ thân sơ, huyết thống. thẩm định quan hệ huyết thống thân sơ không gì bằng qua việc để tang cho người thân. (2015.ᴠn) Việc để tang đã thể hiện một nền ᴠăn minh lâu đời, có tôn ti trật tự, có phép tắc hẳn hoi, ᴠà thân ѕơ phân biệt rõ ràng ᴠì thế, bao lâu thì mãn tang là điều rất quan trọng đối ᴠới ᴠăn hóa người Việt. Bạn đang хem: đeo băng tang đen trong bao lâu Nội dung chính Show
Trước hết chúng ta phải hiểu thế nào là Phát Tang, Để Tang ᴠà Xả Tang trước khi tìm hiểu bao lâu thì mãn tang haу cách chúng ta báo hiếu, ᴠiệc ân đền, nghĩa trả cùng lòng kính trọng, tiếc thương đối ᴠới người quá cố như thế nào thì phù hợp.- Phát Tang: là thời điểm bắt đầu tất cả anh em, họ hàng, con cháu thể hiện ѕự tiếc nuối ᴠới người đã khuất.- Để Tang: là quãng thời gian những người thân thi hành nhiệm ᴠụ ᴠà bổn phận của ѕự buồn thương, nuối tiếc cũng là ѕự trả hiếu, trả ân nghĩa cho nhau trong một thời hạn cố định. Thời hạn để tang phụ thuộc theo sự liên hệ gần hay xa đối với người đã mất. Việc để tang ở nước ta chia ra đại tang và tiểu tang. Về tiểu tang có 4 bậc, đại tang chỉ có 1 bậc. Đại tang và tiểu tang gồm tất cả 5 bậc, gọi là ngũ phục.
1. Đại tang:
- Để tang tứ thân phụ mẫu: Con để tang cha mẹ ruột và cha mẹ nuôi, nàng dâu để tang cha mẹ chồng, cháu đích tôn thừa trọng (thay cha khi cha mất) để tang ông bà, và chắt thừa trọng (thay cha và ông khi cha và ông đều mất) để tang cụ ông cụ bà. - Vợ để tang chồng 2. Tiểu tang:
- Cơ niên: 1 năm
+ Cha mẹ để tang cho con trai, con dâu trưởng, và con gái (chưa đi lấy chồng)
- Đại công: 9 tháng
+ Cha mẹ để tang con gái (đã đi lấy chồng) và con dâu thứ
- Tiểu công: 5 tháng
+ Anh chị em cùng mẹ khác cha để tang cho nhau - Ti ma: 3 tháng
+ Cha mẹ để tang cho con rể Đồng thời cũng là:
- Những người con, cháu đã quay lưng với cha mẹ, ông bà họ hàng nhưng vì biến cố người này qua đời mà họ đang bắt đầu biết thương xót, biết ăn năn, hối hận.
- Những người vợ, người chồng đã lỡ bội bạc nay vì biến cố người kia qua đời mà họ đã bắt đầu biết ăn năn, hối hận.
- Những ai là người không tốt trong họ hàng, trong bạn bè… Nay vì biến cố chết chóc này họ cũng đã biết bắt đầu ân hận về cách cư xử không đẹp đối với người xấu số.
Qua đây, có thể thấy quan niệm trước đây rất trọng năm khinh nữ khi thời gian vợ để tang chồng là 27 tháng, tức là đại tang nhưng chồng để tang vợ chỉ có một năm. Ngoài ra, con gái đã được gả chồng thì thuộc về nhà chồng nên phụ nữ đã đi lấy chồng sẽ được người thân thích để tang một thời hạn ngắn hơn là lúc chết mà chưa có chồng.
Sau 49 ngày có thể xả tang được cho cha mẹ hay không?
Tục lệ về đại tang, tiểu tang cùng thời gian bao lâu thì mãn tang cho phù hợp đều bắt nguồn từ văn hóa của Nho giáo người Trung Hoa. Do họ đã xâm chiếm và cai trị đất nước Việt Nam cả một ngàn năm nên những phong tục tập quán lễ nghi của chúng ta đã chịu ảnh hưởng rất sâu đậm. Hơn nữa, trong thời kỳ Tam giáo đồng nguyên: Nho, Phật và Lão, cả ba nguồn văn hóa đều có sự sinh hoạt trộn lẫn hòa quyện với nhau một cách rất chặt chẽ.
Theo Nho giáo “Thiên kinh vạn quyển hiếu nghĩa vi tiên” tức là phải lấy việc hiếu thảo làm đầu. Cho nên, người ta cư tang với mục đích là để bày tỏ nỗi lòng hiếu thảo của những người còn sống đối với người đã chết. Người Việt Nam mới bắt chước làm theo vì thấy phù hợp và phong tục tập quán này đã lưu truyền cho đến hôm nay. Trong Phật giáo không có đề cập đến việc phục sức tang chế. Lúc còn sống mình đối xử với những người thân thuộc như ông bà cha mẹ… của mình như thế nào, thì khi chết cũng phải cư xử như thế đó. Do vậy, việc để tang là một biểu nghi hình thức để bày tỏ nỗi nhớ thương người đã khuất bóng. Ngày xưa, việc cư tang rất lâu, phải qua cái lễ cúng đại tường 2 năm, tiểu tường là 1 năm. Cho nên, ngày xưa các con cháu phải để tang cho cha mẹ ông bà phải đúng 2 năm mới xả. Nghĩa là phải qua cái lễ giỗ đại tường. Nhưng về sau, người ta lại giảm dần đi. Vì để tang lâu, có nhiều việc bất tiện, trở ngại nhiều cho việc cưới hỏi, làm ăn, ảnh hưởng không tốt tới cuộc sống hàng ngày nên, việc cư tang hiện nay đã không còn giữ đúng như tục lệ ngày xưa nữa. Giờ đây, thông thường là sau 49 ngày là con cháu có thể làm lễ xả tang. Vì một lý do hoàn cảnh nào đó quá đặc biệt, ngoài ý muốn như bố mẹ mất ở Việt Nam trong khi con cái đang làm ăn, học tập ở nước ngoài không thể về Việt Nam được để thọ tang, thì Phật tử và gia quyến trong thân thuộc có thể đến chùa để xin chư Tăng Ni làm lễ thọ tang.
Có nhiều khi, ông bà cha mẹ mới chết, mà con cháu lại tranh chấp đấu đá tranh giành hơn thua với nhau, hoặc giả sát sanh hại vật cúng tế linh đình. Việc này chỉ làm cho người đã khuất khó được siêu thoát thì việc cư tang cũng không có ý nghĩa gì nhiều.
Do đó, tục lệ cư tang tùy theo thời đại mà nó có sự thay đổi và thích nghi. Vì thế, tùy theo yêu cầu ý muốn của tang quyến mà chúng ta làm theo, thiết nghĩ, cũng không có gì là lỗi đạo sai trái. Vấn đề thời gian ngắn hay dài, lâu hay mau không thành vấn đề nữa. Thật ra hiếu thảo hay không là ở nơi lòng người. Còn tang chế, cũng như các hình thức lễ nghi khác, tất cả chỉ là biểu lộ cho tấm lòng của con người mà thôi. |