Khả năng tài chính là gì

Năng lực tài chính của doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây  [467.5 KB, 84 trang ]

Chương 1
Những vấn đề lý luận cơ bản về năng lực tài chính của doanh nghiệp
1.1.

Khái quát về doanh nghiệp và tài chính doanh nghiệp

1.1.1. Khái quát về doanh nghiệp
Doanh nghiệp là thuật ngữ có nguồn gốc từ lĩnh vực kinh tế học. Doanh
nghiệp như một cái áo khoác  là phương tiện để thực hiện ý tưởng kinh
doanh. Muốn kinh doanh, mỗi người phải chọn lấy cho mình một trong số
những loại hình mà pháp luật quy định. Trên thực tế doanh nghiệp được gọi
bằng nhiều thuật ngữ khác nhau như : công ty, nhà máy, xí nghiệp, hãng,...
Về góc độ pháp lý, theo Khoản 1 Điều 4 Luật doanh nghiệp ban hành ngày 29
tháng 11 năm 2005 của Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
doanh nghiệp được khái niệm như sau: Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có
tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh
theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện ổn định các hoạt động
kinh doanh.
Cũng theo luật này, doanh nghiệp có quyền : Tự chủ kinh doanh; chủ động lựa
chọn ngành, nghề, địa bàn, hình thức kinh doanh, đầu tư; Chủ động mở rộng
quy mô và ngành, nghề kinh doanh; Được Nhà nước khuyến khích, ưu đãi và
tạo điều kiện thuận lợi tham gia sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích
; Lựa chọn hình thức, phương thức huy động, phân bổ và sử dụng vốn ; Chủ
động tìm kiếm thị trường, khách hàng và ký kết hợp đồng ; Kinh doanh xuất
khẩu, nhập khẩu. Doanh nghiệp cũng có quyền: Tuyển dụng, thuê và sử dụng
lao động theo yêu cầu kinh doanh ; Chủ động ứng dụng khoa học công nghệ
hiện đại để nâng cao hiệu quả kinh doanh và khả năng cạnh tranh ; Tự chủ
quyết định các công việc kinh doanh và quan hệ nội bộ ; Chiếm hữu, sử dụng,
định đoạt tài sản của doanh nghiệp. Từ chối mọi yêu cầu cung cấp các nguồn
lực không được pháp luật quy định. Khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp
luật về khiếu nại, tố cáo ; Trực tiếp hoặc thông qua người đại diện theo uỷ




quyền tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật. Và các quyền khác theo
quy định của pháp luật.
Nghĩa vụ của doanh nghiệp là : Hoạt động kinh doanh theo đúng ngành, nghề
đã ghi trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; bảo đảm điều kiện kinh
doanh theo quy định của pháp luật khi kinh doanh ngành, nghề kinh doanh có
điều kiện ; Tổ chức công tác kế toán, lập và nộp báo cáo tài chính trung thực,
chính xác, đúng thời hạn theo quy định của pháp luật về kế toán ; Đăng ký mã
số thuế, kê khai thuế, nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác theo
quy định của pháp luật ; Bảo đảm quyền, lợi ích của người lao động theo quy
định của pháp luật về lao động; thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y
tế và bảo hiểm khác cho người lao động theo quy định của pháp luật về bảo
hiểm ; Bảo đảm và chịu trách nhiệm về chất lượng hàng hoá, dịch vụ theo tiêu
chuẩn đã đăng ký hoặc công bố ; Thực hiện chế độ thống kê theo quy định của
pháp luật về thống kê; định kỳ báo cáo đầy đủ các thông tin về doanh nghiệp,
tình hình tài chính của doanh nghiệp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo
mẫu quy định; khi phát hiện các thông tin đã kê khai hoặc báo cáo thiếu chính
xác, chưa đầy đủ thì phải kịp thời sửa đổi, bổ sung các thông tin đó ; Tuân thủ
quy định của pháp luật về quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ
tài nguyên, môi trường, bảo vệ di tích lịch sử, văn hoá và danh lam thắng cảnh.
Và các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
1.1.2. Tổng quan về tài chính doanh nghiệp
1.1.2.1. Khái niệm tài chính doanh nghiệp
Tài chính là một phạm trù kinh tế, phản ánh các quan hệ phân phối của cải xã
hội dưới hình thức giá trị. Phát sinh trong quá trình tạo lập, phân phối và sử
dụng các quỹ tiền tệ của các chủ thể trong nền kinh tế nhằm đạt mục tiêu của
các chủ thể ở mỗi điều kiện nhất định.
Vậy, Tài chính doanh nghiệp là các quan hệ kinh tế phát sinh gắn liền với
quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ trong quá trình hoạt



động kinh doanh của doanh nghiệp nhằm đạt tới mục tiêu nhất định mà doanh
nghiệp đề ra.
Căn cứ vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, DN có các mối
quan hệ tài chính chủ yếu sau:
Mối quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với ngân sách Nhà nước
Mối quan hệ này thể hiện ở chỗ Nhà nước cấp phát, hỗ trợ vốn và góp vốn cổ
phần theo những nguyên tắc và phương thức nhất định để tiến hành sản xuất
kinh doanh và phân chia lợi nhuận. Đồng thời, mối quan hệ tài chính này cũng
phản ánh những quan hệ kinh tế dưới hình thức giá trị phát sinh trong quá trình
phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân giữa
ngân sách Nhà nước với các doanh nghiệp được thể hiện thông qua các khoản
thuế mà doanh nghiệp phải nộp vào ngân sách Nhà nước theo luật định.
Mối quan hệ tài chính giữa các doanh nghiệp với thị trường tài chính
Các quan hệ này được thể hiện thông qua việc tài trợ các nhu cầu vốn của
doanh nghiệp. Với thị trường tiền tệ thông qua hệ thống ngân hàng, các doanh
nghiệp nhận được các khoản tiền vay để tài trợ cho các nhu cầu vốn ngắn hạn
và ngược lại, các doanh nghiệp phải hoàn trả vốn vay và tiền lãi trong thời hạn
nhất định. Với thị trường vốn, thông qua hệ thống các tổ chức tài chính trung
gian khác, doanh nghiệp tìm kiếm các nguồn tài trợ khác để đáp ứng nhu cầu
vốn dài hạn bằng cách phát hành các chứng khoán. Ngược lại, các doanh
nghiệp phải hoàn trả mọi khoản lãi cho các chủ thể tham gia đầu tư vào doanh
nghiệp bằng một khoản tiền cố định hay phụ thuộc vào khả năng kinh doanh
của doanh nghiệp. [Thị trường chứng khoán] Thông qua thị trường tài chính,
các doanh nghiệp cũng có thể đầu tư vốn nhàn rỗi của mình bằng cách kí gửi
vào hệ thống ngân hàng hoặc đầu tư vào chứng khoán của các doanh nghiệp
khác.
Mối quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với các thị trường khác



Các thị trường khác như thị trường hàng hóa, dịch vụ, thị trường sức lao
động,...Là chủ thể hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp phải sử
dụng vốn để mua sắm các yếu tố sản xuất như vật tư, máy móc thiết bị, trả
công lao động, chi trả các dịch vụ...Đồng thời, thông qua các thị trường, doanh
nghiệp xác định nhu cầu sản phẩm và dịch vụ mà doanh nghiệp cung ứng, để
làm cơ sở hoạch định ngân sách đầu tư, kế hoạch sản xuất, tiếp thị...nhằm làm
cho sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp luôn thỏa mãn nhu cầu của thị
trường.
Mối quan hệ tài chính trong nội bộ doanh nghiệp
Đây là mối quan hệ tài chính khá phức tạp, phản ánh quan hệ tài chính giữa
các bộ phận sản xuất kinh doanh, giữa các bộ phận quản lý, giữa các thành
viên trong doanh nghiệp, giữa quyền sở hữu vốn và quyền sử dụng vốn.
1.1.2.2. Vai trò của tài chính doanh nghiệp
Tài chính doanh nghiệp là công cụ huy động đầy đủ và kịp thời các nguồn tài
chính nhằm đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra
bình thường và liên tục
Đối với các doanh nghiệp, để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh cần
phải có các yếu tố cần thiết: Tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao
động, từ đó đòi hỏi doanh nghiệp cần phải có một lượng tiền tệ hay vốn nhất
định. Vì vậy, vốn được coi là tiền đề cho mọi hoạt động của DN. Trong quá
trình hoạt động, doanh nghiệp thường nảy sinh các nhu cầu vốn ngắn hạn và
dài hạn cho hoạt động SXKD thường xuyên cũng như hoạt đông đầu tư phát
triển. Việc thiếu vốn sẽ làm cho hoạt động của doanh nghiệp gặp khó khăn
hoặc không triển khai được, từ đó gây ảnh hưởng tới mục tiêu của doanh
nghiệp. Do đó việc đảm bảo huy động vốn đầy đủ, kịp thời là hết sức quan
trọng.
Vai trò của tài chính doanh nghiệp trước hết thể hiện ở chỗ xác định đúng đắn
các nhu cầu vốn cần thiết cho hoạt động của doanh nghiệp trong từng thời kỳ



và tiếp đó phải lựa chọn các phương pháp và hình thức thích hợp huy động
vốn từ bên trong và bên ngoài đáp ứng kịp thời các nhu cầu vốn cho hoạt động
của doanh nghiệp. Ngày nay cùng với sự phát triển của nền kinh tế đã nảy sinh
nhiều hình thức mới cho phép các doanh nghiệp huy động các nguồn vốn từ
bên ngoài. Do vậy vai trò của tài chính doanh nghiệp ngày càng trở nên quan
trọng hơn trong việc chủ động lựa chọn các hình thức và phương pháp huy
động vốn đảm bảo cho doanh nghiệp hoạt động liên tục và có hiệu quả với chi
phí huy động vốn ở mức thấp nhất.
Tài chính doanh nghiệp có vai trò trong việc tổ chức sử dụng vốn tiết kiệm và
hiệu quả
Hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào việc tổ
chức sử dụng vốn. Tài chính doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng vào việc
đánh giá và lựa chọn dự án đầu tư trên cơ sở phân tích khả năng sinh lời và
mức độ rủi ro của các dự án đầu tư từ đó góp phần lựa chọn dự án đầu tư tối
ưu. Việc huy động vốn kịp thời các nguồn vốn có ý nghĩa rất quan trọng để
doanh nghiệp có thể nắm bắt được các cơ hội kinh doanh. Mặt khác việc huy
động tối đa số vốn hiện có vào hoạt động kinh doanh có thể giảm bớt và tránh
được những thiệt hại do ứ đọng vốn gây ra, đồng thời giảm bớt được nhu cầu
vay vốn, từ đó giảm được các khoản tiền trả lãi vay. Việc hình thành và sử
dụng tốt các quỹ của doanh nghiệp, cùng với việc sử dụng các hình thức
thưởng phạt vật chất một cách hợp lý sẽ góp phần quan trọng thúc đẩy người
lao động gắn bó với doanh nghiệp từ đó nâng cao năng suất lao động,cải tiến
kỹ thuật , nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Tài chính doanh nghiệp là công cụ giám sát, kiểm tra chặt chẽ hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp
Quá trình hoạt động kinh doanh của DN cũng là quá trình vận động, chuyển
hóa hình thái của vốn tiền tệ. Thông qua tình hình thu, chi tiền tệ hàng ngày,
tình hình tài chính và thực hiện các chỉ tiêu tài chính, lãnh đạo và các nhà quản



lý doanh nghiệp có thể đánh giá tổng hợp và kiểm soát được các mặt hoạt động
của doanh nghiệp, phát hiện được kịp thời những tồn tại hay khó khăn vướng
mắc trong hoạt động SXKD, từ đó có thể đưa ra các quyết định để điều chỉnh
các hoạt động cho phù hợp với diễn biến thực tế kinh doanh.
1.2.

Năng lực tài chính của doanh nghiệp

1.2.1. Khái niệm năng lực tài chính của doanh nghiệp
Theo Từ điển tiếng Việt, Năng lực là khả năng đủ để làm một công việc nào
đó hay Năng lực là những điều kiện được tạo ra hoặc vốn có để thực hiện
một hoạt động nào đó.
Tài chính [như đã đề cập ở trên] là một phạm trù kinh tế, phản ánh các quan hệ
phân phối của cải xã hội dưới hình thức giá trị. Phát sinh trong quá trình tạo
lập, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ của các chủ thể trong nền kinh tế
nhằm đạt mục tiêu của các chủ thể ở mỗi điều kiện nhất định.
Vậy, năng lực tài chính của một DN là nguồn lực tài chính của bản thân DN,
là khả năng tạo tiền, tổ chức lưu chuyển tiền hợp lý, đảm bảo khả năng thanh
toán thể hiện ở quy mô vốn, chất lượng tài sản và khả năng sinh lời đủ để
đảm bảo và duy trì hoạt động kinh doanh được tiến hành bình thường.
1.2.2. Các tiêu chí đánh giá năng lực tài chính của doanh nghiệp
Năng lực tài chính của doanh nghiệp được đánh giá dựa trên các yếu tố định
lượng và các yếu tố định tính:
Các yếu tố định lượng thể hiện nguồn lực tài chính hiện có, bao gồm: quy mô
vốn, chất lượng tài sản, khả năng thanh toán và khả năng sinh lời
Các yếu tố định tính thể hiện khả năng khai thác, quản lý, sử dụng các nguồn
lực tài chính được thể hiện qua trình độ tổ chức, trình độ quản lý, trình độ công
nghệ, chất lượng nguồn nhân lực
Để dễ dàng cho việc đánh giá, xem xét năng lực tài chính của một DN, ta có

thể phân chia thành các nhóm chỉ tiêu như sau:
Khả năng huy động vốn đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh.


Hiệu quả sử dụng vốn.
Khả năng sinh lời.
1.2.2.1. Khả năng huy động vốn đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh
Quy mô, cơ cấu nguồn vốn
Quy mô vốn
Trong nền kinh tế thị trường, DN có thể huy động, sử dụng nhiều nguồn vốn
khác nhau để đáp ứng nhu cầu về vốn của mình. Nhìn tổng thể dựa trên tiêu
chí về nguồn gốc của NV, thì nguồn vốn của doanh nghiệp bao gồm: vốn chủ
sở hữu và nợ phải trả.
Vốn chủ sở hữu là các nguồn vốn thuộc sở hữu của chủ doanh nghiệp và các
thành viên trong công ty liên doanh hoặc các cổ đông trong các công ty cổ
phần. Có ba nguồn tạo nên vốn chủ sở hữu: số tiền góp vốn của các nhà đầu tư,
tổng số tiền tạo ra từ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh [lợi nhuận chưa
phân phối] và chênh lệch đánh giá lại tài sản. Vốn chủ sở hữu bao gồm: vốn
kinh doanh [vốn góp và lợi nhuận chưa chia], chênh lệch đánh giá lại tài sản,
các quỹ của doanh nghiệp như: quỹ phát triển, quỹ dự trữ, quỹ khen thưởng
phúc lợi... Ngoài ra vốn chủ sở hữu còn gồm vốn đầu tư xây dựng cơ bản và
kinh phí sự nghiệp [kinh phí do ngân sách Nhà nước cấp phát không hoàn
lại...]
Nợ phải trả gồm chủ yếu là vốn vay và một phần là vốn chiếm dụng của bên
thứ ba. Vốn vay có vị trí đặc biệt quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Nó có thể đáp ứng các nhu cầu về vốn trong ngắn
hạn hoặc dài hạn, có thể huy động được số vốn lớn, tức thời. Tuy nhiên, sử
dụng vốn vay phải hết sức chú ý đến cơ cấu vốn của doanh nghiệp, kế hoạch
sử dụng vốn phải đảm bảo hợp lý, đúng mục đích; quản lý tốt quỹ tiền mặt, kỳ
trả nợ và kỳ thu tiền, kế hoạch sản xuất kinh doanh phải được lập bám sát thực

tế... nếu không vốn vay sẽ trở thành một gánh nặng đối với doanh nghiệp. Bên
cạnh vốn vay, DN còn có nguồn vốn không thường xuyên là vốn chiếm dụng


của bên thứ ba như vốn chiếm dụng của nhà cung cấp [tín dụng thương mại],
lương cán bộ công nhân viên chậm thanh toán
Để đánh giá đúng năng lực tài chính của DN thông qua chỉ tiêu nguồn vốn thì
vốn chủ sở hữu phải được xem xét nhiều nhất. Doanh nghiệp có VCSH lớn thì
tạo được long tin đối với đối tác do khả năng chi trả, thanh toán được đảm bảo.
VCSH càng lớn chứng tỏ doanh nghiệp có khả năng đối phó tốt với những
nguy cơ luôn tiềm tàng trong điều kiện kinh doanh ngày càng khó khăn như
hiện nay. Một trong những chỉ tiêu quan trọng nhằm đánh giá khả năng tài
chính vững vàng, mức độ tài trợ của VCSH cho hoạt động SXKD của DN là tỷ
suất tự tài trợ tài sản dài hạn:

Tỷ suất này lớn hơn 1 thể hiện khả năng tài chính vững vàng. Vốn chủ sở hữu
của DN đáp ứng được nhu cầu cho mua sắm TSDH phục vụ SXKD của doanh
nghiệp, góp phần đảm bảo an toàn trong kinh doanh. Ngược lai, nếu nhỏ hơn 1
có nghĩa là một phần tài sản dài hạn được tài trợ bằng nguồn vốn vay. Nếu vốn
vay đó là vốn ngắn hạn thì DN đang kinh doanh trong cơ cấu vốn mạo hiểm.
Cơ cấu nguồn vốn
Cơ cấu nguồn vốn là thể hiện tỷ trọng của các nguồn vốn trong tổng giá trị
nguồn vốn mà DN huy động, sử dụng vào hoạt động SXKD.
Trong điều kiên hiện nay, có nhiều kênh để DN có thể huy động được lượng
vốn cần thiết, đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh của mình. Tuy nhiên, điều
quan trọng là doanh nghiệp cần phối hợp huy động và sử dụng các nguồn vốn
để tạo ra một cơ cấu vốn hợp lý nhằm đưa lại lợi ích tối đa cho DN.
Quyết định về cơ cấu nguồn vốn là vấn đề tài chính hết sức quan trọng vì :



Cơ cấu nguồn vốn là một trong các yếu tố quyết định đến chi phí sử dụng vốn
bình quân của DN.
Cơ cấu nguồn vốn ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu hay thu
nhập trên một cổ phần và rủi ro tài chính của một DN hay công ty cổ phần.
Cũng chính vì vậy mà cơ cấu nguồn vốn là một trong những tiêu chí phản ánh
năng lực tài chính của doanh nghiệp. Khi nguồn vốn của doanh nghiệp được
huy động, phân phối và sử dụng hiệu quả thì tình hình tài chính của DN có căn
cứ để đánh giá là tốt.
Khi xem xét cơ cấu NV, người ta thường chú trọng đến mối quan hệ giữa nợ
phải trả và vốn chủ sở hữu trong tổng nguồn vốn của doanh nghiệp. Cơ cấu
nguồn vốn của DN được thể hiện qua các chỉ tiêu chủ yếu sau:
Tỷ số nợ hoặc tỷ số vốn chủ sở hữu [tỷ suất tự tài trợ]
Tỷ số nợ được đo bằng tỷ số giữa tổng nợ phải trả và tổng NV hay tổng tài sản
của DN :

Tổng số nợ ở đây bao gồm nợ ngắn hạn và nợ dài hạn phải trả. Chủ nợ thường
thích công ty có tỷ số nợ thấp vì như vậy công ty có khả năng trả nợ cao hơn.
Ngược lại, cổ đông muốn có tỷ số nợ cao vì như vậy làm gia tăng khả năng
sinh lợi cho cổ đông. Tuy nhiên muốn biết tỷ số này cao hay thấp cần phải so
sánh với tỷ số nợ của bình quân ngành. Tỷ số nợ càng thấp thì mức độ bảo vệ
dành cho các chủ nợ càng cao trong trường hợp doanh nghiệp rơi vào tình
trạng phá sản và phải thanh lý tài sản.
Rất khó để có thể đánh giá được mức độ vay nợ phù hợp với doanh nghiệp hay
tỷ số nợ như thế nào là tốt đối với một DN nói chung, vì tỷ số nợ phụ thuộc rất
nhiều yếu tố: loại hình doanh nghiệp, quy mô của doanh nghiệp, tính chất
lĩnh vực hoạt động, mục đích vayVà cũng tùy vào từng thời kỳ phát triển


của doanh nghiệp mà có tỷ số nợ phù hợp khác nhau. Tuy nhiên thông thường
tỷ số nợ trên 50% là chấp nhận được.

Nhìn tổng thể, nguồn vốn của doanh nghiệp bao gồm nợ phải trả và vốn chủ sở
hữu. Do đó, có thể xem xét cơ cấu NV của doanh nghiệp qua tỷ số vốn chủ sở
hữu hay tỷ suất tự tài trợ :

= 1 - Tỷ số nợ
Tỷ số nợ trên vốn chủ sở hữu
Cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp còn được thể hiện qua tỷ số nợ trên vốn
chủ sở hữu :

Thông thường, nếu tỷ số này lớn hơn 1, có nghĩa là tài sản của DN được tài trợ
chủ yếu bởi các khoản nợ, còn ngược lại thì tài sản của DN được tài trợ chủ
yếu bởi nguồn vốn chủ sở hữu. Về nguyên tắc, tỷ số này càng nhỏ, có nghĩa là
nợ phải trả chiếm tỷ lệ nhỏ so với tổng tài sản hay tổng nguồn vốn thì DN ít
gặp khó khăn hơn trong tài chính. Tỷ số này càng lớn thì khả năng gặp khó
khăn trong việc trả nợ hoặc phá sản của DN càng lớn.
Trên thực tế, nếu nợ phải trả chiếm quá nhiều so với nguồn vốn chủ sở hữu có
nghĩa là DN đi vay mượn nhiều hơn số vốn hiện có, nên DN có thể gặp rủi ro
trong việc trả nợ, đặc biệt là càng gặp nhiều khó khăn hơn khi lãi suất ngân
hàng ngày một tăng cao.
Huy động vốn đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh
Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng khốc liệt như hiện nay, khi mà những cơ
hội kinh doanh chỉ đến trong chớp nhoáng, DN muốn thành công thì đòi hỏi
doanh nghiệp phải nhanh nhạy nắm bắt thời cơ. Khi đã nắm bắt được thời cơ
đó thì vấn đề còn lại là liệu DN có huy động được đủ vốn để biến thời cơ thành


hiện thực hay không. Do đó, việc xây dựng được một cơ cấu vốn hợp lý là hết
sức quan trọng, nhưng việc huy động được một lượng vốn đầy đủ, kịp thời
nhằm đảm bảo cho hoạt động SXKD được diễn ra bình thường, liên tục mới là
yếu tố quyết định đến hiệu quả kinh doanh. Nhưng như thế nào là kịp thời thì

không thể định lượng được, vì vậy, đây là một chỉ tiêu mang tính định tính.
Ngoài việc đảm bảo nhu cầu vốn thường xuyên, DN phải luôn chủ động, linh
hoạt để tìm được nguồn vốn sẵn sàng đáp ứng những nhu cầu vốn bất thường
phát sinh trong quá trình SXKD. Để làm được điều này, thì uy tín của doanh
nghiệp là rất quan trọng. Với những DN được khách hàng, đối tác tin tưởng,
việc này trở nên dễ dàng hơn, được ưu tiên hơn những doanh nghiệp khác
trong điều kiện nguồn vốn ngày càng trở nên khó khăn, khan hiếm.
1.2.2.2. Hiệu quả sử dụng vốn
Quy mô, cơ cấu và chất lượng của tài sản
Quy mô, cơ cấu của tài sản
Mỗi doanh nghiệp khác nhau thì có một quy mô, kết cấu tài sản khác nhau,
phù hợp với đặc điểm riêng của từng doanh nghiệp. Quy mô của tài sản thể
hiện sự lớn mạnh của doanh nghiệp, khả năng trang bị cho nhu cầu SXKD, từ
đó thể hiện năng lực sản xuất và xu hướng phát triển lâu dài của doanh nghiệp.
Cơ cấu tài sản phản ánh tỷ trọng từng loại tài sản trong tổng tài sản của doanh
nghiệp qua đó thể hiện vị trí, vai trò của từng loại tài sản trong doanh nghiệp.
Cũng qua đó phản ánh tình hình trang bị cơ sở vật chất kĩ thuật nói chung và
máy móc thiết bị nói riêng phục vụ cho hoạt động của doanh nghiệp. Một cơ
cấu của tài sản hợp lý còn thể hiện năng lực quản lý, trình độ tổ chức của các
nhà quản trị doanh nghiệp. Cơ cấu tài sản hợp lý giúp DN tận dụng được hết
năng lực hoạt động của tài sản, tiết kiệm chi phí sản xuất, góp phần nâng cao
hiêu quả kinh doanh cho doanh nghiệp.
Để đánh giá năng lực tài chính của doanh nghiệp qua quy mô, cơ cấu của tài
sản ta phải căn cứ vào hình thức pháp lý, lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh, đặc


điểm kinh tế, kĩ thuật của ngành kinh doanh cũng như nhu cầu đầu tư của
doanh nghiệp trong từng thời kì phát triển.
Chất lượng của tài sản
Chất lượng tài sản phản ánh ở viêc tài sản của doanh nghiệp được sử dụng như

thế nào, có phát huy được hết khả năng hoạt động của nó hay không. Đây là
một chỉ tiêu nói lên tính bền vững về tài chính, năng lực tổ chức quản lý của
doanh nghiệp. Cùng với việc đảm bảo đủ vốn cho SXKD thì việc nâng cao
chất lượng của tài sản trong doanh nghiệp là một yếu tố vô cùng quan trọng và
cần thiết đối với hoạt động SXKD của doanh nghiệp.
Tài sản của doanh nghiệp gồm rất nhiều loại, tồn tại ở các dạng khác nhau
như: tiền và tương đương tiền, hàng tồn kho, các khoản phải thu, tài sản cố
định, các khoản đầu tư tài chínhMỗi loại tài sản trong doanh nghiệp có chất
lượng là khi tài sản đó được trang bị ở một mức độ hợp lý đảm bảo hiệu quả
cho các hoạt động của doanh nghiệp. Ví dụ như đối với tiền mặt, các lý thuyết
tài chính doanh nghiệp nói rằng mỗi doanh nghiệp nên có một mức tiền mặt
thích hợp cho doanh nghiệp mình, một lượng đủ để thanh toán lãi vay, các chi
phí và chi tiêu vốn, ngoài ra còn phải dự trữ thêm một lượng để doanh nghiệp
kịp xử lý trong những tình huống khẩn cấp. Việc dự trữ quá nhiều sẽ dẫn đến
hiệu quả sử dụng vốn thấp, chi phí cao. Còn việc dự trữ quá ít dễ dẫn đến tình
trạng mất khả năng thanh toán khi có các tình huống bất ngờ xảy ra trong kinh
doanh. Đối với hàng tồn kho, thật khó để nói tồn kho bao nhiêu là vừa vì tùy
đặc điểm ngành nghề, tùy chiến lược kinh doanh mà mỗi doanh nghiệp sẽ có
những mức tồn kho riêng. Để biết mức tồn kho thế nào là hợp lý, các doanh
nghiệp cần: nắm bắt nhu cầu thị trường, hoạch định cung ứng, tính toán lượng
đặt hàng và xác định được thời điểm đặt hàng. Tóm lại, mức độ hợp lý của
từng loại tài sản phụ thuộc vào đặc trưng của từng DN và đặc điểm của từng
tài sản và muốn hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả thì DN phải làm
sao khai thác được hết công suất, tính năng của từng loại tài sản đó.


Tính thanh khoản và hiệu quả sử dụng vốn lưu động
Tính thanh khoản
Tính thanh khoản hay khả năng thanh toán của doanh nghiệp là năng lực về tài
chính mà doanh nghiệp có được để đáp ứng nhu cầu thanh toán các khoản nợ

cho các cá nhân, tổ chức có quan hệ cho doanh nghiệp vay hoặc nợ. Năng lực
tài chính đó tồn tại dưới dạng tiền tệ [tiền mặt, tiền gửi ], các khoản phải thu
từ các cá nhân mắc nợ doanh nghiệp, các tài sản có thể chuyển đổi nhanh
thành tiền như: hàng hóa, thành phẩm, hàng gửi bán. Các khoản nợ của doanh
nghiệp có thể là các khoản vay ngân hàng, khoản nợ tiền hàng do xuất phát từ
quan hệ mua bán các yếu tố đầu vào hoặc sản phẩm hàng hóa doanh nghiệp
phải trả cho người bán hoặc người mua đặt trước, các khoản thuế chưa nộp
ngân hàng nhà nước, các khoản chưa trả lương.
Khả năng thanh toán được đo lường thông qua các tỷ số tài chính sau:
Hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn.
Hệ số khả năng thanh toán ngắn hạn dùng để đo lường khả năng trả các khoản
nợ ngắn hạn bằng các tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp, như tiền mặt, các
khoản phải thu, hàng tồn khoHS này được tính theo công thức sau:

Hệ số này càng cao, khả năng trả nợ ngắn hạn của doanh nghiệp càng lớn. Nếu
hệ số này nhỏ hơn 1 thì doanh nghiệp có khả năng không hoàn thành được
nghĩa vụ trả nợ của mình khi tới hạn. Mặc dù với tỷ lệ nhỏ hơn 1, có khả năng
không đạt được tình hình tài chính tốt, nhưng điều đó không có nghĩa là công
ty sẽ bị phá sản vì có rất nhiều cách để huy động thêm vốn.
Tỷ lệ này cho phép hình dung ra chu kì hoạt động của công ty xem có hiệu quả
không, hoặc khả năng biến sản phẩm thành tiền mặt có tốt không. Tuy nhiên,
nếu hàng tồn kho của doanh nghiệp thuộc loại khó bán thì DN lại gặp khó


khăn trong vấn đề trả nợ và hệ số này đã phản ánh không chính xác khả năng
thanh toán của DN. Vì vậy cần quan tâm đến hệ số khả năng thanh toán nhanh.
Hệ số khả năng thanh toán nhanh
Hệ số thanh toán nhanh được sử dụng như một thước đo để đánh giá khả năng
thanh toán ngay các khoản nợ ngắn hạn bằng việc chuyển hóa tài sản ngắn hạn
thành tiền mà không cần phải bán đi hàng tồn kho:


Hệ số này nói lên tình trạng tài chính ngắn hạn của một DN có lành mạnh
không. Về nguyên tắc, hệ số này càng cao thì khả năng thanh toán công nợ
càng cao và ngược lại. Hệ số này bằng 1 hoặc lớn hơn, cho thấy khả năng đáp
ứng thanh toán ngay các khoản nợ ngắn hạn cao. DN không gặp khó khăn nếu
cần phải thanh toán ngay các khoản nợ ngắn hạn. Trái lại, nếu hệ số thanh toán
nhanh nhỏ hơn 1, DN sẽ không đủ khả năng thanh toán ngay lập tức toàn bộ
khoản nợ ngắn hạn hay nói chính xác hơn, DN sẽ gặp nhiều khó khăn nếu phải
thanh toán ngay các khoản nợ ngắn hạn. Phân tích sâu hơn, nếu hệ số thanh
toán nhanh nhỏ hơn hệ số thanh toán nợ NH rất nhiều cho thấy, tài sản ngắn
hạn phụ thuộc rất lớn vào hàng tồn kho. Trong trường hợp này, tính thanh
khoản của tài sản ngắn hạn là tương đối thấp. Tất nhiên, với tỷ lệ nhỏ hơn 1,
DN có thể không đạt được tình hình tài chính tốt nhưng điều đó không có
nghĩa là DN sẽ bị phá sản vì có nhiều cách để huy động thêm vốn cho việc trả
nợ. Ở một khía cạnh khác, nếu hệ số này quá cao thì vốn bằng tiền quá nhiều,
vòng quay vốn lưu động thấp, hiệu quả sử dụng vốn cũng không cao.
Hệ số khả năng thanh toán ngay

Theo công thức này, hàng tồn kho ở đây là hàng hóa, thành phẩm, hàng gửi
bán, vật tư chưa thể bán nhanh, hoặc khấu trừ, đối lưu ngay được, nên chưa thể


chuyển thành tiền ngay được, các KPT cũng vậy. Và khả năng thanh toán
nhanh của doanh nghiệp cao hay thấp, tình hình tài chính được đánh giá tốt
hay xấu tùy thuộc vào lượng tiền và các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn lớn
hay bé, nợ ngắn hạn nhỏ hay lớn.
Tỷ số khả năng trả lãi tiền vay
Tỷ số khả năng thanh toán lãi vay cho biết mức độ lợi nhuận đảm bảo khả
năng trả lãi như thế nào. Nếu công ty quá yếu về mặt này, các chủ nợ có thể đi
đến gây sức ép lên công ty, thậm chí dẫn tới phá sản công ty. Hệ số khả năng

thanh toán lãi vay được tính bằng tỷ số giữa lợi nhuận trước thuế và lãi vay
phải trả trên lãi vay phải trả:

Việc tìm xem một công ty có thể thực hiện trả lãi đến mức độ nào cũng rất
quan trọng. Rõ ràng, tỷ số khả năng thanh toán lãi vay càng cao thì khả năng
thanh toán lãi của doanh nghiệp cho các chủ nợ của mình càng lớn. Khả năng
trả lãi vay của doanh nghiệp thấp cũng thể hiện khả năng sinh lợi của tài sản
thấp. Khả năng thanh toán lãi vay thấp cho thấy một tình trạng nguy hiểm, suy
giảm trong hoạt động kinh tế có thể làm giảm lãi trước thuế và lãi vay xuống
dưới mức nợ lãi mà công ty phải trả, do đó dẫn tới mất khả năng thanh toán và
vỡ nợ. Tuy nhiên rủi ro này được hạn chế bởi thực tế lãi trước thuế và lãi vay
không phải là nguồn duy nhất để thanh toán lãi. Các doanh nghiệp cũng có thể
tạo ra nguồn tiền mặt từ khấu hao và có thể sử dụng nguồn vốn đó để trả nợ
lãi. Những gì mà một doanh nghiệp cần phải đạt tới là tạo ra một độ an toàn
hợp lý, bảo đảm khả năng thanh toán cho các chủ nợ của mình.
Hiệu quả sử dụng vốn lưu động
Ngày nay một doanh nghiệp muốn đứng vững trên thị trường đòi hỏi doanh
nghiệp đó phải biết sử dụng vốn triệt để và không ngừng nâng cao hiệu quả sử


dụng vốn kinh doanh mà đặc biệt là vốn lưu động. Vốn lưu động là bộ phận rất
quan trọng trong vốn sản xuất kinh doanh và nó thường chiếm tỷ trọng rất lớn
ở những doanh nghiệp thương mại. Có thể nói trong doanh nghiệp thương mại
vốn lưu động là bộ phận sinh lời nhiều nhất. Chỉ khi nào doanh nghiệp hoạt
động có hiệuquả thì doanh nghiệp đó mới có vốn để tái đầu tư giản đơn và tái
đầu tư mở rộng nhằm đem lại lợi nhuận ngày càng cao cho doanh nghiệp trong
hành lang pháp lý về tài chính và tín dụng mà nhà nước đã quy định.
Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động của DN, ta xem xét các chỉ tiêu
sau:
Vòng quay khoản phải thu và kì thu tiền trung bình

Vòng quay các khoản phải thu phản ánh tốc độ biến đổi các khoản phải thu
thành tiền mặt. Chỉ số này là thước đo quan trọng để đánh giá hiệu quả hoạt
động của doanh nghiệp.

Khoản tiền phải thu từ khách hàng là số tiền mà khách hàng hiện tại vẫn còn
chiếm dụng của doanh nghiệp. Chỉ đến khi khách hàng thanh toán bằng tiền
cho khoản phải thu này thì coi như lượng vốn mà doanh nghiệp bị khách hàng
chiếm dụng mới không còn nữa.
Nói chung, hệ số vòng quay các khoản phải thu càng lớn chứng tỏ tốc độ thu
hồi nợ của doanh nghiệp càng nhanh, khả năng chuyển đổi các khoản nợ phải
thu sang tiền mặt cao, điều này giúp cho doanh nghiệp nâng cao luồng tiền
mặt, tạo ra sự chủ động trong việc tài trợ nguồn vốn lưu động trong sản xuất.
Ngược lại, nếu hệ số này càng thấp thì số tiền của doanh nghiệp bị chiếm dụng
ngày càng nhiều, lượng tiền mặt sẽ ngày càng giảm, làm giảm sự chủ động của
doanh nghiệp trong việc tài trợ nguồn vốn lưu động trong sản xuất và có thể


doanh nghiệp sẽ phải đi vay ngân hàng để tài trợ thêm cho nguồn vốn lưu động
này.
Một chỉ tiêu ngược với vòng quay các khoản phải thu là kỳ thu tiền trung bình.
Chỉ tiêu này được tính bằng cách lấy số ngày trong kỳ chia cho vòng quay các
khoản phải thu. Ngược lại với chỉ số vòng quay các khoản phải thu, chỉ số kỳ
thu tiền bình quân càng nhỏ thì tốc độ thu hồi công nợ phải thu của doanh
nghiệp càng nhanh:

Trong mỗi ngành khác nhau thì chỉ số này cũng khác nhau và để đánh giá hiệu
quả quản lý của doanh nghiệp, cần so sánh kỳ thu tiền trung bình với số ngày
thanh toán cho các khoản công nợ phải thu mà doanh nghiệp đó quy định.
Vòng quay hàng tồn kho và số ngày một vòng quay hàng tồn kho
Hệ số vòng quay hàng tồn kho thể hiện khả năng quản trị hàng tồn kho. Vòng

quay hàng tồn kho là số lần mà hàng hóa tồn kho bình quân luân chuyển trong
kỳ. Hệ số vòng quay hàng tồn kho được xác định bằng giá vốn hàng bán chia
cho bình quân hàng tồn kho:

Muốn biết số ngày của một VQ HTK có thể xác định bằng công thức:

Các hệ số này được sử dụng để đánh giá hiệu quả quản trị HTK của doanh
nghiệp. Hệ số vòng quay hàng tồn kho thường được so sánh qua các năm để
đánh giá năng lực quản trị hàng tồn kho là tốt hay xấu qua từng năm. Hệ số
này lớn cho thấy tốc độ quay vòng của hàng hóa trong kho là nhanh và ngược
lại, nếu hệ số này nhỏ thì tốc độ quay vòng hàng tồn kho thấp. Cần lưu ý, hàng


tồn kho mang đậm tính chất ngành nghề kinh doanh nên không phải cứ mức
tồn kho thấp là tốt, mức tồn kho cao là xấu.
Hệ số vòng quay hàng tồn kho càng cao càng cho thấy doanh nghiệp bán hàng
nhanh và hàng tồn kho không bị ứ đọng nhiều. Có nghĩa là doanh nghiệp sẽ ít
rủi ro hơn nếu khoản mục hàng tồn kho trong báo cáo tài chính có giá trị giảm
qua các năm.
Tuy nhiên, hệ số này quá cao cũng không tốt, vì như vậy có nghĩa là lượng
hàng dự trữ trong kho không nhiều, nếu nhu cầu thị trường tăng đột ngột thì rất
có khả năng doanh nghiệp bị mất khách hàng và bị đối thủ cạnh tranh giành thị
phần. Hơn nữa, dự trữ nguyên liệu vật liệu đầu vào cho các khâu sản xuất
không đủ có thể khiến dây chuyền sản xuất bị ngưng trệ. Vì vậy, hệ số vòng
quay hàng tồn kho cần phải đủ lớn để đảm bảo mức độ sản xuất và đáp ứng
được nhu cầu khách hàng.
Để có thể đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp, việc xem xét chỉ tiêu
hàng tồn kho cần được đánh giá bên cạnh các chỉ tiêu khác như lợi nhuận,
doanh thu, vòng quay của dòng tiền, cũng như nên được đặt trong điều kiện
kinh tế vĩ mô, điều kiện thực tế của từng doanh nghiệp.

Năng lực hoạt động của tài sản cố định và hiệu suất sử dụng tổng tài sản
Năng lực hoạt động của tài sản cố định
Tài sản cố định là tất cả những tài sản của doanh nghiệp có giá trị lớn, có thời
gian sử dụng, luân chuyển, thu hồi trên 1 năm hoặc trên 1 chu kỳ kinh doanh
[nếu chu kỳ kinh doanh lớn hơn hoặc bằng 1 năm]. Trên thực tế, khái niệm
TSCĐ bao gồm những tài sản đang sử dụng, chưa được sử dụng hoặc không
còn được sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh do chúng đang trong
quá trình hoàn thành [máy móc thiết bị đã mua nhưng chưa hoặc đang lắp đặt,
nhà xưởng đang xây dựng chưa hoàn thành...] hoặc do chúng chưa hết giá trị
sử dụng nhưng không được sử dụng. Những tài sản thuê tài chính mà doanh
nghiệp sẽ sở hữu cũng thuộc về TSCĐ.


Tùy thuộc vào đặc điểm của từng DN mà tỷ trọng TSCĐ trng tổng tài sản và
kết cấu của chúng cũng khác nhau. Tuy nhiên, dù là loại hình doanh nghiệp
nào thì muốn đạt hiệu quả trong SXKD cũng cần phát huy hết năng lực hoạt
động của tài sản nói chung và của TSCĐ nói riêng. Để đánh giá khả năng quản
trị, tổ chức sử dụng TSCĐ của DN ta phân tích chỉ tiêu hiệu sử dụng TSCĐ:

Mức độ và xu hướng của hệ số này chịu ảnh hưởng của những nhân tố đặc
ttrwng cấu thành nên nó: vòng đời của một công ty hoặc chu kỳ sống của một
sản phẩm, mức độ hiện đại hay lạc hậu của công nghệ, phương pháp khấu hao
TSCĐ, thời điểm hình thành nên TSCĐBởi vậy, khi phân tích cần phải xem
xét một cách thận trọng xu hướng diễn biến của hệ số này.
Hiệu suất sử dụng tổng tài sản

Chỉ số này có xu hướng chỉ ra mức độ hiệu quả trong sử dụng tài sản của
doanh nghiệp. Nếu chỉ số tổng doanh thu tài sản cao, có thể cho rằng doanh
nghiệp đã sử dụng tài sản tạo ra doanh thu hiệu quả. Nếu chỉ số này thấp,
doanh nghiệp chưa khai thác hết công suất các tài sản hiện có, do đó, cần tăng

doanh số hoặc bán bớt tài sản. Một vấn đề thường gặp phải với chỉ số này là
việc tận dụng tối đa các tài sản cũ bởi giá trị kế toán của các tài sản này luôn
thấp hơn các tài sản mới và có cùng công năng sử dụng. Tuy vậy, cần lưu ý tới
vấn đề công nghệ ở đây. Ngoài ra, cũng có những doanh nghiệp do đặc thù
kinh doanh mà có mức độ đầu tư tương đối bé cho tài sản. Doanh nghiệp
thương mại thường có chỉ số tổng tài sản doanh thu nhỏ hơn khi so sánh với
doanh nghiệp sản xuất.


1.2.2.3. Khả năng sinh lời
Mọi hoạt động trong doanh nghiệp đều hướng đến một mục tiêu cuối cùng là
lợi nhuận. Vì vậy, để đánh giá năng lực tài chính của DN thì không thể bỏ qua
các chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời. Các chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh
lời gồm có:
Tỷ suất lợi nhuận doanh thu

Tỷ số này cho biết lợi nhuận chiếm bao nhiêu phần trăm trong doanh thu. Tỷ
số này mang giá trị dương nghĩa là công ty kinh doanh có lãi; tỷ số càng lớn
nghĩa là lãi càng lớn. Tỷ số mang giá trị âm nghĩa là công ty kinh doanh thua
lỗ. Tuy nhiên, tỷ số này phụ thuộc vào đặc điểm kinh doanh của từng ngành.
Vì thế, khi theo dõi tình hình sinh lợi của công ty, người ta so sánh tỷ số này
của công ty với tỷ số bình quân của toàn ngành mà công ty đó tham gia
Tỷ suất lợi nhuận tổng tài sản [ROA]
Tài sản của một công ty được hình thành từ vốn vay và vốn chủ sở hữu. Cả hai
nguồn vốn này được sử dụng để tài trợ cho các hoạt động của công ty. Hiệu
quả của việc chuyển vốn đầu tư thành lợi nhuận được thể hiện qua ROA. ROA
càng cao thì càng tốt vì công ty đang kiếm được nhiều tiền hơn trên lượng đầu
tư ít hơn.

ROA sẽ cung cấp c thông tin về các khoản lãi được tạo ra từ lượng vốn đầu tư

[hay lượng tài sản]. ROA đối với các công ty khác nhau có sự khác biệt rất
lớn và phụ thuộc nhiều vào ngành kinh doanh. Đó là lý do tại sao khi sử dụng
ROA để so sánh các công ty, tốt hơn hết là nên so sánh ROA của mỗi công ty
qua các năm và so giữa các công ty tương đồng nhau.


Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu [ROE]

Chỉ số này là thước đo chính xác để đánh giá một đồng vốn bỏ ra và tích lũy
tạo ra bao nhiêu đồng lời. Tỷ lệ ROE càng cao càng chứng tỏ công ty sử dụng
hiệu quả VCSH, có nghĩa là công ty đã cân đối một cách hài hòa giữa VCSH
với vốn đi vay để khai thác lợi thế cạnh tranh của mình trong quá trình huy
động vốn, mở rộng quy mô.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực tài chính của doanh nghiệp.
1.3.1. Các nhân tố bên trong doanh nghiệp
Hình thức pháp lý của doanh nghiệp
Theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2005, có các loại hình doanh nghiệp
chủ yếu sau: Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh,
doanh nghiệp tư nhân thuộc mọi thành phần kinh tế. Mỗi doanh nghiệp khi
thành lập sẽ lựa chọn theo một hình thức pháp lý nhất định. Mỗi loại hình
doanh nghiệp đó có đặc trưng riêng và từ đó tạo nên những hạn chế hay lợi thế
của doanh nghiệp.Vì vậy việc lựa chọn hình thức doanh nghiệp trước khi bắt
đầu công việc kinh doanh là rất quan trọng, nó có ảnh hưởng không nhỏ tới sự
tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Và điều đó đồng nghĩa với việc ảnh
hưởng tới năng lực tài chính của doanh nghiệp. Về cơ bản, những sự khác biệt
tạo ra bởi loại hình doanh nghiệp là: uy tín doanh nghiệp do thói quen tiêu
dùng; khả năng huy động vốn; rủi ro đầu tư; tính phức tạp của thủ tục và các
chi phí thành lập doanh nghiệp; tổ chức quản lý doanh nghiệp.
Đặc điểm kinh tế - kĩ thuật của ngành kinh doanh
Mỗi ngành nghề kinh doanh khác nhau có đặc điểm kinh tế - kĩ thuật riêng có

ảnh hưởng không nhỏ đến NLTC của doanh nghiệp. Do những đặc điểm đó
chi phối đến tỷ trọng đầu tư cho các loại tài sản trong doanh nghiệp, nhu cầu
vốn lưu độngBên cạnh đó, mỗi ngành nghề kinh doanh lại chịu tác động
khác nhau trước những biến động của nền kinh tế vĩ mô.


Đối với những doanh nghiệp sản xuất những sản phẩm có chu kì kinh doanh
ngắn thì nhu cầu vốn lưu động giữa các thời kỳ trong năm không có biến động
lớn, DN cũng thường xuyên thu được tiền bán hàng nên dễ dàng đảm bảo cân
đối thu chi, cũng như đảm bảo nhu cầu vốn lưu động. Còn đối với những
doanh nghiệp sản xuất sản phẩm có chu kì kinh doanh dài thì nhu cầu vốn lưu
động lớn hơn. Những DN hoạt động trong ngành thương mại, dịch vụ thì vốn
lưu động chiếm tỷ trọng cao hơn, tốc độ chu chuyển vốn lưu dộng cũng nhanh
hơn so với ngành công nghiệp, nông nghiệp
Trình độ tổ chức quản lý
Bên cạnh hai yếu tố trên, một yếu tố bên trong DN có ý nghĩa quyết định đến
NLTC của doanh nghiệp là trình độ tổ chức quản lý của các nhà quản trị trong
doanh nghiệp. Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ
chế thị trường, bất kỳ một doanh nghiệp, tổ chức kinh doanh nào đều phải lựa
chọn cho doanh nghiệp, tổ chức kinh doanh của mình một cơ cấu tổ chức quản
lý riêng. Thực tế cho thấy, nhiều doanh nghiệp, tổ chức làm ăn thua lỗ, phá
sản, phát triển chậm đều là do cơ cấu tổ chức quản lý chưa hợp lý, chưa phù
hợp với thực tiễn. Vì vậy vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp , tổ chức là làm
sao tìm cho mình một cơ cấu tổ chức quản lý hợp lý. Bởi lẽ khi có một cơ cấu
tổ chức quản lý hợp lý thì mới cho phép sử dụng tốt các nguồn lực, giúp cho
việc ra các quyết định đúng đắn và tổ chức thực hiện có hiệu quả các quyết
định đó, điều hoà phối hợp các hoạt động nhằm đạt được mục đích chung đề
ra.
Doanh nghiệp có quy mô càng lớn, càng phức tạp thì hoạt động của của doanh
nghiệp cũng phức tạp theo. Do đó các nhà quản lý cần phải đưa ra một mô

hình cơ cấu quản lý hợp lý sao cho đảm bảo quản lý được toàn bộ hoạt động
của doanh nghiệp đồng thời phải làm sao để bộ máy quản lý không cồng kềnh
và phức tạp về mặt cơ cấu. Còn đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ thì bộ
máy quản lý phải chuyên, tinh, gọn nhẹ để dễ tay đổi phù hợp với tình hình sản


xuất kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó nâng cao hiệu quả SXKD cũng như
tăng cường NLTC cho DN.
Để làm được điều đó, trước hết, lãnh đạo phải nhìn nhận được khả năng của
từng nhân viên và bố trí họ vào các công việc phù hợp, tạo điều kiện để họ
phát huy năng lực bản thân. Qua kinh nghiệm công việc, nhân viên sẽ vững
vàng hơn và dần gánh vác bớt trách nhiệm cho lãnh đạo, đảm bảo cho hoạt
động nhịp nhàng của bộ máy doanh nghiệp. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần
lập hệ thống kiểm soát kế hoạch một cách hiệu quả, khuyến khích từng phòng
ban tự kiểm soát, đồng thời xây dựng bản mô tả công việc rõ ràng để mỗi nhân
viên tự chấn chỉnh mình. Doanh nghiệp cũng phải thúc đẩy sự chia sẻ thông tin
giữa các cá nhân và các bộ phận trong doanh nghiệp, phải lấy sự phối hợp nhịp
nhàng giữa các phòng ban làm một trong những cơ sở để điều chỉnh sơ đồ tổ
chức.
1.3.2. Các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp
Tự nhiên - Cơ sở hạ tầng
Yếu tố này tác động rất lớn đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Về
cơ bản thường tác động bất lợi đối với các hoạt động của doanh nghiệp, đặc
biệt là những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có liên quan đến tự nhiên như:
sản xuất nông phẩm, thực phẩm theo mùa, kinh doanh khách sạn, du lịch...
Để chủ động đối phó với các tác động của yếu tố tự nhiên,các doanh nghiệp
phải tính đến các yếu tố tự nhiên có liên quan thông qua các hoạt động phân
tích, dự baó của bản thân doanh nghiệp và đánh giá của các cơ quan chuyên
môn. Các biện pháp thường được doanh nghiệp sử dụng : dự phòng, san bằng,
tiên đoán và các biện pháp khác...Ngoài ra, nó còn ảnh hưởng đến các doanh

nghiệp như vấn đề tiếng ồn, ô nhiễm môi trường... và các doanh nghiệp phải
cùng nhau giải quyết.
Các yếu tố kinh tế


Các yếu tố kinh tế bao gồm các yếu tố như tốc độ tăng trưởng và sự ổn định
của nền kinh tế, sức mua, sự ổn định của giá cả, tiền tệ, lạm phát, tỷ giá hố
đoái...tất cả các yếu tố này đều ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp.
Những biến động của các yếu tố kinh tế có thể tạo ra cơ hội và cả những thách
thức với doanh nghiệp. Để đảm bảo thành công của hoạt động doanh nghiệp
trước biến động về kinh tế, các doanh nghiệp phải theo dõi, phân tích, dự báo
biến động của từng yếu tố để đưa ra các giải pháp, các chính sách tương ứng
trong từng thời điểm cụ thể nhằm tận dụng, khai thác những cơ hội, né tránh,
giảm thiểu nguy cơ và đe dọa. Khi phân tích, dự báo sự biến động của các yếu
tố kinh tế, để đưa ra kết luận đúng, các doanh nghiệp cần dựa vào một số căn
cứ quan trọng: các số liệu tổng hợp của kì trước, các diễn biến thực tế của kì
nghiên cứu, các dự báo của nhà kinh tế lớn...
Kỹ thuật - Công nghệ
Đây là nhân tố ảnh hưởng mạnh, trực tiếp đến doanh nghiệp. Các yếu tố công
nghệ thường biểu hiện như phương pháp sản xuất mới, kĩ thuật mới, vật liệu
mới, thiết bị sản xuất, các bí quyết, các phát minh, phần mềm ứng dụng...Khi
công nghệ phát triển, các doanh nghiệp có điều kiện ứng dụng các thành tựu
của công nghệ để tạo ra sản phẩm, dịch vụ có chất lượng cao hơn nhằm phát
triển kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh. Tuy vậy, nó cũng mang lại cho
doanh nghiệp nguy cơ tụt hậu, giảm năng lực cạnh tranh nếu doanh nghiệp
không đổi mới công nghệ kịp thời.
Văn hóa - Xã hội
Văn hóa  xã hội có ảnh hưởng sâu sắc đến hoạt động quản trị và kinh doanh
của một doanh nghiệp từ đó ảnh hưởng tới năng lực tài chính của DN. Doanh

nghiệp cần phải phân tích các yếu tố văn hóa, xã hội nhằm nhận biết các cơ hội
và nguy cơ có thể xảy ra. Mỗi một sự thay đổi của các lực lượng văn hóa có


thể tạo ra một ngành kinh doanh mới nhưng cũng có thể xóa đi một ngành kinh
doanh.
Chính trị - Pháp luật
Chính trị - Pháp luật gồm các yếu tố chính phủ, hệ thống pháp luật, xu hướng
chính trị...Các nhân tố này ngày càng ảnh hưởng lớn đến hoạt động của doanh
nghiệp. Sự ổn định về chính trị, nhất quán về quan điểm, chính sách lớn luôn
là sự hấp dẫn của các nhà đầu tư.
Trong xu thế toàn cầu hiện nay, mối liên hệ giữa chính trị và kinh doanh
không chỉ diễn ra trên bình diện quốc gia mà còn thể hiện trong các quan hệ
quốc tế. Để đưa ra được những quyết định kinh doanh hợp lý, doanh nghiệp
cần phải phân tích, dự báo sự thay đổi của môi trường trong từng giai đoạn
phát triển.
1.4.

Sự cần thiết phải nâng cao năng lực tài chính của doanh nghiệp

Việc nâng cao năng lực tài chính đảm bảo yêu cầu tối đa hóa giá trị cho chủ
sở hữu và mục tiêu tăng tưởng của doanh nghiệp
Khi năng lực tài chính của DN được nâng cao, doanh nghiệp sẽ có cơ hội tiếp
cận nhiều nguồn vốn hơn do uy tín của doanh nghiệp tăng lên, vì vậy mà DN
huy động được đầy đủ, kịp thời lượng vốn cần thiết đáp ứng nhu cầu sản xuất
kinh doanh với những nguồn vốn có chất lượng cao, chi phí thấp, góp phần
giảm chi phí sử dụng vốn bình quân, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn từ đó góp
phần nâng cao hiệu quả SXKD. An ninh tài chính cũng được đảm bảo. Bên
cạnh đó, khi năng lực tài chính của DN được nâng cao đồng nghĩa với việc
doanh nghiệp đảm bảo được khả năng thanh toán, nâng cao chất lượng sản

phẩm, dịch vụ, tạo được uy tín đối với nhà cung cấp, khách hàng, từ đó nhận
được những ưu đãi từ nhà cung cấp, thị trường tiêu thụ mở rộng lại góp phần
tăng hiệu quả kinh doanh. Khi đó, mục tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp được


Chủ Đề