Chữ người tử tù lý luận văn học

Qua Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân, hãy làm sáng tỏ ý kiến: “Điều quan trọng hơn cả là sau mỗi cách kết thúc, tác giả phải gieo vào lòng người đọc những nhận thức sâu sắc về quy luật đời sống và những dự cảm về tương lai, về cái đẹp tất yếu sẽ chiến thắng”.

Nhà văn Aimatov đã từng nhận định rằng: “Một tác phẩm chân chính không bao giờ kết thúc ở trang cuối cùng”. Bởi lẽ khi trang sách đóng lại, tác phẩm mới thực sự đang sống, sống với những trăn trở và tình cảm của người đọc. Ở họ phải xuất hiện những cảm xúc mới mẻ, tâm hồn của họ phải được neo đậu những nhận thức sâu sắc về hiện thực và trái tim phải được rung lên, hướng họ về một khát khao cháy bỏng về cái đẹp, như tác giả Bùi Việt Thắng đã nhận xét về kết thúc của truyện ngắn: “Điều quan trọng hơn cả là sau mỗi cách kết thúc, tác giả phải gieo vào lòng người đọc những nhận thức sâu sắc về quy luật đời sống và những dự cảm về tương lai, về cái đẹp tất yếu sẽ chiến thắng”.

Bielinxky khi viết về tác phẩm văn học đã nói rằng: “Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình yêu con người, một ước mơ cháy bỏng về một xã hội công bằng bình đẳng bác ái luoont hôi thúc nhà văn sống và viết, vắt cạn kiệt những dòng suy nghĩ và hiến dâng bầu máu nóng của mình cho nhân loại”. Tác phẩm nghệ thuật đều xuất phát từ chính trái tim người nghệ sĩ, nơi những tâm tư tình cảm đã được gửi vào “đứa con tinh thần”. Các nhà văn phải biết nắm bắt những hiện thực của cuộc sống để truyền tải vào tác phẩm qua những hình thức sáng tạo độc đáo. Từ đó mới có thể khiến người đọc cảm nhận rõ nét nhất những giá trị tư tưởng cũng như giá trị thẩm mỹ trong tác phẩm. Và khi nhà văn làm được điều đó, trang sách cuối cùng dù có khép lại thì những ấn tượng về tác phẩm vẫn in sâu trong tâm trí người đọc. Vì tác phẩm không chỉ chứa những con chữ thẳng đơ trên trang giấy mà là những con chữ có hồn, nó bay ra khỏi trang giấy, sống dậy cùng cảm xúc người dọc và gieo ở họ những nhận thức về hiện thực cuộc sống, những cảm xúc chưa bao giờ có.

Hơn nữa, nó còn mở ra một lối thoát, gieo ở họ sự hy vọng, những ước mơ khao khát về cái đẹp sẽ chiến thắng cái xấu xa, hướng họ đến những chân lý cuộc sống. Sau mỗi kết thúc của tác phẩm văn học, họ sẽ nhận những giá trị của cuộc sống, khiến họ nhìn thấy chính mình và sẽ đóng góp cải tạo hiện thực cuộc sống để thế giới ngày một tươi đẹp, sẽ không còn bóng tối mà chỉ có ánh sáng, sẽ không tồn tại những những điều xấu xa mà sẽ có những điều tốt đẹp. Chính lời nhận xét của Bùi Việt Thắng đã cho ta thấy được chứng năng văn học trong đời sống con người.

Một nhà phê bình văn học đã từng viết rằng: “Khi một tác phẩm nâng cao tinh thần ta lên và gợi cho ta những tình cảm cao quý và can đảm, không cần tìm một nguyên tắc nào để đánh giá nó nữa. Đó là một cuốn sách hay và do một nghệ sĩ viết ra”. Tác phẩm nghệ thuật chân chính sẽ truyền cho ta những tình cảm ta chưa có, và làm nảy nở thêm ở ta nhiều tình cảm hơn nữa. No đã được sáng tác bằng chính cả trái tim của nhà văn, được truyền tải biết bao là tư tưởng, những tâm tư, suy nghĩ, tình cảm. Đó còn là một quá trình “lửa thử vàng, gian nan thử sức” của nhà văn. Nhà văn phải thật tinh tế để nắm bắt được hiện thực cuộc đời để đem vào “đứa con tinh thần” của mình, truyền vào đó tất cả những tâm huyết, những tình cảm của mình. Chính vì thế mà sau một kết thúc, nhà văn đã dùng tất cả cái tâm cái tài của mình để viết nên những dòng chữ tinh hoa cuối cùng, những dòng chữ đó đã sống dậy và đi sâu vào trong lòng người, làm dấy lên ở họ những cảm xúc, suy nghĩ về cuộc đời, sự tò mò, dự cảm về tương lai, hy vọng về cái dẹp sẽ chiếm lĩnh và tồn tại vĩnh cửu kể cả khi tác phẩm đã kết thúc.

Umberto Eco từng nói: “Nhà văn có lẽ nên chết đi sau khi hoàn thành văn bản để tác phẩm có thể tự do sống cuộc đời của nó”. Để tác phẩm có thể sống với những tình cảm của người đọc, với những ước mơ khát vọng về tương lai, về những chân lý cuộc đời. Ở kết thúc của mỗi tác phẩm. người đọc sẽ càng trăn trở, đắn đo về những tình tiết, về nhân vật, về những quy luật cuộc sống được tác giả góp nhặt từ hiện thực. Và từ đó, họ càng thêm quý mến và bày tỏ thái độ, tình cảm của mình. Những giá trị đích thực khiến họ thức tỉnh, làm lay động trái tim của họ để rồi họ có thể hướng về ánh sáng, hướng về cái chân – thiện – mỹ. Và đó chính là điều một tác phẩm chân chính cần. Để tác phẩm có thể trường tồn với thời gian, nó phải đem những giá trị đích thực, mang hơi thở thời đại thổi vào tâm hồn người đọc những ấn tượng khó phai, như cách mà tác giả Bùi Việt Thắng đã nhận định.

“Nhà văn sáng tạo nhân vật để gửi gắm tư tưởng, tình cảm và quan niệm của mình về cuộc đời” [Sê-khốp]. Nhà văn truyền tải tất cả những cảm xúc của mình cho nhân vật để nhân vật có thể sống mãi trong lòng người đọc sau khi tác phẩm kết thúc. Và Nguyễn Tuân, “một người dành cả cuộc đời để đi tìm cái đẹp và cái thật” [Nguyễn Đình Thi] đã thật tài năng khi xây dựng thành công nhân vật Huấn Cao trong truyện ngắn “Chữ người tử tù”. Một con người được xây dựng dựa trên hình mẫu Cao Bá Quát, tài năng và có vẻ đẹp thiên lương, khí phách hiên ngang. Truyện ngắn bắt đầu với cuộc gặp gỡ oan trái giữa Huấn Cao và viên quản ngục. Cả hai đều có những phẩm chất và vẻ đẹp khác nhau. Nếu Huấn Cao là người có vẻ đẹp thiên lương, có tài viết chữ và ý thức được cái tài của mình, thì viên quản ngục là người biết quý trọng cái đẹp, có tấm lòng biệt nhỡn liên tài, với mong muốn xin được nét chữ của Huấn Cao. Và rồi kết thúc chuyện là cảnh tượng chưa từng có – đó là cảnh cho chữ. Cảnh tượng cho chữ đáng lẽ nên diễn ra ở nơi thanh thiên bạch nhất chứ không phải là cảnh trong bóng tối ngục tù. Không gian và thời gian đều kì lạ. Trong “buồng ngục tối, ấm ướt, tường đầy mạng nhện, phân chuột phân gián”, hình ảnh Huấn Cao hiện lên vô cùng điềm nhiên “ung dung tô từng nét chữ trên mảnh lụa trắng”, “cổ đeo gông, chân vướng xiềng” nhưng tư thế vẫn ung dung và thoải mái. Giữa bóng tối u ám, hình ảnh nhân vật Huấn Cao hiện lên làm tỏa sáng cả ngục tù.

Viên quản ngục trong chính thời khắc đó vô cùng hạnh phúc. Nếu với Huấn Cao, giây phút cho chữ ấy là giây phút thiêng liêng truyền lại cái đẹp cho đời sau, thì với viên quản ngục, đó là lúc ông tìm lại chính mình. Chính khoảnh khắc ấy, ông đã được mở ra một lối thoát, và con chữ cũng vậy. Dù cho Huấn Cao chết đi nhưng vẻ đẹp của con chữ vẫn còn hiện diện trên cõi đời này, mở ra một tương lai mới cho viên quan ngục. Giữa giây phút sinh tử, Huấn Cao không hề sợ hãi mà lại hiên ngang ngồi viết chữ. Thường lúc lâm chung, người ta thường hoài niệm về mọi thứ đã qua nhưng Huấn Cao lại bình tĩnh viết chữ. Bởi lẽ đây là giây phút đẹp nhất đời ông, ông đã được thỏa sức viết chữ, đã sống trọn vẹn với niềm đêm mê về cái đẹp trước khi chết. Và khi Huấn Cao chết đi là kết thúc của một truyện ngắn, thân thể dãu có bị hủy diệt thì cái đẹp của con chữ vẫn trường tồn và thực hiện sự mệnh cứu rỗi con người như Dostoyevsky nhận định “Cái đẹp cứu chuộc thế giới”.

Cái đẹp của con chữ do Huấn Cao viết đã vút bay lên phá vỡ mọi vòng cươn tỏa của bóng tối, của cái xấu xa đê hền để có thể di vào vĩnh cửu, có thể trường tồn mãi mãi. Vì đó chính là thứ ánh sáng. Là thứ hy vọng mà tác giả muốn gửi gắm vào tâm hồn người đọc để họ có niềm tin rằng cái đẹp, cái cao thượng đã chiến thắng cái xấu xa, mở ra cho họ con đường hướng tới chân – thiện – mỹ. Nhưng cũng để họ nhận thức được quy luật của cuộc sống trong cái kết thúc của tác phẩm, là cái đẹp có thể sinh ra từ cái xấu, cái cao thượng có thể bắt nguồn từ cái thấp hèn, nhưng cái đẹp và cái xấu xa không thể cùng tồn tại song song. Cái đẹp đánh bại cái xấu xa để có thể vươn lên khỏi bóng tối.

Cái kết thúc của “Chữ người tử tù” có khép lại thì cảnh tượng cho chữ vẫn sống dậy trong lòng người đọc vì những cảm xúc khó phai dành cho nhân vật Huấn Cao cũng như viên quản ngục, và cũng vì những dự cảm về tương lai của viên quản ngục. Liệu ông có trở về quê sống ẩn dật để có thể bảo vệ được cái đẹp, hay tiếp tục nghề làm viên quan ngục trong lo sợ, tự do về nhân thân nhưng bị cầm tù về tâm hồn? Tất cả sẽ là những trăn trở, suy nghĩ, tình cảm của người đọc. Tác phẩm sẽ có những giá trị lâu dài và chạm đến trái tim người đọc, khiến cho họ có cảm giác như đang sống cùng nhận vật trong tác phẩm, cùng cảm nhận, thấu hiểu. Không chỉ gieo vào lòng người đọc những nhận thức, suy nghĩ, tình cảm, niềm tin, khát vọng mà còn thúc đẩy, mở ra một lối thoát cho họ hướng về chân lý. Chính vì vậy, tác phẩm phải có cái kết thúc ấn tượng sâu sắc, là sự kết hợp hài hòa của nội dung và hình thức nghệ thuật độc đáo, tạo cảm hứng cho người đọc. Giá trị tư tưởng và giá trị thẩm mỹ phải cùng nhau kết tinh để tạo nên một sự sống cho người đọc sau khi tác phẩm kết thúc.

Lời nhận định của tác giả Bùi Việt Thắng là vô cùng đúng dắn khi bàn về kết thúc của truyện ngắn. Khi trang sách của truyện ngắn kết thúc thì những âm hưởng của nó vẫn còn vang vọng, in sâu trong trái tim và khối óc của người đọc. Vì cái kết thúc ấy đã cho họ một cái nhìn về thế giới, cho họ những cảm xúc mới mẻ và độc đáo nhất.

Phân tích Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân

         

 Cảm nhận trực giác làm người ta thích thú trước tiên là tình huống truyện. Rồi sau đó từng bước, từng bước kết cấu, chữ nghĩa, chi tiết, nhân vật, Nguyễn tẩm ướp gia vị văn hóa cộng với bí quyết nghệ thuật độc nhất vô nhị mê hoặc độc giả vị cay đắng của thời thế, xã hội; chua chát của số phận con người và ngọt bùi của tình tri âm tri kỉ.

          Về tình huống truyện, đã có rất nhiều bài viết sâu sắc đăng trên các báo, tạp chí, kỉ yếu hội thảo, nếu muốn, độc giả dễ dàng tìm kiếm. Tựu trung, cốt lõi vấn đề có thể cô đúc bằng một câu: Truyện xoay quanh một cuộc gặp gỡ oái oăm giữa những người thực chất là tri kỉ nhưng lại ở vị thế đối nghịch, đối địch nhau.

          Về mặt kết cấu, đây là truyện ngắn giàu tính kịch, kết thúc có hậu. Quản ngục có được chữ của Huấn Cao, người tử tù không “phụ một tấm lòng trong thiên hạ”. “Phương tiện” mở nút thắt của tình huống chính là cái ĐẸP, mà đó là cái đẹp gắn liền với cái THIỆN.

          Khi chưa đọc Chữ người tử tù, dưới góc độ lí luận sáng tác truyên ngắn, tạo “phông” để cho nhân vật trung tâm xuất hiện chiếm khoảng 20% dung lượng tác phẩm, người ta đã cho rằng mất cân đối trong kết cấu. Nhưng ở đây, Nguyễn “mất” gần 40% dung lượng! Cụ thể truyện có 2665 chữ, Huấn Cao xuất hiện với câu nói: “Rệp cắn tôi, đỏ cả cổ lên rồi. Phải dỗ gông đi thôi” đã là 1064 chữ!

          Điều đặc biệt, với 1064 chữ ấy, Nguyễn vung bút “vẽ mây nẩy trăng”,  nhấn nhá những chi tiết đối lập, tô đậm nội tâm Quản ngục và kín đáo bày tỏ nỗi lòng mình.

          Ngày xưa, tướng lĩnh, quân sư giỏi “trên thông thiên văn dưới tường địa lí”. Nhìn sao để biết thời tiết hay vận mệnh con người. Khổng Minh đã khóc khi thấy chủ tinh Quan Công rơi; Tư Mã Ý mừng vui khi “ngôi sao to như cái đấu sa xuống trại Thục”. Nguyễn cũng đã xót thương Huấn Cao một cách thầm kín: “Lướt qua cái thăm thẳm của nội cỏ đẫm sương, vẳng từ làng xa đưa lại mấy tiếng chó sủa ma. Trong khung cửa sổ có nhiều con song kẻ những nét đen lên nền trời lốm đốm tinh tú, một ngôi sao Hôm nhấp nháy như muốn trụt xuống chân giời không định. Tiếng dội chó sủa ma, tiếng trống thành phủ, tiếng kiểng mõ canh nổi lên nhiều nhiều. Bấy nhiêu thanh âm phức tạp bay cao lần lên khỏi mặt đất tối, nâng đỡ lấy một ngôi sao chính vị muốn từ biệt vũ trụ”.

          Nhiều ẩn ngữ thay hai từ “ngôi sao chính vị”! Huấn Cao là tên của ông Huấn thụ họ Cao. Ngày xưa, kính trọng người ta gọi nhau bằng chức tước, ví như “quan Trạng”, “cụ Nghè”, “cụ Cử” hay gắn thêm tên quê như “cụ Tam nguyên Yên Đổ”…Thứ đến, dùng họ để gọi kèm theo mĩ từ “tiên sinh”. Chỉ riêng đặt tên cho nhân vật, người đọc đã thấy được tâm ý Nguyễn.

          Chữ người tử tù nhân vật không nhiều: Huấn Cao, Quản ngục, thầy thơ lại, tên lính, bọn lính. Trừ Huấn Cao, tất cả tên nhân vật đều là phiếm chỉ. Phải chăng sử dụng thủ pháp này, chủ ý của Nguyễn tôn nền cho nhân vật trung tâm?

          Đối nghịch với Huấn Cao là “tên lính”, “bọn lính”; xem Huấn Cao là thần tượng là viên Quản ngục, thầy thơ lại. Huấn Cao không chút để tâm đến “tên lính”, “bọn lính”, coi thường, “khinh bạc đến điều” với Quản ngục:

          - Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây.

          Thái độ ấy của Huấn Cao xuất phát từ định kiến, cứ quản ngục thì đều  tàn bạo, thị oai với tù nhân. Ông đâu ngờ Quản ngục này là “một thanh âm trong trẻo”. Nguyễn khéo léo chen vào những suy tư của Quản ngục với bình phẩm, thấu hiểu ngắn gọn: “Trong hoàn cảnh đề lao, người ta sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc, tính cách dịu dàng và lòng biết giá người, biết trọng người ngay của viên quan coi ngục này là một thanh âm trong trẻo giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ.

Ông trời nhiều khi chơi ác, đem đày ải những cái thuần khiết vào giữa một đống cặn bã. Và những người có tâmđiền tốt và thẳng thắn, lại phải ăn đời ở kiếp với một lũ quay quắt”.

Hai đoạn văn ngắn ngủi với những cụm từ “lòng biết giá người”, “biết trọng người ngay”, “thanh âm trong trẻo”, “những cái thuần khiết” đủ khái quát “thiên lương” quản ngục. Với thiên lương ấy, mặc dù học vấn chỉ mới ở mức “đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền”, ông vẫn khao khát có được đôi câu đối do tay ông Huấn Cao viết, treo ở nhà riêng và xem đó là “báu vật trên đời”. Cái sở nguyện của viên quản ngục gắn liền với sinh mạng chính mình. Chế độ phong kiến không bao giờ dung thứ bất cứ ai yêu quí di vật của “phản nghịch”, cho dù đó chỉ là thú vui văn hóa!

          Truyện Chữ người tử tù ra đời khi chữ Hán đã đi vào thời mạt vận. Trước đó, khi “đất nước quê hương lộp cộp móng lừa tây, vó ngựa lai, giày đinh sắng đá, và đì đoành ca nông chấm câu cho những vần thơ yêu nước…”, Tú Xương thừng than thở: “Nào có ra gì cái chữ Nho/ Ông nghè ông cống cũng nằm co/ Phen này tớ quyết làm thông phán/ Sáng rượu sâm panh tối sữa bò”. Chữ Nho mai một như thế, sĩ tử quay sang học tiếng Pháp để vinh thân, Nguyễn lại đề cao thú chơi chữ Hán, phải chăng tâm nguyện muốn giữ mãi, nâng tầm vẻ đẹp văn hóa dân tộc? Rồi sau này, trong những ngày kháng chiến chống Mĩ ác liệt, Nguyễn lại say mê viết “Phở”, “Giò lụa” làm chảy nước miếng cả những người ngồi trên mâm pháo. Người ta thấy ở Nguyễn cái gì đó “ngược ngược”, lắm khi gán cho một chữ “ngông” mà đâu biết đằng sau cá tính “khoảnh” ấy là một tấm lòng tha thiết với đời.

Tha thiết với đời là làm cho đời đẹp hơn. Cái đẹp mà Nguyễn hướng đến bao giờ cũng phải tuyệt mĩ nhưng không xa lạ. Đọc Nguyễn, cho dù truyện ngắn đấy nhưng vẫn đậm chất tùy bút, nguyên mẫu Huấn Cao chắc chắn là Cao Bá Quát. Giữa Huấn Cao và Cao Bá Quát có rất nhiều điểm tương đồng về tài năng, tính cách. Cao Bá Quát “Nhất sinh đê thủ bái mai hoa”, nên ngay cả câu giáo huấn trên bức bình phong điện Cần Chánh, vua Tự Đức nổi tiếng hay chữ, tâm đắc lắm cũng bị sổ toẹt. Khi dòng chữ “Tử năng thừa nghiệp phụ/ Thần khả báo quân ân” đập vào mắt, Cao Bá Quát liền lấy hòn son ghi: “Tốt hảo, tốt hảo! Cương thường điên đảo!”. Chuyện đến tai vua, Cao Bá Quát được triệu vào cung. Ông giải trình: “Con không được đứng trước cha, thần không được đứng trước vua”. Được lênh, Cao Bá Quát sửa lại, tạm dịch như sau:

                             Ơn vua, thần phải báo

                             Nghiệp cha, con phải theo.

Rất nhiều giai thoại về Cao Bá Quát không thể Nguyễn không biết.

 Có những chi tiết nhỏ chúng ta có thể lướt qua, có thể không nhận thấy nhưng vô cùng quan trọng trong tác phẩm. Đọc Nguyễn phải thật chậm rãi, suy ngẫm kĩ càng. Chẳng hạn, Huấn Cao cho Quản ngục chữ gì? Nguyễn không nói. Đó không phải là đôi câu đối, không phải bộ tứ bình, càng không phải là bức trung đường. Nguyễn chỉ nói đó là một bức châm. Đây chính là dụng ý của Nguyễn và nó logic với tài năng, tính cách nhân vật Huấn Cao.

Trước khi cho chữ Quản ngục, Huấn Cao chỉ viết hai bức tứ bình, một bức trung đường cho ba người bạn tri kỉ. Tranh chữ tứ bình có thể là “Ngư, Tiều, Canh, Mục” hoặc “Tùng, Cúc, Trúc, Mai” hay “Mai, Lan, Trúc, Cúc”…Tứ bình là những đề tài có sẵn, tùy sở thích của bạn mà viết tặng thôi. Riêng cho chữ bức trung đường lại khác. Bức trung đường được treo sau bàn thờ gia tiên hay nơi trang trọng nhất trong phòng khách. Bức trung đường thường chỉ ba, bốn chữ, thể hiện một tín niệm nào đó của chủ nhân, ví như: “Văn vũ trung hiếu”, “Kính như lai”, “Phúc Mãn đường”…Do vậy, những con chữ viết trên bức trung đường bao giờ cũng là lời ca tụng công đức, đề cao chí hướng hay ghi lại lời giáo huấn tổ tiên. Tự mình cho chữ, viết bức trung đường là khấu đầu trước một dòng họ. Một con người nổi tiếng như Huấn Cao, cúi đầu trước dòng họ bạn thì dòng họ đó phải nổi tiếng tài hoa, đức độ lắm lắm.

Như vậy, Huấn Cao cho chữ không nhiều, tuyệt nhiên không bao giờ ép mình viết câu đối cho dù vàng bạc hay quyền thế. Với sở nguyện của Quản ngục có được đôi câu đối của Huấn Cao lại càng không thể. Huấn Cao cho chữ nhưng nhất định không phải là câu đối, Nguyễn không nói nhưng theo logic, có thể lí giải như sau.

Thứ nhất, câu đối treo trong nhà dùng để ca ngợi đức độ, tài năng dòng họ hay chí khí, hoài bão của gia chủ. Người tặng câu đối phải hiểu tài năng, đức độ của người được tặng. Ở đây, Huấn Cao mới chỉ biết Quản ngục có thú chơi chữ, “biết giá người”, chừng ấy là chưa đủ.

Sinh thời, Huấn Cao chưa viết câu đối cho ai bao giờ. Nguyên mẫu Huấn Cao – Cao Bá Quát cũng vậy, lúc làm Giáo thụ ở phủ Quốc Oai, ông có viết đôi câu đối, tự nhạo, hài hước:

-         Nhà trống ba gian, một thầy, một cô, một chó cái.

-         Học trò dăm đứa, nửa người, nửa ngợm, nửa đười ươi.

Thứ hai, tặng câu đối cũng là khích lệ, gửi gắm niềm tin cho người được tặng. Viên quản ngục “đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu. Những đường nhăn nheo của bộ mặt tư lự…”, trên dưới năm mươi rồi, độ tuổi “tri thiên mệnh” rồi, “sự nghiệp” như vậy rồi, thử hỏi nên được tăng đôi câu đối gì đây? Nguyễn rất khéo khi giới thiệu quản ngục mới “Biết đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền”, cho nên mới “sở nguyện” đôi câu đối chính tay Huấn Cao viết không có gì phải chê trách.

Phù hợp với Quản ngục, Huấn Cao viết bức châm. Về cách treo bức châm cũng giống như treo bức trung đường. Bức châm có thể là một bài thơ ngắn hàm ý sâu xa, tỷ như Xuân hiểu của Mạnh Hạo Nhiên, Cáo tật thị chúng của Mãn Giác thiền sư, Thượng sơn của Hồ Chí Minh…hay là lời khuyên của cổ nhân về đạo đức phẩm hạnh, Huấn Cao vừa để “không phụ một tấm lòng trong thiên hạ”, phù hợp với con người Quản ngục, lại vừa giữ được nguyên tắc sống của chính mình.

Quản ngục xin đôi câu đối, được bức châm nhưng không vì thế mà thất vọng, trái lại, ông hiểu ra sau lời khuyên của Huấn Cao, câu nói: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh” là lời khắc cốt ghi tâm chắc chắn  biến thành hành động.

Chữ người tử tù là một khối ngọc bích không tì vết. Tất cả các chi tiết, chữ nghĩa bổ sung, gắn kết logic, chặt chẽ. Để làm nổi bật cái tài viết chữ nhanh và đẹp của Huấn Cao, Nguyễn đã sử dụng thủ pháp “tá khách hình chủ”. Đó là lời thán phục lan truyền trong dân gian. Chữ đẹp không thiếu gì người viết được, song cho có hồn, mạnh mẽ, khoáng đạt thì được mấy người? Đời Đường cả ngàn nhà thơ nổi tiếng chỉ có “trên dưới chục người thành danh từ thư pháp”. Cái khoáng đạt, mạnh mẽ trong từng nét bút Huấn Cao được Nguyễn cài đặt bổ sung bằng các chi tiết: “Thầy có nghe thấy người ta đồn Huấn Cao, ngoài cái tài viết chữ tốt, lại còn có tài bẻ khóa và vượt ngục nữa không”; hay hành động dỗ cái gông nặng bảy, tám tạ…Rồi ngay cả Quản ngục cũng ý thức được: “Y cũng thừa hiểu những người chọc trời khuấy nước, đến trên đầu người ta, người ta cũng chẳng có biết ai nữa, huống chi cái thứ mình chỉ là một kẻ tiểu lại giữ tù”.

Bấy nhiêu thôi cũng đã rõ cái ý chí tự do, không chịu sống trong xã hội tù túng chật hẹp. Đọc những dòng Nguyễn miêu tả suy nghĩ của quản ngục, bất giác hình tượng Từ Hải hiển hiện trước mặt:

Chọc trời khuấy nước mặc dầu

Dọc ngang nào biết trên đầu có ai.

                                                               [Kiều – Nguyễn Du]

Chỉ có những người có sức khỏe, tài năng, tâm hồn phóng khoáng mới phóng được những con chữ “nhanh và đẹp”, để chúng trở thành “báu vật trên đời”.

Khắc họa Huấn Cao chỉ bằng mấy câu nói, vài cử chỉ mà vẫn lồng lộng một con người hiên ngang lẫm liệt, ung dung làm chủ ngục tù, lung linh vẻ đẹp thiên lương, minh chứng cho tài năng xây dựng nhân vật của Nguyễn.

Phải chăng thành công của Chữ người tử tù là sự cộng hưởng cái tâm, cái tài giữa nhân vật, nguyên mẫu nhân vật và tác giả?

Mặt khác, hấp dẫn của truyện không thể không nói đến cái tài sắp xếp các chi tiết đối lập, tương phản. Đó là đối lập giữa sở nguyện của Quản ngục với “khinh bạc đến điều” của Huấn Cao. Đối lập ngay trong cảnh cho chữ mà “xưa nay chưa từng thấy”. Người ta cho chữ khi tâm trạng thư thái, có rượu, có hoa nâng thêm cảm hứng, có mùi hương trầm gợi không khí trầm mặc, thanh tao…Còn đây, người đang phóng những con chữ “vuông lắm, đẹp lắm”, cổ lại mang gông, chân vướng xiềng trong gian buồng giam chật hẹp, ẩm ướt đầy phân chuột, phân gián. Rồi những hình ảnh tương phản giữa ánh sáng ngọn đuốc và bóng đêm, mùi mực thơm, tấm lụa trắng tinh với nền đất ẩm, tường đầy mạng nhện tô đậm ý nghĩa hiện thực và gợi cho người đọc liên tưởng mang tính biểu tượng sâu xa.

Một thành công khác của truyện không thể không nói đến là cách sử dụng từ ngữ. Trong truyện, hai lần Nguyễn dùng chữ “trời”, một lần dùng chữ “giời”. Chữ “giời” là tiếng địa phương của Nguyễn. Đây chắc chắn không phải là sự nhầm lẫn của tác giả hay của nhà in. Nhà văn chỉ sử dụng từ địa phương khi miêu tả văn hóa vùng miền, xây dựng nhân vật hay thể hiện tình cảm của mình. Ở đây,  cách dùng chữ “giời” thuộc khía cạnh thứ ba.

Để tạo không khí cổ xưa của truyện, Nguyễn chọn từ “phiến trát” thay cho “công văn”, “kiểng” thay cho “kẻng”, “thằng thập” thay cho “đội trưởng”…khéo léo dùng từ Hán – Việt: “tập bản đóng dấu son ti Niết”, bộ mặt tư lự, hay những ngữ gợi cảm hoặc tượng hình: “nền trời lấm tấm tinh tú”, “tiếng dội chó sủa ma”, “một ngôi sao chính vị muốn từ biệt vũ trụ”…

Từ chọn tình huống, kết cấu truyện, xây dựng nhân vật cho đến cách kể, cách dùng từ ngữ… Nguyễn rất thành công trong thông điệp gửi tới độc giả, đó là cái đẹp phải gắn liền với cái thiện, cái đẹp có thể nảy sinh trong cái xấu, môi trường xấu nhưng không bao giờ chung sống với cái xấu. Cái đẹp có sức mạnh cảm hóa, cái đẹp là bất tử. Huấn Cao nhận cái chết về thân xác nhưng tư tưởng, cảm xúc về cái đẹp là bất tử.

Quan điểm thẩm mĩ của Nguyễn hướng tới cái khác thường, cái phi thường: đẹp phải ở mức tuyệt mĩ, tài phải ở mức siêu phàm. Cái tuyệt mĩ, siêu phàm không phải thần thánh hóa, nó gắn chặt với đời thường, bởi Nguyễn biết “khơi mạch nguồn chưa ai khơi”, chắt lọc “thanh âm trong trẻo” trong bản đàn cuộc đời mà “nhạc luật hỗn loạn xô bồ”. Nguyễn tha thiết với đời, cổ vũ cho suộc đời tốt đẹp hơn -  dù ở thời khắc lịch sử nào – cũng đều bằng những trang viết tài hoa và trách nhiệm của người nghệ sĩ.

                                                                                  Mùa hè 2018

Video liên quan

Chủ Đề