Cấu tạo thân máy trong động cơ làm mát bằng không khí gồm cơ máy bộ phận

Với những người sử dụng các thiết bị xe máy, xe điện thì có thể đã quen với thuật ngữ hệ thống làm mát bằng không khí. Đây là một trong những hệ thống làm mát được sử dụng từ rất lâu và vẫn được duy trì cho đến tận ngày nay trên các thiết bị xe máy, xe điện vì chúng có cấu trúc khá đặc biệt cùng với hiệu quả mang lại khá cao. Bài viết hôm nay sẽ cùng với bạn đọc đi tìm hiểu cấu tạo và nguyên lý hoạt động của hệ thống làm mát bằng không khí.

Làm mát động cơ xe bằng hệ thống làm mát không khí được ứng dụng khá rộng rãi vì hiệu quả tốt.

Cấu tạo hệ thống làm mát bằng không khí

Với hệ thống làm mát bằng không khí được chia ra thành hai loại hình bao gồm làm mát bằng gió cưỡng bức và làm mát bằng cách sử dụng gió tự nhiên.

Cấu tạo hệ thống làm mát bằng gió cưỡng bức

  • Quạt hút gió: đây là bộ phận giúp thu được nhiều lượng gió đi vào bên trong và góp phần làm mát của hệ thống, đặc biệt hữu hiệu với những khu vực hay xảy ra tắc đường, cư dân đông đúc…
  • Động cơ được bao bọc phía ngoài bởi lớp vỏ có nhiều đường rãnh khít liền kề. Thiết kế vỏ này giúp cho lượng không khí và gió vào bên trong, tiếp xúc với động cơ với mật độ cao hơn, làm giảm nhiệt hiệu quả hơn.
Cấu tạo của hệ thống làm mát bằng không khí gió cưỡng bức khá đơn giản, chủ yếu là bộ phận quạt đó đảm nhiệm nhiệm vụ hút gió.

Loại hệ thống này được sử dụng trên các dòng xe số, xa tay ga, xe điện… hiện nay khá phổ biến.

Cấu tạo hệ thống làm mát bằng không khí tự nhiên

Hệ thống làm mát bằng gió tự nhiên này khá đơn giản không sử dụng đến quạt hút gió như hệ thống gió cưỡng bức. Đơn giản là động cơ sẽ tiếp xúc trực tiếp với không khí của môi trường và thông qua dao động luồng không khí khi sử dụng để làm giảm nhiệt cho bộ phận này. 

Hệ thống làm mát bằng không khí tự nhiên với phần động cơ được để trần và hoạt động theo cơ chế tiếp xúc trực tiếp với không khí để làm mát.

Chính vì đặc tính đặc biệt này mà hầu như chỉ được sử dụng cho các dòng xe với phần động cơ được thiết kế hình chữ V hoặc động cơ xilanh thẳng hàng và thường là có không gian tiếp xúc với không khí nhiều. Có thể thấy hệ thống làm mát này được sử dụng nhiều cho các dòng xe phân khối lớn của một vài hãng nổi tiếng. Điểm chung những chiếc xe này là thiết kế khá lớn, hầm hố, mang đậm độ chất của một biker thực thụ.

Nguyên lý hoạt động

Nghe tên gọi thì cũng có thể dễ dàng đoán được nguyên lý hoạt động chính của hệ thống làm mát bằng không khí đó là sử dụng chính không khí có trong môi trường để làm dịu mát cho động cơ.

Thực tế cho thấy, khi xe hoạt động, máy nén hoạt động nạp, nén nhiên liệu liên tục bên trong động cơ đốt nên sẽ khiến cho bộ phần này nóng lên nhanh chóng, có thể lên đến 700 độ C hoặc cao hơn. So sánh tương quan với nhiệt độ trung bình của không khí dao động từ 15 – 40 độ C, rất phù hợp để làm giảm nhiệt độ cho động cơ.

Ưu và nhược điểm của máy làm mát không khí

Ưu điểm

  • Cấu tạo đơn giản: bao gồm cánh tản nhiệt với chất liệu là những lá nhôm mỏng và nhẹ, giúp tăng bề mặt tiếp xúc với không khí; quạt hút gió có chức năng tăng lưu lượng gió đi vào bộ phận tản nhiệt; cửa thoát gió giúp cho nhiệt giải phóng ra bên ngoài; vỏ động cơ với nhiều đường rãnh nằm khít nhau, tăng tiết diện tiếp xúc động cơ với không khí hơn.
  • Giá thành rẻ: với hệ thống làm mát bằng không khí thì chi phí sản xuất khá rẻ, vì thế mà những phương tiện sử dụng hệ thống làm mát này có giá thành rẻ hơn so với những phương tiện sử dụng phương thức làm mát khác.
  • Sử dụng thích hợp cho động cơ xilanh đơn hay động cơ hình chữ V thẳng hàng.
Hệ thống làm mát bằng không khí được ứng dụng khá rộng rãi trên nhiều phương tiện xe máy, xe ga…

Nhược điểm

  • Gây tiếng ồn: việt sử dụng quạt gió với hệ thống làm mát bằng gió cưỡng bức hay sử dụng không khí tự nhiên thì việc tiếp xúc không khí với động cơ phần nào cũng gây ra những tiếng ồn khi vận hành máy.
  • Khó làm mát những động cơ phức tạp vì bản chất của hệ thống làm mát này là sử dụng không khí để làm mát các mặt diện dễ tiếp xúc, từ đó hiệu quả tản nhiệt mới thể hiện được tối đa công dụng. Với những động cơ phức tạp hơn thì việc không khí tiếp xúc hết tất cả để làm mát là điều khó khăn nên thường ít được sử dụng.
  • Làm tăng chi phí cho phương tiện: hiệu quả làm mát ở một số loại thiết bị với không khí làm mát không phải lúc nào cũng tối ưu. Thế nên động cơ cần sử dụng vật liệu tốt hơn để hoạt động ổn định ở nhiệt độ cao, nhưng bù lại chi phí cũng tăng cao lên.

Thân máy[1] [tiếng Anh: engine block], hay còn gọi là thân động cơ[2], khối động cơ là cấu trúc chứa các xi lanh và các bộ phận khác của động cơ đốt trong. Trong một động cơ ô tô đời đầu, khối động cơ chỉ bao gồm khối xi lanh, được gắn một hộp trục khuỷu riêng. Các khối động cơ hiện đại thường có trục khuỷu được tích hợp với khối xi lanh như một bộ phận duy nhất. Thân máy cũng thường bao gồm ngăn chứa nước làm mát và đường dầu chính trong hệ thống bôi trơn.

Thân máy của động cơ diesel V6 hiện đại. Các lỗ lớn là các hình trụ, các lỗ tròn nhỏ là các lỗ lắp và các lỗ hình bầu dục nhỏ là chất làm mát hoặc ống dẫn dầu.

Thuật ngữ "thân xi lanh" [cylinder block] thường được sử dụng thay thế cho thân máy, mặc dù về mặt kỹ thuật, khối của động cơ hiện đại [nghĩa là nhiều xi lanh trong một thành phần] sẽ được phân loại là một khối.

 

Động cơ De Dion-Bouton, khoảng năm 1950. Các đầu xi lanh được tích hợp vào khối động cơ, tuy nhiên trục khuỷu là riêng biệt. Nửa dưới của hộp trục khuỷu cũng bao gồm thùng đựng dầu.[3]

Cấu trúc chính của động cơ [không bao gồm các bộ phận chuyển động] thường bao gồm xi lanh, ngăn chứa nước làm mát, đường dẫn dầu bôi trơn, trục khuỷu và nắp xi lanh. Các động cơ sản xuất đầu tiên vào thập niên 1880 đến 1920 thường sử dụng các bộ phận riêng biệt, sau đó được gắn với nhau trong quá trình lắp ráp động cơ. Tuy nhiên, các động cơ hiện đại thường tích hợp sẵn những bộ phận này thành một khối duy nhất, để giảm chi phí sản xuất.

Sự thay đổi từ việc lắp ráp các thành phần riêng biệt cho đến việc chế tạo một khối động cơ liền khối có sẵn các bộ phận [động cơ monobloc] là một sự tiến bộ trong lịch sử phát triển của động cơ đốt trong. Việc sản xuất thân máy liền khối này dựa trên sự phát triển của kỹ thuật đúc và gia công. Ví dụ, việc sản xuất động cơ V8 chi phí thấp là không khả thi, cho đến khi Ford phát triển các kỹ thuật được sử dụng để chế tạo động cơ V8 xupap hông của hãng Ford. Những kỹ thuật này sau đó đã được nhà sản xuất khác áp dụng cho quá trình sản xuất động cơ.

Khối xi lanh

Một khối xi lanh là cấu trúc có chứa xi lanh, cộng với bất kỳ ống xi lanh và các đoạn làm mát. Trong những thập kỷ đầu tiên của sự phát triển động cơ đốt trong, xi lanh thường được đúc riêng lẻ, vì vậy các khối xi lanh thường được sản xuất riêng cho mỗi xi lanh. Tiếp theo đó, các động cơ bắt đầu kết hợp hai hoặc ba xi lanh thành một khối xi lanh đơn, với một động cơ kết hợp một số khối xi lanh này kết hợp với nhau.

Trong các động cơ ban đầu có nhiều xi lanh - chẳng hạn như động cơ V6, V8 hoặc động cơ flat-6 - mỗi ngân hàng thường là một khối xi lanh riêng [hoặc nhiều khối]. Từ những năm 1930, các phương pháp sản xuất hàng loạt đã phát triển để cho phép cả hai bờ của xi lanh được tích hợp vào cùng một khối xi lanh.

Ống lót xi lanh

Khối xi lanh có lót ướt sử dụng các bức tường xi lanh có thể tháo rời hoàn toàn, phù hợp với khối bằng các miếng đệm đặc biệt. Chúng được gọi là "lớp lót ướt" vì mặt ngoài của chúng tiếp xúc trực tiếp với chất làm mát của động cơ. Nói cách khác, lớp lót là toàn bộ bức tường, thay vì chỉ đơn thuần là một tay áo.

Ưu điểm của lớp lót ướt là khối lượng thấp hơn, giảm yêu cầu không gian và chất lỏng làm mát được làm nóng nhanh hơn từ khi bắt đầu lạnh, giúp giảm mức tiêu thụ nhiên liệu khởi động và cung cấp sưởi ấm cho cabin xe sớm hơn.

Các khối xi lanh lót khô sử dụng vật liệu của khối hoặc một lớp lót rời được chèn vào khối để tạo thành cột trụ của thành xi lanh. Ống bọc ngoài bổ sung được chèn vào bên trong, vẫn còn "khô" ở bên ngoài, được bao quanh bởi vật liệu của khối.

Đối với thiết kế lớp lót ướt hoặc khô, lớp lót [hoặc ống bọc ngoài] có thể được thay thế, có khả năng cho phép đại tu hoặc xây dựng lại mà không cần thay thế khối, mặc dù đây thường không phải là một lựa chọn sửa chữa có tính thực tế.

Đường dẫn chất làm mát

Đường đi của dầu

Hộp trục khuỷu

 

Động cơ flathead điển hình 1930-1960 với trục khuỷu tích hợp [đầu xi lanh được nghiêng lên trên nhằm mục đích minh họa]

Một động cơ trong đó tất cả các xi lanh chia sẻ một khối chung được gọi là động cơ monobloc. Hầu hết các động cơ hiện đại [bao gồm cả ô tô, xe tải, xe buýt và máy kéo] sử dụng một thiết kế đơn khối của một số loại, do đó ít động cơ hiện đại có một khối riêng cho mỗi xi lanh. Điều này đã dẫn đến thuật ngữ "khối động cơ" thường ngụ ý một thiết kế monobloc và thuật ngữ monobloc hiếm khi được sử dụng.

Trong những năm đầu tiên của động cơ đốt trong, công nghệ đúc có thể tạo ra các vật đúc lớn hoặc đúc có lõi bên trong phức tạp để cho phép áo nước, nhưng không được làm cùng một lúc. Hầu hết các động cơ ban đầu, đặc biệt là những động cơ có hơn bốn xi-lanh, có các xi-lanh được đúc thành cặp hoặc bộ ba xi-lanh, sau đó được bắt vít vào một trục khuỷu duy nhất.

Khi các kỹ thuật đúc được cải thiện, toàn bộ khối xi lanh gồm 4, 6 hoặc 8 xi lanh có thể được sản xuất thành một mảnh. Việc xây dựng monobloc này là đơn giản hơn và hiệu quả chi phí để sản xuất. Đối với các động cơ có cấu hình nội tuyến, điều này có nghĩa là tất cả các xi lanh, cộng với trục khuỷu, có thể được sản xuất trong một thành phần duy nhất. Một trong những động cơ đầu tiên được sản xuất bằng phương pháp này là động cơ 4 xi-lanh trong máy Ford Model T, được giới thiệu vào năm 1908. Phương pháp này được dùng trong động cơ 6 xi lăng thằng hàng và thường được sử dụng vào giữa những năm 1920.

Cho đến những năm 1930, hầu hết các động cơ V vẫn giữ một khối đúc riêng cho mỗi dãy xi lanh, với cả hai được bắt vít vào một trục khuỷu chung [bản thân nó là một vật đúc riêng]. Đối với nền kinh tế, một số động cơ được thiết kế để sử dụng vật đúc giống hệt nhau cho mỗi ngân hàng, bên trái và bên phải.[4] [p120] Một ngoại lệ hiếm hoi là V12 góc hẹp 22 °Của Lancia năm 1919, sử dụng đúc khối đơn kết hợp cả hai bờ. [tr50-53] Ford flathead V-8 - được giới thiệu vào năm 1932 - thể hiện sự phát triển đáng kể trong việc sản xuất động cơ V giá cả phải chăng. Đó là động cơ V8 đầu tiên với khối động cơ đúc duy nhất, lần đầu tiên đưa động cơ V8 vào một chiếc xe giá cả phải chăng.[5]

Áo nước chung của các thiết kế monobloc cho phép khoảng cách gần hơn giữa các xi lanh. Thiết kế monobloc cũng cải thiện độ cứng cơ học của động cơ chống uốn cong và xoắn xoắn ngày càng quan trọng, khi số xi lanh, chiều dài động cơ và xếp hạng công suất tăng.

Hầu hết các khối động cơ ngày nay, ngoại trừ một số động cơ V hoặc radial hiếm và động cơ hàng hải lớn, được xem là một monobloc cho tất cả các xi lanh, cộng với một trục khuỷu tích hợp. Trong những trường hợp như vậy, mép của các dãy hình trụ tạo thành một khu vực cacte [trục khuỷu] các loại, thường vẫn được gọi là trục khuỷu mặc dù không còn là một phần rời rạc.

Sử dụng lót xi lanh bằng thép và vỏ ổ trục giúp giảm thiểu ảnh hưởng của độ mềm tương đối của nhôm. Một số thiết kế động cơ sử dụng phun nhiệt hồ quang dây plasma thay vì ống lót xi lanh, để giảm trọng lượng. Chúng cũng có thể được sản xuất bằng sắt graphit nén [CGI] như một số động cơ diesel.[6]

Đầu xi lanh tích hợp

Một số động cơ nhỏ cấp tiêu dùng hiện đại sử dụng thiết kế monobloc trong đó đầu xi-lanh, thân và một nửa trục khuỷu có chung vật đúc. Một lý do cho điều này, ngoài chi phí, là để tạo ra chiều cao động cơ tổng thể thấp hơn. Nhược điểm có thể là việc sửa chữa trở nên tốn thời gian hơn và không thực tế.

Một ví dụ về động cơ có đầu xi-lanh tích hợp là động cơ Honda GC -series và GXV-series, đôi khi được gọi là "Uniblock".[7]

Bộ truyền tích hợp

Một số xe ô tô với động cơ ngang đã sử dụng một khối động cơ bao gồm hộp số tích hợp và trục khuỷu. Ô tô đã sử dụng sự sắp xếp này bao gồm 1966-1973 Lamborghini Miura [8] và một số xe sử dụng BMC A-series và E-series động cơ.[9][10] Thiết kế này thường dẫn đến động cơ và bộ phận truyền dẫn chia sẻ cùng một loại dầu.

Nhiều thiết kế máy kéo nông trại có khối xi lanh, trục khuỷu, hộp số và trục sau tích hợp thành một đơn vị. Một ví dụ ban đầu là máy kéo Fordson.

Các khối động cơ thường được đúc từ gang hoặc hợp kim nhôm. Khối nhôm có trọng lượng nhẹ hơn nhiều, và truyền nhiệt tốt hơn đến chất làm mát, nhưng khối sắt vẫn giữ một số lợi thế và tiếp tục được các nhà sản xuất sử dụng.

  • Nắp lõi đúc
  • Đệm nắp máy
  • Động cơ khối lớn
  • Động cơ khối nhỏ

  1. ^ Viện Tiêu chuẩn Chất lượng Việt Nam [VSQI] [2009]. TCVN 8273-1:2009 Động cơ đốt trong kiểu pít tông – Phần 1: Kết cấu và phần bao ngoài. tr. 6.
  2. ^ Phan Hòa [2005]. Giáo trình động cơ đốt trong. Hà Nội: Nhà xuất bản Nông nghiệp. tr. 32.
  3. ^ Kennedy, Rankin [1912]. The De Dion-Bouton Engine and Cars. The Book of Modern Engines and Power Generators. London: Caxton. tr. 78–89.
  4. ^ Ludvigsen, Karl [2005]. The V12 Engine. Haynes Publishing. ISBN 1-84425-004-0.
  5. ^ Sorensen, Charles E.; Williamson, Samuel T. [1956]. My Forty Years with Ford. New York, USA: Norton. tr. 225–231. ISBN 9780814332795.
  6. ^ Brooks, Robert [ngày 25 tháng 1 năm 2012]. “Navistar Now Producing Engine Blocks, Heads in CGI”. Foundry Management & Technology. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2017.
  7. ^ “Honda General Purpose Engines: GC Series - Single Cylinder”. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 11 năm 2010. Includes sectioned drawings
  8. ^ “Lamborghini Miura SV [1971]”. www.netcarshow.com [bằng tiếng Anh]. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2018.
  9. ^ “H and K-Series prototypes: BL's first attempt at replacing the A-Series”. www.aronline.co.uk. ngày 22 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2018.
  10. ^ “Tiny and Triumphant: The Morris / Austin Mini”. www.ateupwithmotor.com. ngày 1 tháng 5 năm 2010. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2018.

Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Thân_máy&oldid=67882603”

Video liên quan

Chủ Đề