Cách chữa bệnh cường giáp tại nhà

Các nguyên nhân phổ biến nhất tổng thể bao gồm

  • Nhân nóng cường chức năng, nhân độc, tự trị

Bệnh Graves [bệnh bướu độc lan tỏa], nguyên nhân phổ biến nhất của cường giáp, được đặc trưng bởi cường giáp và một trong những biểu hiện sau đây:

Bệnh Basedow là do tự kháng thể kháng thụ thể tuyến giáp đối với hormone kích thích tuyến giáp [TSH]; không giống như hầu hết các tự kháng thể, gây ra sự ức chế, thì tự kháng thể này lại kích thích, do đó gây ra sự tổng hợp liên tục và bài tiết quá nhiều T4 và T3. Bệnh Basedow [như viêm tuyến giáp Hashimoto Viêm tuyến giáp Hashimoto Viêm tuyến giáp Hashimoto là tình trạng viêm mãn tính tự miễn của tuyến giáp với thâm nhiễm tế bào lympho. Các dấu hiệu phát hiện... đọc thêm đôi khi xảy ra cùng với các rối loạn tự miễn khác, bao gồm bệnh đái tháo đường Đái tháo đường [DM] Đái tháo đường [DM] là tình trạng giảm tiết insulin và kháng insulin ngoại vi dẫn đến tăng glucose máu. Triệu chứng sớm liên quan tới tăng glucose má... đọc thêm type 1, bạch biến Bệnh bạch biến Bạch biến là một tổn thương mất tế bào sắc tố da dẫn đến vùng da bị giảm sắc tố với nhiều kích cỡ khác nhau. Nguyên nhân thường không rõ, nhưng cá... đọc thêm , tóc bạc sớm, thiếu máu ác tính, các bệnh mô liên kết, và ] hội chứng suy đa tuyến. Hội chứng suy đa tuyến Các hội chứng suy đa tuyến [PDS] được đặc trưng bởi sự thiếu hụt tuần tự hoặc đồng thời chức năng của một số tuyến nội tiết có cùng chung một nguyên nhân. Nguyê... đọc thêm Yếu tố di truyền làm gia tăng nguy cơ bệnh Basedow, mặc dù các gen liên quan vẫn chưa được biết đến.

Bệnh sinh của bệnh mắt do thâm nhiễm [gây lồi mắt trong bệnh Basedow] chưa được hiểu biết rõ ràng nhưng có thể là do các globulin miễn dịch tác động trực tiếp trên thụ thể TSH trong nguyên bào sợi và tế bào mỡ trong hốc mắt gây ra giải phóng các cytokine tiền viêm, viêm và tích tụ glycosaminoglycans. Biểu hiện mắt cũng có thể xảy ra trước khi bắt đầu có tình trạng cường giáp hoặc có thể xuất hiện muộn đến 20 năm sau và thường xấu đi hoặc giảm một cách độc lập với biểu hiện lâm sàng của cường giáp. Bệnh mắt điển hình khi chức năng tuyến giáp bình thường được gọi là bệnh Basedow bình giáp.

Bướu đơn nhân hoặc đa nhân độc [bệnh Plumeer] đôi khi là kết quả từ các đột biến gen receptor TSH gây ra hoạt hóa tuyến giáp liên tục. Bệnh nhân có bướu nhân độc không có biểu hiện tự miễn dịch hoặc các kháng thể lưu hành được quan sát thấy ở bệnh nhân bị bệnh Basedow. Ngoài ra, trái ngược với bệnh Basedow, những người bướu nhân độc và bướu đa nhân thường không thuyên giảm bệnh.

Tiết TSH không thích hợp là một nguyên nhân hiếm. Bệnh nhân cường giáp thường có nồng độ TSH rất thấp, ngoại trừ những người có u thùy trước tuyến yên giai giải phóng TSH hoặc đáp ứng tuyến yên với hoóc môn tuyến giáp. Nồng độ TSH cao và TSH sản xuất ra tại tuyến giáp tổn thương có hoạt tính sinh học cao hơn TSH bình thường. Tăng dưới nhóm alpha TSH trong máu [hữu ích trong chẩn đoán phân biệt] xảy ra ở những bệnh nhân có u tuyến yên tiết TSH.

Cường giáp do thuốc có thể do amiodarone, chất ức chế điểm kiểm soát được sử dụng trong điều trị ung thư, alemtuzumab được sử dụng trong điều trị bệnh đa xơ cứng hoặc interferon-alfa, có thể gây viêm tuyến giáp kèm theo cường giáp và các rối loạn tuyến giáp khác. Mặc dù thường gây ra chứng suy giáp, lithium hiếm khi gây ra chứng cường giáp. Bệnh nhân điều trị thuốc này nên được theo dõi chặt chẽ.

Nhiễm độc giáp giả tạo là cường giáp do sử dụng quá mức hormone tuyến giáp một cách tình cờ hoặc có chủ đích.

Ăn quá nhiều iốt gây ra chứng cường giáp với sự hấp thụ iốt phóng xạ của tuyến giáp thấp. Nó thường xảy ra nhất ở những bệnh nhân có bướu cổ dạng nốt không độc cơ bản [đặc biệt là những bệnh nhân lớn tuổi] được sử dụng thuốc có chứa i-ốt [ví dụ: amiodaron] hoặc những người trải qua các nghiên cứu phóng xạ bằng cách sử dụng các chất cản quang giàu i-ốt. Nguyên nhân có thể do quá thừa iod cung cấp chất nền cho các vùng tự trị có chức năng [tức là không theo sự điều hòa của TSH] của tuyến giáp để sản sinh hoocmon. Suy giáp thường kéo dài khi lượng iod dư thừa vẫn còn cao trong tuần hoàn.

Ung thư biểu mô màng đệm, và chứng nôn nghén nặng sản xuất nồng độ cao của hormone hướng sinh dục màng đệm ở người [hCG] huyết thanh, một chất kích thích tuyến giáp yếu. Mức độ hCG cao nhất trong quý đầu thai kỳ và gây ra khi giảm nồng độ TSH, tăng nhẹ nồng độ T4 tự do huyết thanh đôi khi cũng được quan sát thấy. Sự kích thích tuyến giáp tăng có thể một phần do tăng mức hCG, một biến thể hCG dường như là một chất kích thích tuyến giáp mạnh hơn so với hCG sialated hơn. Cường giáp trong chửa trứng, ung thư biểu mô màng đệm, và chứng nôn nghén quá mức là tình trạng thoáng qua; chức năng tuyến giáp bình thường trở lại khi tình trạng chửa trứng được giải quyết, bệnh ung thư biểu mô màng đệm được điều trị thích hợp, hoặc chứng nôn nghén giảm đi.

Cường giáp không tự miễn do đột biến trội nhiễm sắc thể thường biểu hiện trong suốt thời thơ ấu. Nó là kết quả của sự đột biến trong gen quy định receptor TSH gây ra sản xuất hormone kích thích tuyến giáp liên tục.

Ung thư tuyến giáp di căn có thể là nguyên nhân. Sự sản xuất quá nhiều hormone tuyến giáp hiếm khi xảy ra do ung thư tuyến giáp thể nang di căn có chức năng, đặc biệt là trong các di căn phổi.

U quái giáp buồng trứng phát triển khi các khối u quái buồng trứng chứa đủ mô tuyến giáp gây ra cường giáp. Sự hấp thu i-ốt phóng xạ xảy ra trong khung chậu, và sự hấp thu bởi tuyến giáp thường bị triệt tiêu.

Thuốc điều trị cường giáp là thuốc giúp bệnh nhân kiểm soát diễn biến và trị bệnh dứt điểm. Cường giáp là một trong những bệnh lý thường gặp ở tuyến giáp. Có 3 nhóm thuốc điều trị cường giáp phổ biến và có hiệu quả trên hầu hết người mắc bệnh cường giáp.

Trong bài viết này, Hello Bacsi mời bạn cùng tìm hiểu về thuốc điều trị cường giáp để có nhiều thông tin hữu ích hơn trong quá trình điều trị!

Sơ lược về thuốc điều trị cường giáp

Thuốc điều trị cường giáp thường ít có biến chứng nên điều trị bằng thuốc là phương pháp đầu tiên được bác sĩ ưu tiên chỉ định cho bệnh nhân.

Mỗi loại thuốc có mức độ tác động khác nhau lên cơ thể người bệnh. Ba loại thuốc điều trị cường giáp chính là thuốc kháng giáp, i ốt phóng xạ và thuốc chẹn beta. Trong đó, thuốc kháng giáp ngăn tuyến giáp hoạt động, i ốt phóng xạ có vai trò phá hủy tuyến giáp, còn thuốc chẹn beta sẽ giúp bệnh nhân giảm nhẹ các triệu chứng cường giáp.

Theo thống kê, có hơn 90% người mắc bệnh cường giáp khỏi bệnh nhờ 1 trong 3 hoặc cả 3 loại thuốc này. Số còn lại không khỏi bệnh vì nhiều nguyên nhân như phát hiện bệnh quá trễ, bệnh đã có biến chứng như lồi mắt, cơn bão giáp…

Trong đơn thuốc, bác sĩ sẽ chỉ định liều dùng để theo dõi hiệu quả điều trị và các tác dụng phụ đi kèm. Vì thế, bệnh nhân không nên tự ý mua thuốc bên ngoài để tránh các rủi ro sức khỏe cho mình.

Thuốc kháng giáp giúp điều trị cường giáp

Loại thuốc này có vai trò ngăn chặn tuyến giáp sản xuất thêm hormone nên cũng có khả năng kiểm soát cường giáp. Thuốc sẽ có những tác dụng đầu tiên sau 1-3 tháng sử dụng liên tục. Sau thời gian này, bác sĩ có thể giảm dần liều lượng cho đến khi bệnh nhân có thể ngưng thuốc hoàn toàn theo liệu trình.

Bệnh nhân không nên tự ý ngưng thuốc đột ngột khi thấy bệnh bắt đầu thuyên giảm vì điều này có thể làm tăng nguy cơ bị cơn bão giáp. Đây là một biến chứng nguy hiểm, đe dọa đến tính mạng.

Thuốc kháng giáp thuộc họ thionamide gồm 2 loại thường dùng là propylthiouracil và methimazole. Cả 2 loại này đều có công dụng ngăn chặn tuyến giáp sản xuất quá nhiều hormone giáp T3 và T4. Tuy nhiên, chúng cũng có những bất lợi đáng lưu ý trong quá trình điều trị cường giáp.

♠ Propylthiouracil [PTU]

PTU là lựa chọn hàng đầu để điều trị bệnh cường giáp cho phụ nữ mang thai. Nó có nguy cơ sẩy thai rất thấp, thậm chí là không gây ra nguy cơ này ở một số bà bầu mắc bệnh cường giáp.

Điều bất lợi là nó chỉ có dạng thuốc viên 50mg. Bệnh nhân cần uống 3 liều bằng nhau theo lịch trình 8 tiếng/lần và phải thực hiện đều đặn thì thuốc mới thể hiện tác dụng điều trị.

Tùy vào mức độ nghiêm trọng và tuổi tác của người bệnh mà bác sĩ sẽ điều chỉnh liều lượng từ 100mg đến 600mg để đạt hiệu quả tốt nhất.

Methimazole

Thuốc methimazole có thể uống 1 lần, 2 lần hoặc 3 lần mỗi ngày tùy thuộc vào liều lượng bác sĩ chỉ định trên từng bệnh nhân. Thuốc dạng viên loại 5mg và 10mg. Nó có tác dụng nhanh hơn so với PTU.

Bác sĩ căn cứ vào tình trạng và tuổi tác của bệnh nhân để chỉ định liều lượng phù hợp. Sau khi thuốc có tác dụng, bác sĩ sẽ theo dõi những diễn biến tiếp theo và có thể cho ngừng hẳn theo liệu trình.

Về lâu dài, cả PTU và methimazole đều sẽ bảo vệ tuyến giáp để bạn có thể kiểm soát bệnh. Tuy nhiên, bệnh cường giáp rất dễ tái phát khi bệnh nhân tiến đến giai đoạn giảm liều lượng đang dùng. Cả 2 loại thuốc đều có tác dụng trong khoảng 12 tháng sử dụng liên tục. Trong nhiều trường hợp, bệnh nhân phải uống thuốc không ngừng nghỉ trong 12 đến 18 tháng, thậm chí là cả đời. Trong quá trình đó, bác sĩ sẽ cân nhắc đổi phương pháp điều trị nếu bệnh nhân thường xuyên tái phát cường giáp khi giảm liều lượng hoặc gặp phải tác dụng phụ nghiêm trọng.

Thuốc ít có phản ứng phụ. Các phản ứng xảy ra ở tỷ lệ 1-3% số người bệnh. Các triệu chứng thường gặp là phát ban, ngứa ngáy, rụng tóc và sốt. Số ít bệnh nhân khác có thể bị buồn nôn, phù, tức ngực, đau nhức xương khớp và đau đầu sau khi dùng thuốc kháng giáp.

Số hiếm bệnh nhân cũng có thể bị tổn thương gan hoặc giảm bạch cầu đột ngột. Y học vẫn chưa tìm ra nguyên nhân dẫn đến những tác dụng phụ này. Trong thời gian dùng thuốc, nếu bạn bị sốt, cảm cúm hoặc đau họng thì phải đến gặp bác sĩ ngay.

Dù rất hiếm gặp nhưng chúng để lại hậu quả rất nặng nề, thậm chí khiến bệnh nhân tử vong nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời. Đó là lý do vì sao bệnh nhân dùng thuốc điều trị cường giáp phải tái khám định kỳ theo lịch hẹn của bác sĩ để kịp thời ngăn chặn những rủi ro sức khỏe do thuốc mang lại.

Uống i ốt phóng xạ

I ốt phóng xạ được bào chế thành dạng viên. Bác sĩ có thể cho bạn uống tại nhà nhưng nếu không an tâm, bạn hoàn toàn có thể dùng thuốc tại bệnh viện dưới sự giám sát của bác sĩ hoặc nhân viên y tế.

Theo cơ chế hoạt động tự nhiên, tuyến giáp hấp thụ i ốt phóng xạ để tổng hợp hormone giáp. Sau khi uống i ốt phóng xạ, thuốc vào máu và tuyến giáp bắt lấy các i ốt này. Thay vì dùng để tổng hợp hormone giáp, phóng xạ từ i ốt sẽ dần hủy hoại tuyến giáp làm nó mất hẳn khả năng sản xuất hormone giáp. Từ đó, người bệnh sẽ hết bị cường giáp.

Thuốc có tác dụng sau khi uống khoảng 6 tháng. Trong thời gian chờ đợi thuốc phát huy công dụng, người bệnh phải dùng thêm thuốc chẹn beta để giảm nhẹ các triệu chứng cường giáp.

Khoảng 90% bệnh nhân chỉ cần uống 1 liều i ốt phóng xạ duy nhất là khỏi bệnh. Số còn lại cần uống thêm liều thứ 2. Nếu sau 2 liều thuốc bệnh nhân vẫn còn bị cường giáp thì bác sĩ sẽ cân nhắc phương án phẫu thuật để điều trị bệnh dứt điểm.

Tác dụng phụ của i ốt phóng xạ

Sau khi uống thuốc, người bệnh thường bị các vấn đề sau:

  • Miệng luôn cảm thấy vị kim loại. Việc này kéo dài trong vài tuần, bạn có thể thêm đường vào thức ăn để có cảm giác ngon miệng hơn.
  • Buồn nôn, nôn: phản ứng này sẽ hết sau 1-2 ngày dùng thuốc.
  • Viêm tuyến nước bọt: bệnh nhân sẽ bị sưng ở 1 hoặc cả 2 bệnh cằm trong vài tuần. Lúc này, người bệnh chỉ cần uống nước chanh pha ít đường để cảm thấy dễ chịu hơn.

I ốt phóng xạ hủy hoại tuyến giáp để chữa cường giáp nhưng cũng có nhiều khả năng dẫn đến bệnh suy giáp. Bệnh nhân suy giáp cần dùng thêm levothyroxine suốt đời để khỏe mạnh.

Lưu ý khi uống i ốt phóng xạ

  • Phụ nữ có thai, muốn có thai trong 6 tháng tới hoặc cho con bú không được uống i ốt phóng xạ.
  • Bạn nên ngủ một mình trong 5 đêm đầu tiên sau khi uống thuốc để chất phóng xạ từ hơi thở không làm ảnh hưởng đến người khác.
  • Tránh tiếp xúc với trẻ em trong vòng 1 tuần đầu sau khi dùng thuốc.
  • Uống nhiều nước và tránh ra khỏi nhà trong 3 ngày đầu sau dùng thuốc. Trong thời gian này, bạn cũng không được dùng chung dụng cụ cá nhân [bàn chải, khăn tắm…] với người khác. Giật bồn cầu 2 lần sau khi đi vệ sinh để nước làm sạch chất phóng xạ trong bồn cầu.
  • Rửa tay thường xuyên và vệ sinh cơ thể đều đặn mỗi ngày.

Thuốc giảm nhẹ triệu chứng cường giáp

Thuốc giảm nhẹ triệu chứng cường giáp còn được gọi là thuốc chẹn beta. Nó giúp bạn kiểm soát triệu chứng bệnh cho đến khi thuốc điều trị chính phát huy công dụng. Những triệu chứng đó thường là đánh trống ngực, nhịp tim nhanh, run rẩy và rất nhạy cảm với nhiệt độ bên ngoài.

Bác sĩ sẽ cho bạn dùng thuốc chẹn beta ngay sau khi có kết quả chẩn đoán mắc bệnh cường giáp. Ban đầu, bạn được dùng thuốc ở liều thấp nhất rồi tăng dần cho đến khi cơ thể kiểm soát được các triệu chứng cường giáp.

Các phản ứng phụ thường xuất hiện khi bạn mới dùng thuốc hoặc tăng liều. Trong khi dùng thuốc, nếu bạn thường xuyên thấy đau đầu, chóng mặt hoặc rối loạn tiêu hóa thì phải báo ngay với bác sĩ để tìm nguyên nhân. Nếu những biểu hiện đó xuất phát từ thuốc chẹn beta thì bạn sẽ được bác sĩ điều chỉnh liều dùng hoặc đổi loại thuốc khác phù hợp hơn.

Lưu ý khi dùng thuốc chẹn beta

Thuốc chẹn beta có thể không mang lại hiệu quả cho bệnh nhân lớn tuổi mắc bệnh cường giáp. Nếu bạn đang đồng thời điều trị các bệnh khác như hen suyễn, phổi tắc nghẽn mạn tính, huyết áp thấp, bệnh liên quan đến đường hô hấp thì phải thông báo cho bác sĩ trước khi dùng thuốc chẹn beta.

Đặc biệt với những người bị hen suyễn, thuốc chẹn beta có thể làm tăng mức độ trầm trọng của cơn hen hoặc làm tăng tần suất xảy ra cơn hen. Vì thế, có thể bác sĩ sẽ cân nhắc thật kỹ trước khi kê toa thuốc chẹn beta. Nếu cần thiết, bác sĩ sẽ thay thuốc bằng một phương án khác để giúp bệnh nhân vừa giảm nhẹ triệu chứng cường giáp, vừa không gây quá nhiều tác động xấu đến bệnh hen suyễn.

Người dùng thuốc chẹn beta nên hạn chế hoặc tuyệt đối không sử dụng nước ép bưởi để không làm ảnh hưởng đến cơ chế hoạt động của thuốc. Ngoài ra, chất chẹn beta trong thuốc cũng có thể khiến cơ thể bạn trở nên quá nhạy cảm với thời tiết, nhiệt độ môi trường. Vì thế, trong thời gian dùng thuốc, bạn cũng nên cố gắng bảo vệ sức khỏe cho da khỏi các vấn đề như phát ban, dị ứng, cháy nắng…

Cường giáp là bệnh khó điều trị và đòi hỏi thời gian chữa bệnh lâu dài. Tuy nhiên, nếu bạn tuân thủ nghiêm túc mọi hướng dẫn của bác sĩ ở bất kỳ phương pháp điều trị nào thì bệnh sẽ nhanh chóng có những chuyển biến tích cực.

Các bài viết của Hello Bacsi chỉ có tính chất tham khảo, không thay thế cho việc chẩn đoán hoặc điều trị y khoa.

Video liên quan

Chủ Đề