Các nguyên tắc xây dựng pháp luật ở Việt Nam

Nguyên tắc cơ bản của pháp luật là những tư tưởng chỉ đạo cơ bản, mang tính xuất phát điểm, định hướng, chịu sự quy định của những quy luật khách quan của xã hội, xuyên suốt nội dung, hình thức pháp luật, toàn bộ thực tiễn pháp luật, hoạt động xây dựng pháp luật, áp dụng pháp luật, hành vi pháp luật, ý thức pháp luật.

Những nội dung liên quan:

Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam

Mục lục:

– Nguyên tắc tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân

Nguyên tắc này bắt nguồn từ bản chất của nhà nước ta, được quán triệt trong ND pháp luật, trong thực hiện, áp dụng pháp luật và là nguyên tắc hiến định. Điều 2 Hiến pháp năm 2013 quy định:

  • Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
  • Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
  • Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.

Nguyên tắc tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân đòi hỏi ND của pháp luật cũng như hoạt động tổ chức thực hiện, áp dụng pháp luật phải thể hiện tính toàn quyền của nhân dân, quán triệt tư tưởng nhân dân là chủ thể cao nhất của quyền lực

Những năm gần đây, nhân dân ta đã tham gia vào việc góp ý xây dựng các văn bản pháp luật, kiểm tra giám sát các hoạt động của Nhà nước và xã hội, đặc biệt là hoạt động tư pháp.

– Nguyên tắc dân chủ xã hội chủ nghĩa

Thể hiện ở việc ghi nhận các quyền tự do, dân chủ của công dân, quy định những hình thức pháp lí để đảm bảo sự tham gia của nhân dân vào quản lí nhà nước, quản lí xã hội. Dân chủ được thể hiện ở các quyền và nghĩa vụ pháp lí của cá nhân, tổ chức và phải thông qua sự ghi nhận của pháp luật, bảo đảm thực hiện bằng Nhà nước và xã hội dưới những hình thức phù hợp. Pháp luật quy định những hình thức thực hiện dân chủ: trực tiếp và gián tiếp [đại diện], nội dung và cách thức thực hiện, cơ chế thực hiện các hình thức đó. Xét trên quy mô toàn xã hội cũng như trong các cộng đồng dân cư, dân chủ chỉ đảm bảo thực hiện tốt nhất khi thực hiện đổi mới mạnh mẽ hệ thống chính trị, đặc biệt là cơ sở.

Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật về quy chế dân chủ cơ sở, tiêu biểu như Nghị định số 29/CP ngày 11-5-1998 về việc ban hành quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn [gọi chung là quy chế dân chủ ở cơ sở]

– Nguyên tắc nhân đạo

Nguyên tắc này  xuất phát từ sự tôn trọng, quan tâm và bảo vệ con người – giá trị cao quý nhất. Nhân tố con người, hệ thống các quyền và tự do của họ phải được luật định, có cơ chế hữu hiệu đảm bảo TH trên nguyên tắc thống nhất quyền và nghĩa vụ, tự do và trách nhiệm, phát huy tính tích cực, tự do sáng tạo của con người. Nguyên tắc nhân đạo thể hiện các biện pháp xử lí đối với người vi phạm pháp luật không nhằm mục đích xúc phạm thể xác và danh dự, nhân phẩm. Nhân đạo còn thể hiện trong hệ thống các quy định theo  hướng có lợi nhất cho con người trong khuôn khổ hợp pháp và hợp đạo đức.

Trong bộ luật Hình sự năm 2015 [sửa đổi, bổ sung năm 2017] đã TH xu hướng giảm các bện pháp xử lí hình sự vừa đảm bảo nghiêm minh vừa có tính giáo dục mở đường cho người phạm tội hoàn lương.

– Nguyên tắc thống nhất giữa quyền và nghĩa vụ pháp lý

Nguyên tắc thống nhất giữa quyền và nghĩa vụ được thể hiện : các chủ thể pháp luật  vừa có các quyền vừa có các nghĩa vụ pháp lí tương ứng  Điều 15  Hiến pháp 2013 khẳng định

  1. Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân.
  2. Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác.
  3. Công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội.
  4. Việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.

Nguyên tắc này cũng thể hiện rõ nét mới quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân trong điều kiện Nhà nước pháp quyền. Giữa nhà nước và cá nhân có mối quan hệ bình đẳng, đồng trách nhiệm.

– Nguyên tắc công bằng

Ghi nhận, bảo vệ và bảo đảm thực hiện công bằng pháp luật là một trong những giá trị xã hội to lớn của pháp luật, đặc biệt  là trong Nhà nước pháp quyền

Nguyên tắc công bằng của xã hội thể hiện trên nhiều phương diện, tiêu biểu như :việc quy định và áp dụng các biện pháp xử lí phải phù hợp với tính chất, mức độ của hành vi vi phạm pháp luật, quy định mức độ hưởng thụ tương xứng với sự đóng góp, cống hiến,….Trong từng lĩnh vực quan hệ xã hội, công bằng lại có những  đ điểm riêng, như công bằng trong  việc hưởng thụ các giá trị VHNT, CS lao động, việc làm, y tế và giáo dục,…

– Nguyên tắc: “được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm” đối với nhân dân và nguyên tắc “Chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép” đối với nhà nước

Đây là hai nguyên tắc phổ biến của pháp luật đang được quan tâm đặc biệt trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền, phát triển kinh tế thị trường, dân chủ hóa.

  • Nguyên tắc thứ nhất được áp dụng đối với các cá nhân.
  • Nguyên tắc thứ hai được áp dụng cho các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trong một số lĩnh vực nhất định. Các cơ quan Nhà nước chỉ được hoạt động trong phạm vi chức năng, thẩm quyền của mình đã được pháp luật quy định.

Các tìm kiếm liên quan đến các nguyên tắc cơ bản của pháp luật việt nam, các nguyên tắc cơ bản của pháp chế xhcn, nguyên tắc pháp luật là gì, các nguyên tắc cơ bản của tư pháp quốc tế, ý nghĩa của các nguyên tắc cơ bản của luật dân sự, nguyên tắc công bằng trong pháp luật việt nam, bảo lưu trật tự công cộng trong tư pháp quốc tế của việt nam, nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự được quy định trong bộ luật dân sự năm 2015, nguyên tắc của pháp luật, Nguyên tắc chung của pháp luật trong nhà nước pháp quyền, Nguyên tắc cơ bản của pháp luật về hợp đồng

Phân tích các nguyên tắc cơ bản của hoạt động xây dựng pháp luật. Liên hệ thực tế với Việt Nam.

1 – Xây dựng pháp luật là gì? [theo nghĩa hẹp]

Theo nghĩa hẹp: Xây dựng pháp luật là quá trình hoạt động của các cơ quan nhà nước hoặc nhà chức trách có thẩm quyền theo trình tự và thủ tục do pháp luật quy định nhằm ban hành các quy phạm pháp luật để điều chỉnh quan hệ xã hội theo mục đích của nhà nước.

Theo nghĩa này, xây dựng pháp luật có đặc điểm sau:

– Xây dựng pháp luật là hoạt động được tiến hành bởi các cơ quan nhà nước hoặc nhà chức trách có thẩm quyền ban hành pháp luật theo quy định của pháp luật. Pháp luật của các nước thường qưy định cụ thể các chủ thể có thẩm quyền sáng tạo ra pháp luật.

– Hoạt động xây dựng pháp luật được tiến hành theo những trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Do đó, xây dựng pháp luật là hoạt động mang tính tổ chức rất chặt chẽ, được diễn ra theo quy trình nhất định với những bước cơ bản sau:

Thứ nhất, làm sáng tỏ những nhu cầu về sự cần thiết phải xây dựng hoặc sửa đổi pháp luật, loại văn bản cần xây dựng [luật, pháp lệnh, nghị định hay án lệ…], xác định đối tượng áp dụng, phạm vi áp dụng và phương pháp điều chỉnh pháp luật đối với quan hệ xã hội đó;

Thứ hai, công nghệ sáng tạo ra quy phạm pháp luật: Xác định những nội dung cơ bản, nội dung của từng chương, mục, điều, khoản, điểm cụ thể của văn bản.

Nhìn chung, các nhà nước thường có những quy định rất chặt chẽ về thẩm quyền, tên gọi, nội dung, nguyên tắc và trình tự, thủ tục ban hành đối với mỗi loại hình thức [nguồn] pháp luật nhất định trong Hiến pháp hoặc luật hoặc văn bản dưới luật…

– Kết quả của hoạt động xây dựng pháp luật là làm hình thành nên các quy định pháp luật mới để bổ sung vào hệ thống quy phạm pháp luật hiện hành hoặc sửa đổi, loại bỏ những quy định pháp luật đã lỗi thời, không còn phù hợp với tình hình kinh tế, chính trị, xã hội hiện tại, không đáp ứng được nhu cầu phát triển của đất nước. Do vậy, xây dựng pháp luật là hoạt động mang tính sáng tạo, là một quá trình sáng tạo ra các quy định pháp luật.

Việc tạo ra các quy phạm pháp luật có thể tiến hành thông qua hoạt động xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, thông qua việc thừa nhận các quy tắc đạo đức, phong tục, tập quán… hoặc qua việc đưa ra các án lệ được thừa nhận.

2 – Thế nào là nguyên tắc xây dựng pháp luật?

Nguyên tắc xây dựng pháp luật là những tư tưởng chỉ đạo, là cơ sở cho toàn bộ quá trình xây dựng pháp luật, đòi hỏi tất cả các chủ thể tham gia vào quá trình này phải nghiêm chỉnh tuân theo.

3 – Các nguyên tắc xây dựng pháp luật

a – Nguyên tắc tuân theo Hiến pháp và pháp luật trong xây dựng pháp luật [nguyên tắc pháp chế]

Nguyên tắc này thể hiện ở các nội dung sau:

Một là, trong quá trình xây dựng pháp luật, các cơ quan nhà nước và các nhà chức trách có thẩm quyền phải tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật về thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục. Chẳng hạn, trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của nước ta đã quy định cụ thể trình tự, thủ tục ban hành từng loại văn bản quy phạm pháp luật như luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội, nghị định của Chính phủ… Hoặc trong Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã quy định cụ thể về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ ở nước ta.

Hai là, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của các quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật, đặc biệt là phải tôn trọng tính tối cao của hiến pháp và luật.

Ví dụ: ở nước ta, nguyên tắc này đòi hỏi các chủ thể có thẩm quyền khi xây dựng và ban hành pháp luật phải bảo đảm cho các quy định trong văn bản luật phải phù hợp với Hiến pháp và không mâu thuẫn với nhau, quy định trong văn bản dưới luật phải phù hợp với quy định trong văn bản luật, quy định trong văn bản của cấp dưới phải phù hợp với văn bản của cấp trên và văn bản của địa phương phải phù hợp với văn bản của trung ương.

b – Nguyên tắc tôn trọng quy luật khách quan trong xây dựng pháp luật, bảo đảm tính phù hợp và khả thi của pháp luật

Pháp luật là hiện tượng có tính khách quan, pháp luật sinh ra do nhu cầu đòi hỏi của xã hội, phải phản ánh đúng nhu cầu khách quan của xã hội, xuất phát từ thực tế cuộc sống, phù hợp với thực tế cuộc sống.

Nhà làm luật không phát minh ra luật, mà chỉ ghi nhận các quy luật phát triển của xã hội bằng quy phạm pháp luật, pháp luật luôn là sự nhận thức chủ quan của con người đối với thế giới khách quan, con người nhận thức tồn tại xã hội sau đó đưa ra các quy tắc cho hành vi của mình. Do vậy, nội dung của pháp luật phải phù hợp với các điều kiện hiện hữu của đất nước như điềư kiện kinh tế – xã hội, phong tục tập quán, nền đạo đức chính thống, truyền thống, đặc điểm tâm lý dân tộc, trình độ dân trí, trình độ phát triển của nền dân chủ… Có như vậy, pháp luật mới có tính khả thi, mới được thực hiện trong thực tế, nếu không thì pháp luật chỉ tồn tại trên giấy.

Trong quá trình xây dựng pháp luật ở Việt Nam, nguyên tắc này luôn được quán triệt song mức độ đáp ứng yêu cầu này chưa cao vì trong hệ thống pháp luật vẫn còn một số quy định thiếu tính khả thi.

c – Nguyên tắc bảo đảm tính hệ thống, tính khoa học, kịp thời, tính minh bạch của các quy định pháp luật được xây dựng

Các quy định pháp luật được xây dựng cần phải chặt chẽ, hoàn chỉnh, đầy đủ, chính xác, dựa trên cơ sở những thành tựu khoa học mới nhất, nhưng không mâu thuẫn, trùng lặp, chồng chéo và loại bỏ lẫn nhau. Việc ban hành pháp luật phải kịp thời, đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi của cuộc sống, tránh tình trạng thiếu pháp luật hoặc pháp luật có lỗ hổng.

Kế hoạch xây dựng pháp luật cần chặt chẽ và có tính khả thi, các hình thức thu thập, xử lý thông tin, tiếp thu ý kiến góp ý trong quá trình xây dựng pháp luật phải bảo đảm tính khách quan, khoa học… Trong mỗi văn bản quy phạm pháp luật, bố cục, cấu trúc, cách thức trình bày các quy phạm pháp luật… phải mang tính khoa học; các quy phạm pháp luật cần được sắp xếp một cách logic, hợp lý. Các quy định của pháp luật phải rõ ràng, dễ hiểu, phải được hiểu một cách nhất quán và phải được công bố công khai, về cơ bản, pháp luật nước ta rõ ràng, dễ hiểu, song đôi khi vẫn còn có quy định dẫn đến những cách hiểu khác nhau.

Ở Việt Nam, mặc dù các chủ thể có thẩm quyền xây dựng pháp luật luôn cố gắng bảo đảm nguyên tắc này song tình trạng thiếu pháp luật trong một số lĩnh vực vẫn còn, tính khoa học chưa thực sự được đảm bảo nên có luật chưa có hiệu lực đã phải sửa đổi, bổ sung như Luật Bảo hiểm xã hội, có luật phải lùi thời điểm có hiệu lực thi hành như Bộ luật hình sự năm 2015…

d – Nguyên tắc dân chủ, công khai trong xây dựng pháp luật

Nguyên tắc này đòi hỏi Hiến pháp, luật phải được ban hành bằng con đường trưng cầu ý dân hoặc bởi cơ quan đại diện do nhân dân bầu ra. Các dự án luật, các luật đã được ban hành cần phải được thông tin đầy đủ, rộng rãi đến nhân dân, nhất là đối với các đối tượng áp dụng của luật. Việc xây dựng pháp luật cần có sự tham gia đông đảo của các tầng lớp nhân dân nhằm làm cho pháp luật thể hiện được ý chí, nguyện vọng của nhân dân.

Đây là nguyên tắc vừa góp phần phát huy được trí tuệ của đông đảo các tầng lớp nhân dân trong xã hội vào hoạt động xây dựng pháp luật, vừa giúp nhân dân hiếu được các quy định của pháp luật, qua đó góp phần nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân và nâng cao hiệu quả của pháp luật. .

Ở Việt Nam, mặc dù chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào được thông qua theo thủ tục trưng cầu ý dân, song trong quá trình xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật quan trọng như Hiến pháp, Bộ luật dân sự… Nhà nước luôn luôn lấy ý kiến, thu thập và tham khảo ý kiến của nhân dân và các chủ thể có liên quan.

đ – Nguyên tắc chuyên nghiệp và hài hòa hóa trong xây dựng pháp luật

Nguyên tắc chuyên nghiệp trong xây dựng pháp luật đòi hỏi quá trình chuẩn bị dự thảo các dự án luật phải có sự tham gia của các luật gia, các nhà kinh tế, các nhà xã hội, các chuyên gia giỏi trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Những chuyên gia nói trên phải là những người có sự hiểu biết sâu sắc nhất về các khía cạnh chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… liên quan đến nội dung dự án luật và có khả năng biểu đạt chúng bằng kỹ thuật pháp lý tiên tiến. Trong quá trình soạn thảo dự án luật cần có sự tham vấn ý kiến nhân dân và các chuyên gia trong và ngoài nước…

Nguyên tắc hài hòa hóa trong xây dựng pháp luật đòi hỏi các quy định pháp luật được xây dựng phải bảo đảm sự hài hoà về lợi ích giữa các lực lượng xã hội;… phù hợp với các điều ước quốc tế mà quốc gia đã ký kết hoặc tham gia, với pháp luật của các quốc gia có quan hệ hợp tác với quốc gia mình.

Đây là nguyên tắc khá được chú trọng trong quá trình xây dựng pháp luật ở nước ta thời gian gần đây, với sự giúp đỡ của các chuyên gia nước ngoài và sự phát triển của trình độ nhận thức, của khoa học kỹ thuật mà trình độ và kỹ thuật xây dựng pháp luật ở nước ta không ngừng được nâng cao, tính chất chuyên nghiệp trong hoạt động xây dựng pháp luật được chú trọng. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của lợi ích nhóm chi phối mà sự hài hòa hóa về lợi ích giữa các lực lượng xã hội chưa thật sự được bảo đảm.

Video liên quan

Chủ Đề