Bài học rút ra từ truyện Tam đại con gà

Đề bài: Em hãy Phân tích truyện Tam đại con gà để thấy được tiếng cười hài hước và bài học sâu sắc mà ông cha ta gửi gắm qua câu chuyện.

Phân tích truyện Tam đại con gà để thấy được tiếng cười trào phúng và bài học sâu sắc trong câu chuyện
 

Bài làm:

Truyện cười là thể loại văn học dân gian kể về những hiện tượng đáng cười trong cuộc sống nhằm tạo ra tiếng cười mua vui [truyện khôi hài] hoặc phê phán những thói hư, tật xấu trong xã hội [truyện trào phúng]. "Tam đại con gà" là truyện cười thuộc thể loại truyện trào phúng, mượn tiếng cười để phê phán thầy đồ dốt nhưng lại hay khoe khoang hơm hĩnh. Tiếng cười tự bộc lộ qua lời nói của nhân vật thầy đồ, do đó lại càng hợm hĩnh và sâu cay.

Mở đầu truyện, tác giả dân gian giới thiệu nhân vật thầy đồ học hành dốt nát nhưng lại "xấu hay làm tốt, dốt hay nói chữ". Mâu thuẫn trái tự nhiên giữa dốt - giấu dốt được khắc họa qua các tình huống xuyên suốt câu chuyện, nhân vật càng gắng sức che đậy thì bản chất lại càng bộc lộ rõ nét. Trước tiên, đó là tình huống thầy đồ dốt đến một chữ tối thiểu trong sách cũng không biết. Khi gặp chữ "kê", thầy không biết là chữ gì mà học trò lại hỏi gấp, thầy đã giải quyết bằng cách nói liều: "Dủ dỉ là con dù dì". Không chỉ xử lí bằng cách che đậy dặn học trò đọc khẽ, thầy còn không tra lại sách vở để có căn cứ xác đáng mà lại tin vào may rủi bằng cách gieo đồng tiền sấp ngửa. Khi được thần đồng ý, đắc chí vì thấy mình đúng, thầy đồ tự cho mình giỏi và cho học trò đọc to câu nói trên. Các hành động mê tín, thận trọng giữ sĩ diện hão của thầy đồ cho thấy sự dốt nát của một kẻ ngay cả đến chữ tối thiểu cũng không biết.

Thế nhưng, mâu thuẫn giữa dốt - giấu dốt được đẩy lên cao trào hơn bao giờ hết và bật thành tiếng cười trào phúng lại được thể hiện qua tình huống người cha của học trò chất vấn thầy đồ. Khi được hỏi "Chữ "kê" là gà, tại sao thầy lại dạy thành "dủ dỉ là con dù dì", thầy đồ đã tự nhận thức được sự dốt nát của bản thân và ông thủ công: "mình đã dốt, thổ công nhà nó cũng dốt nữa". Ấy vậy mà, thầy lại phản ứng bằng cách lí sự cùn, vòng vo: "Tôi dạy thế là dạy cho cháu biết đến tam đại con gà kia". Đặc biệt, tiếng cười bật lên một cách giòn giã ở cuối truyện đã lật tẩy bản chất dốt nát của thầy đồ: "Dủ dỉ là con dù dì, dù dì là chị con công, con công là ông con gà". Câu nói vừa phi logic vừa vô nghĩa ấy là lời chống chế yếu ớt không thể che đậy được khả năng dốt nát nhưng vẫn thích khoe mẽ văn hay chữ tốt của nhân vật. Từ đầu đến cuối, thầy đồ càng cố gắng giấu dốt bao nhiêu thì lại càng tự bóc trần sự ngu dốt của mình bấy nhiêu.

Qua việc xây dựng mâu thuẫn trong các tình huống kịch tính, cách giải quyết mâu thuẫn bất ngờ, truyện cười "Tam đại con gà" đã phê phán thói giấu dốt, đặc biệt là những người đã giấu dốt lại còn cố tỏ ra khoe khoang, hợm hĩnh. Đó là tật xấu vẫn còn tồn tại trong nhân dân. Qua đó, tác giả dân gian gửi gắm lời khuyên tới tất cả mọi người, không nên giấu dốt mà phải không ngừng học hỏi, nên dựa vào nguồn tri thức trong sách vở và thực tiễn đời sống để hoàn thiện bản thân chứ không nên tin vào những điều mê tín, không có cơ sở. Đó là bài học đắt giá không chỉ trong quá khứ mà ngay cả trong thời hiện đại, tư tưởng ấy vẫn mang tính chất thời sự vĩnh hằng.

---------------HẾT-------------------

Tìm hiểu về tiếng cười trào phúng cũng như bài học được gửi gắm qua câu chuyện về thầy đồ dốt nát, thiếu hiểu biết nhưng vẫn đi dạy học trò, bên cạnh bài Phân tích truyện Tam đại con gà trên đây, các em có thể tìm hiểu thêm những bài tham khảo đặc sắc khác như: Phân tích tiếng cười trong truyện Tam đại con gà, Tóm tắt truyện Tam đại con gà, Nghệ thuật gây cười trong truyện Tam đại con gà, Sơ đồ tư duy Tam đại con gà.

Đằng sau tiếng cười hài hước, mỗi câu chuyện cười đều hướng đến phản ánh một hiện tượng, vấn đề của xã hội và gửi gắm những bài học ý nghĩa. Trong bài học ngày hôm nay, các em hãy cùng chúng tôi phân tích truyện Tam đại con gà để tìm hiểu về một câu chuyện cười nổi tiếng đồng thời khám phá ý nghĩa, bài học được gửi gắm sau tiếng cười.

Dàn ý phân tích tiếng cười trong truyện Tam đại con gà Nghệ thuật gây cười trong truyện Tam đại con gà Khái quát đặc sắc về nội dung và nghệ thuật truyện Tam đại con gà Dàn ý nghệ thuật gây cười trong truyện Tam đại con gà Tóm tắt truyện Tam đại con gà Soạn bài Tam đại con gà

Câu 2: [Trang 79 - SGK Ngữ văn 10] Hãy chỉ ra ý nghĩa phê phán của truyện [Có phải chỉ phê phán một đối tượng cụ thể là anh học trò dốt không?]


  • Qua hình ảnh thầy đồ trong truyện Tam đại con gà, Câu chuyện không phải chỉ phê phán một đối tượng cụ thể là anh học trò dốt mà thông qua đó, nó phê phán tật xấu – giấu dốt – có trong một bộ phận nhân dân. Câu chuyện còn ngầm ý khuyên răn mọi người – nhất là những người đi học – chớ nên giấu dốt vì giấu dốt thì sẽ chẳng bao giờ tiến bộ được, hãy mạnh dạn học hỏi, bổ sung những kiến thức mình còn thiếu.
  • Tuy nhiên cái cười trong truyện ngắn này chủ yếu vẫn mang tính chất giải trí - cười sự ngây ngô và liều lĩnh của thầy đồ, chứ chưa tới mức cười nhằm đả kích và triệt tiêu đối tượng.


Trắc nghiệm ngữ văn 10: bài Tam đại con gà

Từ khóa tìm kiếm Google: soạn văn câu 2 Tam đại con gà, soạn bài câu 2 Tam đại con gà, gợi ý soạn bài câu 2 Tam đại con gà, soạn văn chi tiết câu câu 2 Tam đại con gà

Trang web này phụ thuộc vào doanh thu từ số lần hiển thị quảng cáo để tồn tại. Vui lòng tắt trình chặn quảng cáo của bạn hoặc tạm dừng tính năng chặn quảng cáo cho trang web này.

Tổng hợp các dạng đề văn lớp 10 xoay quanh các tác phẩm đầy đủ các dạng đề đọc hiểu, đề văn phân tích, cảm nhận, nghị luận, ... với hướng dẫn chi tiết giúp học sinh ôn tập đạt điểm cao trong các bài thi môn Ngữ văn lớp 10.

1. Dạng đề đọc – hiểu văn bản [3-4 điểm]

Câu 1: Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi phía dưới:

Tam đại con gà

Xưa, có anh học trò học hành dốt nát, nhưng trò đời “Xấu hay làm tốt, dốt hay chơi chữ”, đi đâu cũng lên mặt văn hay chữ tốt.

Có người tưởng anh ta hay chữ thật, mới đón về dạy trẻ.

Một hôm, dạy sách Tam thiên tự, sau chữ “tước” là chim sẻ, đến chữ “kê” là gà, thầy thấy mặt chữ nhiều nét rắc rối, không biết chữ gì, học trò lại hỏi gấp, thầy cuống, nói liều: “Dủ dỉ là con dù dì“. Thầy cũng không, sợ nhỡ sai, người nào biết thì xấu hổ, mới bảo học trò đọc khẽ, tuy vậy, trong lòng thầy vẫn thấp thỏm.

Nhân trong nhà có bàn thờ thổ công, thầy mới đến khấn thầm xin ba đài âm dương để xem chữ ấy có phải thật là “dù dì” không. Thổ công cho ba đài được cả ba.

Thấy vậy, thấy lấy làm sắc chí lắm, hôm sau bệ vệ ngồi trên giường, bảo trẻ đọc cho to. Trò vâng lời thầy, gân cổ lên gào:

– Dủ dỉ là con dù dì! Dủ dỉ là con dù dì…

Bố chúng đang cuốc đất ngoài vườn, nghe tiếng học, ngạc nhiên bỏ cuốc chạy vào, giở sách ra xem, hỏi thầy:

– Chết chửa! Chữ “kê” là gà, sao thầy lại dạy ra “dủ dỉ” là con “dù dì”?

Bấy giờ thầy mới nghĩ thầm: “Mình đã dốt, thổ công nhà nó cũng dốt nữa”, nhưng nhanh trí thầy vội nói gở:

– Tôi vẫn biết chữ ấy là chữ “kê” mà “kê” nghĩa là “gà” nhưng tôi dạy cháu thế là dạy cho cháu nó biết tận tam đại con gà kia.

Chủ nhà càng không hiểu, hỏi:

– Tam đại con gà là nghĩa ra làm sao?

– Thế này nhé! Dủ dỉ là con dù dì, dù dì là chị con công, con công là ông con gà!

SGK Ngữ văn 10,Trang 78-79,Tập I, NXBGD 2006]

a Xác định các tình huống gây cười trong văn bản ? Các tình huống đó được bố trí như thế nào ?

* Gợi ý trả lời

Các tình huống gây cười trong văn bản :

-Tình huống nhầm lẫn: ông bố tưởng anh học dốt ưa khoác lác kia là thầy đồ chính hiệu ;

-Tình huống dốt nát: thầy đồ không đọc được chữ [ dù là chữ đơn giản nhất]

-Tình huống mê tín dị đoan: bói chữ và tin vào quẻ bói ;

-Tình huống bị bóc mẽ: ông bố chỉ ra chỗ thầy sai ;

-Tình huống ngụy biện: giải thích rằng thầy dạy Tam đại con gà ;

Các tình huống đó được bố trí theo lối tăng cấp. Đỉnh điểm của sự tăng cấp ấy là lời nguỵ biện về ông tổ ba đời của con gà là …một loài vật không có trong thực tế.

b/ Thầy đồ trong văn bản đáng bị cười ở những điểm nào?

* Gợi ý trả lời

-Xuất thân là một học trò dốt nhưng hay nói chữ, làm ra vẻ ta đây uyên bác. Đó là thái độ không trung thực.

-Không chịu học hỏi lại đi tin vào thổ công nhà chủ: bị cười ở tội mê tín.

-Đã dốt không chịu nhận mà lại biến báo quanh co: bị cười ở cách bịa đặt láo toét

Câu 2: Viết đoạn văn ngắn [ 5 đến 7 dòng] bày tỏ suy nghĩ về bài học rút ra từ câu chuyện.

* Gợi ý trả lời

Đoạn văn đảm bảo các yêu cầu :

-Hình thức: đảm bảo về số câu, không được gạch đầu dòng, không mắc lỗi chính tả, ngữ pháp. Hành văn trong sáng, cảm xúc chân thành ;

-Nội dung : thí sinh hiểu được tiếng cười trào phúng từ câu chuyện, qua đó rút ra bài học cho bản thân, đó là phải luôn học hỏi, không nên che dấu cái dốt của mình, không nên sĩ diện hão.

Câu 3: Trong hai con dủ dỉ và dù dì, con nào là con bịa?Lập luận về Tam đại con gà ở cuối truyện có gì đáng cười ?

* Gợi ý trả lời

Trong hai con dủ dỉ và dù dì, con dủ dỉ  là con bịa ;

Lập luận về Tam đại con gà ở cuối truyện đáng cười ở chỗ :

-Tam đại con gà bao gồm : dù dì[cụ hoặc cố]-dủ dỉ và công [ chị em với nhau, giữ vị trí ông]–con gà ;

– Anh thầy đồ rởm, láu cá, lập luận vòng vo ;

-Tuy có nhanh trí nhưng rốt cuộc vẫn lộ vẻ dốt nát, hổng kiến thức, bởi theo lập luận đó thì con gà không có bố mẹ mà chỉ có cụ và ông thôi.

Câu 4: Viết đoạn văn ngắn [ 5 đến 7 dòng] bày tỏ suy nghĩ về ý nghĩa tiếng cười từ văn bản.

* Gợi ý trả lời

Đoạn văn đảm bảo các yêu cầu :

-Hình thức: đảm bảo về số câu, không được gạch đầu dòng, không mắc lỗi chính tả, ngữ pháp. Hành văn trong sáng, cảm xúc chân thành ;

-Nội dung : Tiếng cười mang ý nghĩa phê phán, hóm hỉnh, sâu sắc và mang đậm chất dân gian. Truyện cười có nói về chữ nghĩa nhưng không lỉnh kỉnh chữ nghĩa. Truyện có ý nghĩa đánh giá các hạng thầy trong xã hội phong kiến suy tàn, trong đó có thầy đồ dạy chữ. Mặt khác, truyện không chỉ phê phán các ông đồ phong kiến năm xưa mà còn nhắc nhở cảnh tỉnh những kẻ hôm nay cũng mắc bệnh ấy

2.Dạng bài viết bài văn [4-6 điểm]

Đề 1: Phân tích tiếng cười trong truyện Tam đại con gà

* Gợi ý trả lời

1. Mở bài

- Giới thiệu khái quát về thể loại truyện cười: Là sản phẩm của khối óc hài hước và là vũ khí đấu tranh hữu dụng của nhân dân ta.

- Giới thiệu về truyện Tam đại con gà: Là truyện cười trào phúng, dùng tiếng cười để phê phán bản chất dốt nát nhưng lại thích khoe chữ của thầy đồ.

2.Thân bài

2.1. Cách giới thiệu nhân vật

- Một anh chàng dốt nát nhưng đi đâu cũng lên mặt văn hay chữ tốt

- Có người tưởng anh ta hay chữ mời về làm thầy.

→ Mâu thuẫn trái tự nhiên, dốt nát, khoe khoang nhưng được làm thầy. Tiếng cười bật ra.

2.2  Hành động gây cười.

- Đi dạy học, thấy mặt chữ nhiều nét, không biết chữ gì, lại bị học trò hỏi gấp, thầy cuống nói liều.

- Bảo học trò đọc khẽ vì sợ sai, thận trọng để giấu dốt

- Khấn đài âm dương để thổ công giúp đỡ.

- Nhận được cả ba đài của thổ công, thầy đắc chí bệ vệ ngồi trên giường bảo học trò gân cổ đọc to

→ Tiếng cười bật ra từ sự ngu dốt lại mê tín của thầy. Thầy coi chuyện dạy học như một cuộc đánh bạc cầu may. Thầy còn tự đắc chí, khoe khoang về những hành động ngốc nghếch của mình.

→ Phê phán sự ngu dốt nhưng lại giấu dốt của thầy đồ.

2.3. Lời nói gây cười.

- Thầy giảng về chữ “kê” – đây là kiến thức rất cơ bản của người học chữ Nho. Nhưng thầy đồ lại giảng chữ “kê” nghĩa là “dủ dỉ là con dù dì”: tối nghĩa, vô nghĩa.

→ Lời giải thích của thầy đem lại tiếng cười cho người đọc. Thầy là một kẻ dốt nát nhưng lại biết che đậy cái dốt ấy.

- Khi bị người nhà học trò phát hiện lại thầm nghĩ “mình đã dốt, thổ công nhà nó còn dốt hơn mình”

→ Lời tự nhủ vô cùng hài hước, biết mình sai, ngu dốt nhưng không chịu thừa nhận.

- Lời ngụy biện của thầy: Dạy cho cháu biết đến tận tam đại con gà, “Dù dì là chị con công, con công là ông con gà”. Lấy ý từ bài đồng dao “lúa ngô là cô đậu nành, đậu nành là anh dưa chuột, dưa chuột là ruột dưa gang, dưa gang là nàng dưa hấu” để gỡ bí, lí sự cùn.

→ Tiếng cười cất lên từ lời giải thích vô căn cứ, láu cá của thầy

→ Qua đó cho thấy sự xảo biện, ma lanh ngoan cố, láu của ông thầy đồ.

 Tiếng cười cất lên từ hành động và lời nói của thầy đồ có sự tăng tiến bởi mức độ phi lí của lời nói và hành động của nhân vật ngày càng cao.

 Thầy đồ bộc lộ bản chất của một kẻ ngu dốt, sĩ diện, huênh hoang, láu cá.

2.4. Ý nghĩa của tiếng cười.

- Phê phán những kẻ ngu dốt nhưng lại thích khoe khoang.

- Phê phán hiện thực xã hội: Kẻ dốt làm thầy

- Khuyên mọi người không nên giấu dốt mà hãy mạnh dạn học hỏi

2.5. Nghệ thuật

- Dùng ngôn ngữ và hành động của nhân vật để tạo tiếng cười

- Xây dựng các mâu thuẫn trong những tình huống truyện

- Cách kể chuyện tự nhiên, vào bài và kết thúc đều tạo ấn tượng bất ngờ

- Ngôn ngữ giản dị, có cả vần nhịp trong lời nói của nhân vật

3. Kết bài

- Khái quát lại nội dung và nghệ thuật xây dựng những tiếng cười trong câu chuyện tam đại con gà.

- Thể hiện suy nghĩ của bản thân về những tiếng cười ấy: Tiếng cười trong truyện vừa đem lại những cảm giác sảng khoái, vừa là những bài học để mỗi người phải tự ngẫm lại, tự suy nghĩ.

Đề 2: Phân tích truyện Tam đại con gà

* Gợi ý trả lời

1. Mở bài

- Giới thiệu về thể loại truyện cười: Là thể loại tự sự dân gian thông qua tiếng cười để đả kích, phê phán

- Giới thiệu khái quát về truyện cười Tam đại con gà: Là truyện cười trào phúng đặc sắc, phê phán sự dốt nát và thói bảo thủ che che đậy sự dốt nát của một ông thầy và cũng là của một bộ phận nhân dân bằng tiếng cười sâu cay.

2. Thân bài

2.1. Tình huống truyện

- Anh học trò dốt nát nhưng lại hay khoe khoang lên mặt văn hay chữ tốt, có người mời anh ta về dạy học

→ Sự xuất hiện của nhân vật đã gây ra tiếng cười bằng cách tạo ra những mâu thuẫn: Dốt mát – hay khoe khoang, dốt nát, hay khoe khoang – được là thầy.

- Anh ta bị đẩy vào hai tình huống éo le:

+ Đi dạy học trò nhưng không biết mặt chữ vì có nhiều nét rắc rối, lại bị học trò hỏi gấp, cuống quá phải nói liều.

+ Bị người nhà phát hiện giảng sai, thầy phải bao biện, giấu dốt.

→ Thầy đồ dốt nát, đến chữ vỡ lòng còn không biết. Không những thế còn giấu dốt và lừa gạt người.

2.2 Giải quyết tình huống

- Giải quyết tình huống 1:

+ Thầy nhắm mắt nói liều, sợ sai nên bảo học trò đọc khẽ, trong lòng vẫn thấp thỏm.

→ Thầy đồ dốt nát nhưng lại biết cách che đậy sự dốt nát ấy.

→ Cách nói mỉa mai “thầy cũng khôn” là sự châm biếm của dân gian về sự khôn lỏi của kẻ dốt.

+ Khấn thổ công, xin đài âm dương xem chữ đó có đúng không. Được đài, thầy đắc chí ngồi bệ vệ trên giường bảo học trò đọc to.

→ Thầy đã dốt còn mê tín, huênh hoang, tự đắc. Tiếng cười được mở rộng, cái dốt của thầy càng lộ rõ.

- Giải quyết tình huống 2:

+ Người lật tẩy cái sai của thầy là chủ nhà, một người nông dân vô học.

+ Thầy thầm nghĩ “ mình đã dốt, thổ công nhà nó còn dốt hơn mình”

→ Thầy đồ ý thức được cái dốt của mình nhưng lại bảo thủ, cố tình bao biện, che giấu. Cách nghĩ của thầy khiến cho ta phải bật cười

+ Thầy ngụy biện bằng việc giảng giải tận gốc vấn đề: dạy cháu để biết đến tận tam đại con gà “dủ dỉ là con dù dì, dù dì là chị con công, con công là ông con gà”

→ Thầy là kẻ ma lanh, láu cá, lí sự cùn để che đậy bản chất dốt nát của mình. Tiếng cười bật ra.

2.3. Ý nghĩa phê phán của câu chuyện

- Phê phán thói dốt hay chơi chữ, dốt học làm sang của một bộ phận nhân dân.

- Phê phán thói giấu dốt, một tật xấu phổ biến trong nhân dân.

- Phê phán hiện thực xã hội: kẻ dốt, kẻ ma lanh, láu cá được trọng dụng.

- Khuyên mọi người phải không ngừng học hỏi, không nên giấu dốt

2.4. Nghệ thuật

- Kết cấu ngắn gọn, chặt chẽ

- Xây dựng những tình huống mâu thuẫn, trái tự nhiên, gây ra tiếng cười

- Cách giải quyết tình huống bất ngờ, hài hước

- Cách sử dụng từ ngữ tạo ra tiếng cười sâu cay.

3. Kết bài

- Khái quát nội dung và nghệ thuật truyện cười Tam đại con gà

- Mở rộng: Ngoài “Tam đại con gà, truyện cười trào phúng dùng tiếng cười để đả kích phê phán những thói hư tật xấu trong xã hội rất phong phú như: Nhưng nó phải bằng hai mày, lợn cưới áo mới, đẽo cày giữa đường,...Mỗi truyện lại đem lại những bài học sâu cay đằng sau tiếng cười sảng khoái. Tất cả đã làm nên đặc sắc của thể loại truyện cười.

Video liên quan

Chủ Đề