Bài học này sẽ mất nhiều thời gian

2

[5 điểm]

a] Yêu cầu về kĩ năng: Học sinh biết cách làm bài văn nghị luận về

một đoạn thơ; diễn đạt lưu loát, văn có xúc cảm tự nhiên, sâu sắc; đảm

bảo quy định về dùng từ, đặt câu, chính tả.

b] Yêu cầu về kiến thức:

1] Mở bài: giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm và vị trí đoạn trích.

2] Thân bài: Học sinh có nhiều hướng phân tích khác nhau, nhưng cần đáp ứng các ý sau đây:

* Đặc sắc về nội dung:

– Thấy được bi kịch của Kiều, phải lựa chọn giữa chữ tình và chữ hiếu; thân phận bất hạnh, nhân cách cao đẹp và sự thông minh sắc sảo của Kiều khi dùng lí lẽ vừa hợp tình, vừa hợp lí để thuyết phục Thúy Vân.

– Lòng thương người vô hạn của tác giả Nguyễn Du.

* Đặc sắc về nghệ thuật:

– Nghệ thuật lựa chọn và sử dụng những từ đắc địa để miêu tả nội tâm và tính cách nhân vật: cậy, chịu, lạy, thưa,…

– Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật độc đáo.

3] kết luận: Nêu cảm nghĩ và mở rộng vấn đề.

Bài mẫu tham khảo: 

Đại thi hào Nguyễn Du là một thiên tài văn học, niềm tự hào của dân tộc Việt Nam. Tên tuổi của Nguyễn Du gắn liền với “Truyện Kiều”, một trong những tác phẩm nổi tiếng trong sự nghiệp sáng tác của ông. Được viết dựa trên cốt truyện của “Kim Vân Kiều truyện”, “Truyện Kiều” phản ảnh sinh động xã hội thời đại của tác giả,  một xã hội mục nát bất công, nhẫn tâm dồn ép nhân dân vào bước đường cùng. Tuy chỉ là một đoạn trích ngắn từ “Truyện Kiều”, song “Trao duyên” vẫn thể hiện đầy đủ chủ đề của tác phẩm. Sống trong thời đại mà con người bị đồng tiền làm băng hoại đạo đức, nhân vật chính Thúy Kiều bị ép phải bán mình cho Mã Giám Sinh để chuộc cha và em trai, phải từ bỏ tình cảm của mình với Kim Trọng, trao lại duyên tình dang dở ấy cho Thúy Vân dù trong lòng có bao nỗi đau xót. Nỗi đau ấy được khắc họa rõ nét nhất qua mười hai câu đầu của đoạn trích:

“Cậy em em có chịu lời,

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”

Nhan đề đoạn trích là “Trao duyên” nhưng trớ trêu thay đây không phải là cảnh trao duyên thơ mộng của những đôi nam nữ mà ta thường gặp trong ca dao xưa. Có đọc mới hiểu được, “trao duyên”  ở đây là gửi duyên, gửi tình của mình cho người khác, nhờ người khác chắp nối mối tình dang dở của mình. Trước phút dấn thân vào quãng đời lưu lạc, Thúy Kiều nghĩ đến Kim Trọng, nghĩ đến việc mình đã không giữ trọn lời đính ước với người yêu, băn khoăn thức trắng đêm nghĩ cách trả nghĩa cho chàng, cuối cùng đành nhờ cậy em là Thúy Vân kết duyên với Kim Trọng.

Mở đầu đoạn thơ là lời thỉnh cầu chân thành tha thiết của Kiều:

“Cậy em em có chịu lời,

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.”

Nguyễn Du là một bậc thầy trong việc sử dụng ngôn ngữ, điều đó có thể dễ dàng thấy được qua hai câu thơ trên. “Cậy” và “nhờ” đều có nghĩa là nhờ vả, xin sự giúp đỡ của một ai đó, nhưng thay vì sử dụng từ “nhờ”, Nguyễn Du đã khéo léo chọn từ “cậy”, bởi vì từ “cậy” này có nghĩa là nhờ với tất cả sự hi vọng và tin tưởng, nét nghĩa này từ “nhờ” không thể hiện được. Cũng như vậy, thay vì từ “nhận”, tác giả lại dùng từ “chịu” bởi vì khác với từ “nhận”, từ “chịu” không chỉ thể hiện sự đồng ý, nhận lời mà còn kèm theo ý bắt buộc, khiến cho người được nhờ vả khó nói lời từ chối. Cách tác giả dùng từ rất chính xác, bởi lẽ đây là chuyện rất quan trọng đối với Kiều, nàng hi vọng Thúy Vân đồng ý, nên lời van nài cũng có chút ép buộc. Tuy Kiều cũng hiểu việc nhờ Thúy Vân kết duyên với Kim Trọng là hết sức vô lí, nhưng nàng vẫn quyết tâm muốn trả nghĩa cho người yêu, bỏ qua lẽ thường, nàng “lạy” và “thưa” đối với em mình. Kiều dùng chính lễ nghi lạy trước thưa sau, thay bậc đổi ngôi này để ràng buộc Vân. Trong tình thế vừa tình vừa lễ như vậy, Vân sao có thể không nhận lời?

Lạy xong, Kiều mở lời giải bày hoàn cảnh của mình với em, nói ra ý định muốn em kết duyên với Kim Trọng:

“Giữa đường đứt gánh tương tư,

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.”

Thành ngữ “đứt gánh tương tư” có ý chỉ tình yêu dang dở. Tình cảm của Kiều với Kim Trọng chưa kịp tới hồi viên mãn thì sóng gió đã ập tới, đành phải dở dang, Kiều đau khổ biết mấy, nhưng đành ngậm ngùi trao lại cho em. Nàng dùng điển tích về “keo loan” để thể hiện ý định muốn Thúy Vân kết duyên với Kim Trọng. Không những thế, nàng cũng bày tỏ sự ray rứt đối với em, đem mối tình sâu đậm của nàng biến thành một mối “tơ thừa” giao phó cho Thúy Vân, “mặc” cho Thúy Vân  định liệu.

Trao duyên cho em nhưng nào đã dễ trút đi gánh nặng? Bao nhiêu kỉ niệm ngày xưa của mối tình đầu, kỉ niệm đẹp đẽ của một thời ào ạt trở về khiến nàng đau đớn khôn nguôi, nàng không dằn được lòng mình, tâm sự với em:

“Kể từ khi gặp chàng Kim,

Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.”

Từ “khi” được lặp lại ba lần gợi cho người đọc nghĩ đến tình cảm sâu nặng giữa Kiều với chàng Kim, nhớ đến những kỉ niệm đẹp của hai người. Với nghệ thuật liệt kê “ngày quạt ước”, “đêm chén thề” những kỉ niệm đẹp đẽ ấy trở nên sống động hơn trong lòng Kiều. Những kí ức ấy vốn rất ngọt ngào, giờ đây khi nhớ đến lại trở thành một nỗi đau không thể nào nguôi trong lòng nàng, đặc biệt là khi nghĩ đến nguyên nhân của nỗi đau này:

“Sự đâu sóng gió bất kì,

Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.”

“Sóng gió bất kì” là khi Kim Trọng phải về quê chịu tang chú, gia đình Kiều lại bị mắc oan, cha và em Kiều bị bắt, cách duy nhất để cứu họ là nàng phải bán mình, đồng nghĩa với việc nàng phải làm trái với lời hẹn ước trước kia với người yêu. Hoàn cảnh trái ngang quá, giữa hai lẽ “hiếu” và “tình”, Kiều chỉ có thể chọn một. Nàng dằn vặt nội tâm, day dứt đau đớn, cuối cùng đành hi sinh tình yêu của mình để làm tròn chữ hiếu. Nàng tỏ nỗi lòng với Vân, dùng nỗi đau của mình để thuyết phục Vân, hy vọng em mình có thể thấu hiểu cho và chấp nhận yêu cầu của mình.

Đã tỏ bày nỗi lòng nhưng vẫn sợ Vân không đồng ý, Kiều lại dùng lí lẽ để thuyết phục em:

“Ngày xuân em hãy còn dài,

Xót tình máu mủ thay lời nước non.

Chị dù thịt nát xương mòn,

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”

Để thuyết phục em, Kiều không tiếc viện đến tình máu mủ, cùng với cả cái chết. Các thành ngữ “tình máu mủ”, “lời nước non”, “thịt nát xương mòn” , “ngậm cười chín suối” được dùng đến trong bốn câu thơ trên thể hiện sự quyết tâm thuyết phục em cho bằng được của Kiều. Đối với nàng, việc trả nghĩa cho Kim Trọng còn quan trọng hơn cả mạng sống, chỉ cần Vân kết duyên với Kim Trọng, cho dù có chết đi thì Kiều cũng thấy được an ủi, mãn nguyện. Chính cách viện đến tình máu mủ và cái chết ấy đã khiến cho Vân chẳng thể nào từ chối lời khẩn cầu của nàng.

Với thể thơ lục bát được sử dụng một cách nhuần nhuyễn, đầy sáng tạo kết hợp với nhiều biện pháp tu từ, sử dụng sáng tạo thành ngữ dân gian và kết hợp tài tình ngôn ngữ bác học với ngôn ngư bình dân , Nguyễn Du đã khắc họa rõ nét tâm trạng dằn vặt, đau đớn khi phải hi sinh chữ tình để làm tròn chữ hiếu của Kiều, khiến hình tượng của nàng trở nên đẹp đẽ hơn trong lòng người đọc. Đồng thời, qua tác phẩm ta còn có thể thấy được sự yêu thương, cảm thông sâu sắc của Nguyễn Du dành cho nhân vật của mình.

Thông qua việc thể hiện nỗi đau của Kiều khi phải trao duyên tình dang dở của mình cho em, “Trao duyên”  mang đến độc giả cái nhìn chân thực về thời đại của tác giả, một thời đại mà con người bị đồng tiền làm băng hoại đạo đức, bị chính đồng tiền dồn ép tới đường cùng, không còn lối thoát. Chính giá trị nhân đạo và hiện thực sâu sắc ấy mà đoạn trích, cũng như “Truyện Kiều” đã để lại trong lòng nhiều thế hệ độc giả ấn tượng sâu sắc.

0,5

2,0

2,0

KỲ THI KẾT THÚC HỌC KÌ I
NĂM HỌC 201… – 201…
MÔN: NGỮ VĂN – LỚP 11
Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời
gian phát đề

MỤC TIÊU:

–   Đánh giá chuẩn kiến thức, kĩ năng theo tiến độ chương trình học kì 1 môn Ngữ văn lớp 11 [cơ bản]. – Khảo sát bao quát nội dung kiến thức, kĩ năng trọng tâm của chương trình Ngữ văn 11 học kì 1 theo nội dung Đọc – hiểu, Làm văn với mục đích thông qua hình thức kiểm tra tự luận để: + Đánh giá ý thức rèn luyện tư tưởng đạo đức, kĩ năng đời sống xã hội và năng lực làm văn của HS học kì 1. + Đánh giá khả năng tạo lập văn bản của học sinh.

Cụ thể: Đề kiểm tra nhằm đánh giá trình độ học sinh theo chuẩn sau:

Vận dụng các đơn vị kiến thức: + Đọc – hiểu về phương thức biểu đạt, phong cách ngôn ngữ, thao tác lập luận, các biện pháp tu từ, … + NLXH về hiện tượng đời sống và tư tưởng đạo lí.

+ Nghị luận văn học về các tác phẩm Chí Phèo [Nam Cao].

  1. Về kĩ năng: Kĩ năng đọc hiểu và tạo lập văn bản.
  2. Về thái độ: Có ý thức nâng cao năng lực làm văn của bản thân trong nhà trường.
  3. Về năng lực: Giúp HS phát triển các năng lực sau:

– Năng lực sử dụng ngôn ngữ. – Năng lực giao tiếp. – Năng lực thu thập thông tin liên quan đến bài học, và giải quyết các tình huống đặt ra trong văn bản.

– Năng lực sáng tạo và cảm thụ thẩm mĩ… và thể hiện cảm xúc

  1. HÌNH THỨC VÀ THỜI GIAN KIỂM TRA:
  2. Hình thức kiểm tra: Tự luận.
  3. Thời gian làm bài: 120 phút.

III. KHUNG MA TRẬN ĐỀ BÀI KIỂM TRA:
 

        Mức độ
 
 
Chủ đề
Nhận biết Thông hiểu Vận dụng Vận dụng cao Tổng
I. Đọc -hiểu – Văn bản nhật dụng/văn bản nghệ thuật. Độ dài khoảng 200 chữ. – Phong cách ngôn ngữ của văn bản.
– Phương thức biểu đạt của văn bản.
– Xác định biện pháp tu từ và nêu được hiệu quả của biện pháp tu từ đó . – Hiểu   được nội dung văn bản, rút ra bài học liên hệ thực tế cuộc sống.
Số câu Số điểm

Tỉ lệ

2 0,5×2=1,0

10%

1 1,0

10%

1 1,0

10 %

4 3,0

30%

II.Tạo lập văn bản:
Câu 1
NLXH -Khoảng 200 chữ Trình bày suy nghĩ về vấn đề

xã hội đặt ra trong văn bản đọc hiểu ở phần 1.

 Vận dụng kiến thức, kĩ năng để tạo lập một đoạn văn nghị luận xã hội.
Số câu Số điểm

Tỉ lệ

1 2

20%

1 2

20%

Câu 2
NLVH
Nghị luận về một tác phẩm tự sự giai đoạn 1930 -1945
 Vận dụng kiến thức, kĩ năng   để viết một bài văn NLVH đạt yêu cầu.
Số câu Số điểm

Tỉ lệ

1 5

50%

1 5

50%

Tổng chung: Số câu Số điểm

Tỉ lệ

    2 1,0

10%

    1 1,0

10,%

    2 3,0

30%

    1 5,0 50%     6 10

100%

BIÊN SOẠN ĐỀ BÀI KIỂM TRA:
Phần I: Đọc – hiểu [3 điểm]: Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:

“Con tôi sẽ phải học tất cả những điều này. […] Rằng cứ mỗi một kẻ thù ta gặp ở nơi này thì ở nơi khác ta lại tìm thấy một người bạn. Bài học này sẽ mất nhiều thời gian, tôi biết, nhưng xin thầy hãy dạy cho cháu hiểu rằng một đồng đô-la kiếm được do công sức của mình bỏ ra còn quý hơn nhiều so với năm đô-la nhặt được trên hè phố…


        Xin hãy dạy cho cháu cách chấp nhận thất bại và cách tận hưởng niềm vui chiến thắng. Xin hãy dạy cho cháu tránh xa sự đố kị. Xin dạy cho cháu biết được bí quyết của niềm vui thầm lặng. Dạy cho cháu rằng những kẻ hay bắt nạt người khác là những kẻ dễ bị đạnh bại nhất…”.
[Trích thư của Tổng Thống Mĩ Lin-Côn gửi thầy hiệu trưởng của con trai mình, trong Những câu chuyện về người thầy].
  1. Xác định phong cách ngôn ngữ của đoạn trích. [0,5đ]
  2. Xác định phương thức biểu đạt chính trong đoạn trích. [0,5đ]
  3. Chỉ ra hiệu quả nghệ thuật của của biện pháp tu từ so sánh được sử dụng trong câu sau: xin thầy hãy dạy cho cháu hiểu rằng một đồng đô-la kiếm được do công sức của mình bỏ ra còn quý hơn nhiều so với năm đô-la nhặt được trên hè phố… [1,0đ]
  4. Từ câu nói: Rằng cứ mỗi một kẻ thù ta gặp ở nơi này thì ở nơi khác ta lại tìm thấy một người bạn, Anh /chị rút ra được bài học gì?[1,0đ]

Phần II: Làm Văn[7 điểm]
Câu 1 [2 điểm]:
Viết một đoạn văn nghị luận [khoảng 200 chữ] trình bày suy nghĩ của anh/ chị về ý kiến trong phần đọc hiểu:“…những kẻ hay bắt nạt người khác là những kẻ dễ bị đạnh bại nhất…”.
Câu 2 [5 điểm]: Cảm nhận của anh/chị về đoạn trích sau:

“ Nhưng bây giờ thì hắn tỉnh. Hắn bâng khuâng như tỉnh dậy, hắn thấy miệng đắng, lòng mơ hồ buồn. Người thì bủn rủn, chân tay không buồn nhấc, hay là đói rượu, hắn hơi rùng mình. Ruột gan lại nôn nao lên một tý. Hắn sợ rượu cũng như những người ốm sợ cơm. Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cườu nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá.


Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có. Nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy… Chao ôi là buồn!
– Vải hôm nay bán mấy?
– Kém ba xu dì ạ.
– Thế thì còn ăn thua gì!
– Thật thế đấy. Nhưng chẳng lẽ rằng lại chơi.
Chí Phèo đoán một người đàn bà hỏi một người đàn bà khác đi bán vải ở Nam Ðịnh về. Hắn nôn nao buồn, là vì mẩu chuyện ấy nhắc cho hắn một cái gì rất xa xôi. Hình như có một thời hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải, chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm
Tỉnh dậy hắn thấy già mà vẫn còn cô độc. Buồn thay cho đời! Có lý nào như thế được? Hắn đã già rồi hay sao? Ngoài bốn mươi tuổi đầu… Dẫu sao, đó không phải tuổi mà người ta mới bắt đầu sửa soạn. Hắn đã tới cái dốc bên kia của đời. Ở những người như hắn, chịu đựng biết bao nhiêu là chất độc, đầy đọa cực nhọc mà chưa bao giờ ốm, một trận ốm có thể gọi là dấu hiệu báo rằng cơ thể đã hư hỏng nhiều. Nó là một cơn mưa gió cuối thu cho biết trời gió rét, nay mùa đông đã đến. Chí Phèo hình như đã trông thấy trước tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc, cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau”. [Trích “Chí Phèo” của Nam Cao , sgk Ngữ văn 11, tập 1].
 
KỲ THI KẾT THÚC HỌC KÌ I
NĂM HỌC 201… – 201…
MÔN: NGỮ VĂN – LỚP 11
Thời gian làm bài: 90 phút, không kể thời
gian phát đề

HƯỚNG DẪN CHẤM.
Phần I: Đọc –hiểu [3,0điểm]:

  1. Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt [0,5 đ].
  2. Phương thức biểu đạt chính : Biểu cảm [0,5 đ].
  3. Biện pháp nghệ thuật: So sánh một đồng đô-la kiếm được do công sức của mình bỏ ra còn quý hơn nhiều so với năm đô-la nhặt được trên hè phố… giúp chúng ta biết quý trọng công sức lao động mình bỏ ra và biết tự trọng trong cuộc sống. [1,0 đ].
  4. Câu nói : Rằng cứ mỗi một kẻ thù ta gặp ở nơi này thì ở nơi khác ta lại tìm thấy một người bạn. Cho ta thấy được cuộc sống rất đa dạng, phong phú, phức tạp có tốt – xấu, bạn- thù … và hãy sống  lạc quan, có niềm tin.[1,0đ]

 Phần II: Làm văn [7,0 điểm]
Câu 1. [2,0 điểm]
–Thí sinh biết kết hợp kiến thức và kĩ năng về dạng bài nghị luận xã hội để tạo lập một đoạn văn nghị luận. Diễn đạt mạch lạc, chặt chẽ, có cảm xúc; không mắc lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ pháp….
– Giải thích được ý kiến của câu nói “bắt nạt người khác”,” dễ bị đạnh bại nhất…”.                                                                             
[0,5 điểm] – Thể hiện được suy nghĩ của bản thân về vấn đề : Đồng ý hoặc không đồng ý, đồng một phần.. [1,0 điểm] + Luận cứ đầy đủ, tiêu biểu… + Lập luận chặt chẽ, sắc sảo, toàn diện. – Rút ra bài học liên hệ. [0,5 điểm]

Câu 2. [5,0 điểm]


* Yêu cầu chung: Thí sinh biết kết hợp kiến thức và kĩ năng về dạng bài nghị luận văn học để tạo lập văn bản. Bài viết phải có bố cục đầy đủ, rõ ràng; văn viết có cảm xúc; thể hiện khả năng cảm thụ văn học tốt; diễn đạt trôi chảy, bảo đảm tính liên kết; không mắc lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ pháp.
* Yêu cầu cụ thể:
  1. a] Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận [0,5 điểm]:

– Điểm 0,5 điểm: Trình bày đầy đủ các phần Mở bài, Thân bài, Kết luận. Phần Mở bài biết dẫn dắt hợp lí và nêu được vấn đề; phần Thân bài biết tổ chức thành nhiều đoạn văn liên kết chặt chẽ với nhau cùng làm sáng tỏ vấn đề; phần Kết bài khái quát được vấn đề và thể hiện được ấn tượng, cảm xúc sâu đậm của cá nhân. – Điểm 0,25: Trình bày đầy đủ ba phần Mở bài, Thân bài, Kết luận, nhưng các phần chưa thể hiện được đầy đủ yêu cầu trên; phần Thân bài chỉ có 1 đoạn văn.

– Điểm 0: Thiếu Mở bài hoặc Kết luận, Thân bài chỉ có 1 đoạn văn hoặc cả bài viết chỉ có 1 đoạn văn.

  1. b] Xác định đúng vấn đề cần nghị luận [0,5 điểm]:

* Thí sinh cần làm rõ các ý cơ bản sau:

  Nội dung Thang điểm
                NLVH A. MB: Giới thiệu tác giả, tác phẩm, đoạn trích, khái quát vấn đề nghị luận.
B. TB:
–  Sự thức tỉnh của Chí phèo.
+Nghe thấy những thanh âm của cuộc sống tiếng chim hót ngoài kia, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá, tiếng người đi chợ về…,” + Nhớ lại quá khứ với ước mơ nhỏ bé, ấm áp “ có một gia đình nho nhỏ chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải…” + Nhận thức được thực tại đớn đau của bản thân “hắn đã tới cái dốc bên kia của cuộc đời …đói rét, ốm đau và cô độc…” – Nghệ thuật xây dựng và khắc họa nhân vật: Nghệ thuật phân tích và miêu tả tâm lí,lời văn nửa trực tiếp,đối thoại và độc thoại nội tâm;kết hợp giữa tự sự và biểu cảm;  giọng văn linh hoạt nhà văn như nhập vào dòng nội tâm của nhân vật để làm sống dậy những bi kịch đau đớn của Chí phèo…Chí Phèo chính là nhân vật điển hình cho số phận đau khổ người nông dân trước cách mạng tháng tám. –   Ý nghĩa của đoạn trích .

C. KB: Khẳng định  thành công nghệ thuật của đoạn trích, tác phẩm và dóng góp của tác giả.

0,5   4,0 1,5             1,25         0,75  

0,5

Chí Phèo

Video liên quan

Chủ Đề