Ý nghĩa của giao dịch dân sự vô hiệu

Hiện nay, khái niệm giao dịch dân sự vô hiệu thường được sử dụng khi thực hiện, ký kết các hợp đồng. Vậy nên hiểu khái niệm này thế nào?


Giao dịch dân sự vô hiệu là gì?

Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự [theo Điều 116 Bộ luật Dân sự năm 2015].

Theo đó, Điều 122 Bộ luật Dân sự năm 2015 nêu rõ:

Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 117 của Bộ luật này thì vô hiệu, trừ trường hợp Bộ luật này có quy định khác.

Các điều kiện nêu tại Điều 117 Bộ luật Dân sự là các điều kiện để một giao dịch dân sự có hiệu lực. Cụ thể, một giao dịch nếu có đầy đủ tất cả các điều kiện sau đây thì sẽ được coi là có hiệu lực:

- Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;

- Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;

- Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.

Đáng chú ý: Nếu luật yêu cầu về hình thức của giao dịch dân sự thì các giao dịch phải đáp ứng đủ các điều kiện này.

Ví dụ, theo quy định tại khoản 1 Điều 122 Luật Nhà ở năm 2014,  khi mua bán, tặng cho, thế chấp nhà ở… phải thực hiện công chứng, chứng thực hợp đồng thì ngoài điều kiện có hiệu lực nêu trên, các hợp đồng này còn phải được công chứng, chứng thực.

Như vậy, một giao dịch bị coi là vô hiệu nếu không đáp ứng đầy đủ các điều kiện nêu trên.

Giao dịch dân sự vô hiệu là gì? [Ảnh minh họa]


Các trường hợp giao dịch dân sự bị vô hiệu

Căn cứ vào Bộ luật Dân sự năm 2015, trong các trường hợp sau đây, giao dịch dân sự sẽ bị coi là vô hiệu:

- Do mục đích, nội dung vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội [Điều 123]: Trong đó, điều cấm của luật là những quy định của luật không cho phép thực hiện; Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.

- Do giả tạo [Điều 124]: Khi xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo để che giấu một giao dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu, giao dịch dân sự bị che giấu vẫn có hiệu lực trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu.

Ví dụ: Hai bên ký hợp đồng ủy quyền nhằm che giấu mục đích thật sự của giao dịch đó là mua bán tài sản thì hợp đồng ủy quyền sẽ vô hiệu nhưng hợp đồng mua bán tài sản vẫn có hiệu lực nếu nó không bị vô hiệu.

- Do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện [Điều 125]: Nếu người đại diện của người đó yêu cầu thì Tòa án sẽ tuyên giao dịch đó vô hiệu trừ trường hợp:

+ Giao dịch dân sự của người chưa đủ 06 tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu hàng ngày của người đó;

+ Giao dịch dân sự chỉ làm phát sinh quyền hoặc chỉ miễn trừ nghĩa vụ cho người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự với người đã xác lập, thực hiện giao dịch với họ;

+ Giao dịch dân sự được người xác lập giao dịch thừa nhận hiệu lực sau khi đã thành niên hoặc sau khi khôi phục năng lực hành vi dân sự.

- Do bị nhầm lẫn [Điều 126]: Vì có sự nhầm lẫn khiến một bên hoặc các bên không đạt được mục đích và bên bị nhầm lẫn yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu trừ trường hợp mục đích của các bên đã đạt được hoặc có thể khắc phục được sự nhầm lẫn này làm mục đích của giao dịch vẫn đạt được.

- Do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép [Điều 127]: Khi một bên bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên giao dịch đó vô hiệu:

+ Lừa dối là hành vi cố ý nhằm làm bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch đã xác lập.

+ Đe dọa, cưỡng ép là hành vi cố ý nhằm khiến bên kia phải thực hiện giao dịch để tránh thiệt hại cho mình hoặc người thân thích của mình.

- Do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình [Điều 128]: Thực hiện giao dịch vào đúng thời điểm người có năng lực hành vi dân sự không nhận thức và làm chủ hành vi của mình.

- Do không tuân thủ quy định về hình thức [Điều 129]: Nếu giao dịch phải đáp ứng điều kiện về hình thức mới có hiệu lực thì phải đáp ứng yêu cầu về hình thức này. Ngược lại, nếu không thực hiện đúng như lẽ ra giao dịch phải được thực hiện bằng văn bản nhưng văn bản đó không đúng quy định hoặc bắt buộc phải có công chứng, chứng thực nhưng các bên không thực hiện... thì giao dịch đó sẽ vô hiệu.

Dù vậy, khi một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất 2/3 nghĩa vụ trong giao dịch đó thì có thể yêu cầu Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch.

Đặc biệt, giao dịch dân sự còn có thể bị vô hiệu từng phần khi phần bị vô hiệu đó không ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần còn lại.

Trên đây là giải đáp về giao dịch dân sự vô hiệu. Nếu còn băn khoăn, bạn vui lòng gửi câu hỏi cho chúng tôi để được hỗ trợ.

Giao dịch dân sự là căn cứ phổ biến, thông dụng nhất trong các căn cứ làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự. Tuy nhiên, trong thực tế đời sống pháp luật; có nhiều giao dịch dân sự được xác lập nhưng có thể sẽ bị tuyên bố là vô hiệu; hoặc sẽ vô hiệu và sẽ để lại những hậu quả pháp lý nhất định. Vậy Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu như thế nào?

Hãy cùng Luật sư X tìm hiểu về vấn đề này qua bài viết dưới đây nhé!

Căn cứ pháp lý

Nội dung tư vấn

Giao dịch dân sự vô hiệu là gì?

Giao dịch dân sự vô hiệu: giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự được quy định tại Điều 117 BLDS năm 2015 thì vô hiệu, trừ trường hợp Bộ luật này có quy định khác.

Điều 117 Bộ luật quy định các điều kiện có hiệu lực của giao dịch về chủ thể; về ý sự thể hiện ý chí của chủ thể, về mục đích và nội dung của giao dịch; và về hình thức của giao dịch nếu pháp luật có quy định hình thức bắt buộc của một giao dịch nào đó thì hình thức này là điều kiện có hiệu lực của giao dịch. Những quy định về sự vô hiệu của giao dịch dân sự có ý nghĩa quan trọng trong việc thiết lập trật tự kỉ cương xã hội ; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân và Nhà nước; bảo đảm an toàn pháp lí cho các chủ thể trong giao lưu dân sự.

Giao dịch dân sự vô hiệu một phần

Nếu giao dịch dân sự có nhiều phần; trong các phần đó chỉ có một; hoặc một số phần vi phạm pháp luật mà không làm ảnh hưởng đến các phần còn lại thì phần giao dịch dân sự có hiệu lực pháp luật vẫn làm phát sinh cho các bên chủ thể tham gia xác lập giao dịch dân sự đó các quyền và nghĩa vụ dân sự.

Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu; hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Về nguyên tắc, đối tượng của giao dịch là vật; thì khi giao dịch vô hiệu bên nhận vật có nghĩa vụ hoàn trả lại vật [hoàn nguyên] mà mình đã nhận cho bên có quyền. Điều đó có nghĩa là:

  • Nếu giao dịch dân sự đó chưa được thực hiện thì các bên không được thực hiện.
  • Nếu giao dịch dân sự đó đã được thực hiện một phần thì các bên phải dừng ngay việc thực hiện; không được tiếp tục thực hiện phần còn lại của giao dịch dân sự; và có nghĩa vụ hoàn trả cho nhau những lợi ích vật chất đã nhận được của nhau. Nếu đối tượng của giao dịch dân sự không còn trên thực tế thì các bên phải hoàn trả cho nhau bằng tiền tương đương với giá trị của lợi ích vật chất mà mình đã nhận được.

Nếu giao dịch dân sự đó đã được thực hiện xong thì các bên phải hoàn trả cho nhau những lợi ích vật chất; mà các bên đã nhận được; hoặc hoàn trả cho nhau một số tiền tương đương với giá trị của lợi ích vật chất; mà mình đã nhận được nếu như lợi ích vật chất đó không còn trên thực tế.

Giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối khi nào?

Giao dịch dân sự bị coi là vô hiệu tương đối trong các trường hợp:

  • Khi giao dịch được xác lập bởi người chưa thành niên; người mất năng lực hành vi dân sự; người có khó khan trong nhận thức và làm chủ hành vi; người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự [Điều 125 BLDS năm 2015];
  • Khi giao dịch được xác lập do bị nhầm lẫn [Điều 126 BLDS năm 2015];
  • Khi một bên chủ thể tham gia xác lập giao dịch do bị lừa dối; đe dọa, cưỡng ép [Điều 127 BLDS năm 2015];
  • Khi người xác lập giao dịch đủ năng lực hành vi dân sự; nhưng đã xác lập giao dịch tại thời điểm không nhận thức được hành vi của mình [Điều 128 BLDS năm 2015].

Điều 131 Bộ luật dân sự 2015 quy định hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu. Về nguyên tắc; giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của các bên từ thời điểm xác lập. Các bên phải khôi phục lại tình trạng ban đầu như khi chưa xác lập giao dịch; nếu giao dịch chưa được thực hiện thì các bên không được thực hiện giao dịch đó. Nếu giao dịch đã được thực hiện toàn bộ hay một phần thì các bên không được tiếp tục thực hiện giao dịch; và phải hoàn trả cho nhau những lợi ích vật chất đã nhận của nhau. Nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả.

  • Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó
  • Việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân do BLDS; hoặc luật khác có liên quan quy định.
  • Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường.

Mời bạn xem thêm bài viết:

Thông tin liên hệ Luật Sư X


Trên đây là nội dung tư vấn về Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu.

Mọi thắc mắc về thủ tục pháp lý có liên quan. Quý khách vui lòng liên hệ Luật Sư X để được hỗ trợ, giải đáp.

Gọi ngay cho chúng tôi qua hotline: 0833 102 102

Câu hỏi thường gặp

Thời hạn yêu cầu Tòa tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu là bao lâu?

Thời hạn yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu là hai năm, kể từ ngày giao dịch được xác lập đối với các giao dịch dân sự được xác lập do người không đủ năng lực hành vi, do nhầm lẫn, đe dọa, lừa dối, do không tuân thủ các quy định bắt buộc về hình thức. Những giao dịch vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội, thời hạn tuyên bố giao dịch vô hiệu không bị hạn chế.

Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội được quy định thế nào?

Điều 123 BLDS quy định giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội cùng những hậu quả pháp lí của giao dịch vô hiệu dạng này. Vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội bao gồm nội dung, mục đích của giao dịch trái pháp luật và đạo đức xã hội.

Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức khi nào?

Chỉ những giao dịch pháp luật quy định bắt buộc phải thể hiện bằng văn bản, phải có chứng thực, chứng nhận, đăng kí hoặc xin phép mà các bên không tuân thủ quy định này mới bị vô hiệu. Khi các bên không tuân thủ các quy định này thì vô hiệu, trừ những trường hợp do luật định.

5 ra khỏi 5 [1 Phiếu bầu]

Video liên quan

Chủ Đề