Vương quan là ai

Thúy Kiều [Chữ Nho: 翠翹], thường gọi là nàng Kiều hay Kiều, là nhân vật chính trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du, lấy hình tượng từ cuộc đời Vương Thúy Kiều, một kỹ nữ thời nhà Minh của Trung Quốc.

Tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du gồm 3254 câu thơ lục bát miêu tả cuộc đời éo le của nàng Kiều và những tai ương mà Kiều gặp phải.

Thuý Kiều sinh ra trong một gia đình “thường thường bậc trung” nhưng đó là gia đình gia giáo hạnh phúc. Kiều là chị cả, hai em là Thúy Vân và Vương Quan.

Đầu lòng hai ả tố nga Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân Mai cốt cách tuyết tinh thần Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười Vân xem trang trọng khác vời Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang Hoa cười ngọc thốt đoan trang Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da

Do gia đình dính phải án oan sai, cha và Vương Quan bị bắt về nha môn. Kiều đã bán thân mình chuộc cha, nàng còn phải hy sinh luôn hạnh phúc đời mình, phải nhờ cậy đến em Thúy Vân thay mình chăm sóc cho Kim Trọng.

Là một cô gái liễu yếu đào tơ nhưng phải chịu đánh đập. Tú Bà sau khi lừa được Thuý Kiều ở lầu Ngưng Bích đã đánh đập Thuý Kiều rất dã man. Sau đó Thuý Kiều lại phải chịu một trận đòn của Thúc ông “uốn lưng thịt đổ dập đầu máu sa” hay ” Trúc côn ra sức đập vào/Thịt nào chẳng nát gan nào chẳng kinh.”.

Mối tình đầu vừa chớm nở, Kiều đang sống trong hạnh phúc vậy mà phải trao duyên cho em gái, buộc phải quên đi hạnh phúc mà mình đã nắm trong tầm tay. Từ một cô gái sống trong cảnh “êm đềm trướng rủ màn che”, Kiều bỗng dưng trở thành hàng hoá để người ta xem xét, so đo, cò kè, ngã giá.

Từ một cô gái trinh trắng, Kiều đã rơi vào lầu xanh, phải chịu cảnh “Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm”

Khi là vợ Thúc Sinh, Kiều đã phải đàn hát thâu đêm để cho Thúc Sinh và Hoạn Thư uống rượu, thưởng đàn. Bị bán vào lầu xanh lần thứ hai, Kiều gặp Từ Hải. Từ Hải đã mang đến cho Kiều cuộc sống hạnh phúc và đưa Kiều lên vị trí xứng đáng nhưng rồi Kiều đã nhẹ dạ cả tin, khuyên Từ Hải ra hàng và khiến Từ Hải thua trận phải chết đứng.

Khi chồng vừa chết, Thuý Kiều phải đánh đàn hầu rượu Hồ Tôn Hiến rồi bị ép gả cho tên thổ quan và phải trẫm mình xuống sông Tiền Đường tự vẫn.

Làn thu thuỷ nét xuân sơn Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh

Kiều có vẻ đẹp sắc sảo mặn mà. Tả Kiều Nguyễn Du sử dụng bút pháp đặc tả đôi mắt để qua
đó nói lên vẻ đẹp trong thế giới tâm hồn, nhân cách của nhân vật. Kiều đẹp đến mức hoa ghen liễu hờn, thiên nhiên cũng sinh lòng đố kị”Lạ gì bỉ sắc tư phong/ trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”.

vì thế mà số phận long đong cực khổ. Điều này cho thấy sắc đẹp của Kiều đã đạt đến độ hoàn mĩ.

Kiều có tâm hồn trong sáng và trái tim đa cảm: khi đi du xuân cùng em, gặp mộ Đạm Tiên, người phụ nữ xấu số không quen biết, Kiều đã tỏ lòng thương cảm, Kiều luôn luôn hiểu và cảm nhận được nỗi đau khổ của người khác và tìm cách giải quyết.

Kiều là người con hiếu thảo: khi gia đình mắc oan Kiều đã hi sinh bản thân mình, hi sinh hạnh phúc của cá nhân mình để cứu cha, cứu em và chữ hiếu của Kiều đặt cao hơn tất cả và được thể hiện bằng hành động.

Trong suốt quãng đời lưu lạc, lúc nào Kiều cũng sống trong băn khoăn day dứt vì không làm tròn trách nhiệm của người con đối với cha mẹ. Khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, Kiều cũng không thể không nguôi nhớ về cha mẹ.

Kiều có một trái tim chung thuỷ, có một tấm lòng vị tha. Tác giả đã ca ngợi tình yêu Kim – Kiều hồn nhiên, trong sáng và táo bạo, Kiều đã chủ động đến với Kim Trọng. Thái độ chủ động ấy ta ít gặp trong xã hội phong kiến, Kiều đã chống lại quan điểm của xã hội phong kiến “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”. Tình yêu rất đẹp bởi bắt nguồn từ hai trái tim, rất chung thuỷ nhưng cũng rất biết hi sinh.

Trong mười lăm năm lưu lạc, Kiều luôn nghĩ tới Kim Trọng, băn khoăn day dứt vì mình không mang đến hạnh phúc cho người mình yêu, mối tình Kim – Kiều chính là biểu tượng cho khát vọng hạnh phúc của con người.

Cung thương làu bậc ngũ âm Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương Khúc nhà tay lựa nên chương Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân

Kiều giỏi về âm luật, giỏi đến mức “làu bậc”. Cây đàn mà nàng chơi là cây Hồ cầm. Trong toàn bộ thi phẩm có tới bốn lần Nguyễn Du đặt tả tiếng đàn của Thúy Kiều. Có lần dạo nhạc cho Kim Trọng nghe” Trong như tiếng hạc bay/Đặc như tiếng suối mới sa nửa vời.” tiếng đàn của nàng thật hay “ăn đứt” bất cứ nghệ sĩ nào. Kiều còn biết sáng tác âm nhạc, tên khúc đàn của nàng sáng tác ra là một “thiên bạc mệnh” nghe buồn thê thiết “não nhân”, làm cho lòng người sầu não, đau khổ. Các từ ngữ: sắc sảo, mặn mà, phần hơn, ghen, hờn, nghiêng nước nghiêng thành, đòi một, hoạ hai, vốn sẵn, pha nghề, đủ mùi, lầu bậc, ăn đứt, bạc mệnh, não nhân – tạo nên một hệ thống ngôn ngữ cực tả tài sắc và hé lộ, dự báo số phận bạc mệnh của Kiều, như ca dao lưu truyền:

“Một vừa hai phải ai ơi! Tài tình chi lắm cho trời đất ghen”.

Nguyễn Công Trứ đã tặng Thúy Kiều hai câu thơ:

Bạc mệnh chẳng làm người tiết nghĩa, Đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm!

Ý nói khi bị số phận đưa đẩy đến lầu xanh hai lần, Thúy Kiều đã không chọn cái chết để bảo toàn tiết hạnh, vậy mà chịu những đau đớn, tủi nhục của kiếp sống kỹ nữ.

Nhà thơ Tản Đà bình luận về hành vi của Thúy Kiều sau khi gây ra cái chết cho Từ Hải:

Đôi hàng nước mắt, đôi làn sóng Nửa đám ma chồng, nửa tiệc quan Tổng đốc có thương người bạc phận, Tiền Đường chưa chắc mả hồng nhan

Bài thơ có ý trách Thúy Kiều mới chôn cất Từ Hải tại bờ sông, sao lại có thể ngồi đánh đàn mua vui cho những kẻ giết chồng mình? Dù Hồ Tôn Hiến có nhỏ một giọt lệ xót thương, nhưng dòng nước của sông Tiền Đường cũng cảm thấy ghét mà không chấp nhận làm nơi chôn thân của một người đàn bà như vậy.

  • Ngu sơ tân chí
  • Tưởng Tinh Dục: Minh Thanh tiểu thuyết hí khúc trung đích Vương Thúy Kiều cố sự

MỤC LỤC1. GIỚI THIỆU VỀ NGUYỄN DU VÀ TRUYỆN KIỀU.................................21.1 Giới thiệu về Nguyễn Du ......................................................................21.2 Giới thiệu về Truyện Kiều.....................................................................32. PHÂN TÍCH NHÂN VẬT THÚY VÂN, KIM TRỌNG VÀ VƯƠNGQUAN...................................................................................................................62.1 Phân tích nhân vật Thúy Vân................................................................62.2 Phân tích nhân vật Kim Trọng.............................................................152.3 Phân tích nhân vật Vương Quan.........................................................213. NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT THÚY VÂN, KIM TRỌNGVÀ VƯƠNG QUAN..........................................................................................263.1 Nghệ thuật xây dựng nhân vật Thúy Vân............................................263.2 Nghệ thuật xây dựng nhân vật Kim Trọng .........................................283.3 Nghệ thuật xây dựng nhân vật Vương Quan.......................................30TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................331 1. GIỚI THIỆU VỀ NGUYỄN DU VÀ TRUYỆN KIỀU1.1 Giới thiệu về Nguyễn Du1.1.1 Cuộc đời – thời đạiNguyễn Du [1765 – 1820] tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên; quê ởlàng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ơng sinh trưởng trong một giađình đại q tộc, nhiều đời làm quan và có truyền thống về văn học. Cha làNguyễn Nghiễm, đỗ tiến sĩ, từng giữ chức Tể tướng. Mẹ đẻ của Nguyễn Du làTrần Thị Tần vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm. Bà là con gái thứ ba của một vịquan nhỏ coi việc sổ sách kế toán [chức Câu Kê] dưới trướng Nguyễn Nghiễm,người xã Hoa Thiều, huyện Đông Ngàn, tỉnh Bắc Ninh [nay thuộc xã HươngMặc, huyện Từ Sơn]. Bà Trần Thị Tần sinh năm Canh Thân [1740] và mất ngàymùng 6 tháng 7 năm Mậu Tuất [1778] thọ 39 tuổi. Năm đó Nguyễn Du mới 13tuổi. Bà Trần Thị Tần thuộc dòng dõi Trần Phi Chiêu [1549 – 1623], ông đậutiến sỹ năm Kỷ Sửu [1589] làm quan đến chức thượng thư bộ Hộ, kiêm Đô NgựSử, tước Diên Quận công. Bà là một phụ nữ nết na, thông minh, và xinh đẹp, lạisinh ra tại xứ Kinh Bắc vùng quê quan họ. Điều đó ảnh hưởng tốt đến hồn thơNguyễn Du từ những ngày còn bé.Năm Tân Mão [1771], Nguyễn Nghiễm thơi chức Tể tướng, về trí sĩ ở qnhà, Nguyễn Du theo cha về q. Tại bến Giang Đình, ơng được chứng kiếncảnh vinh hoa của gia đình mình [sau này ơng có nhắc lại trong bài thơ GiangĐình hữu cảm]. Năm Bính Thân [1776] Nguyễn Nghiễm mất, lúc đó Nguyễn Dumới lên 11 tuổi. Trong hơn 10 năm ấy, Nguyễn Du sống bên cạnh cha khôngnhiều. Năm 1778, bà Trần Thị Tần lâm bệnh rồi mất. Nguyễn Du mồ côi cha mẹ.Cha mẹ mất, Nguyễn Du về sống với gia đình quan tể tướng tại Tiên Điền. Thủaấy, dinh cư nhà Nguyễn Nghiễm rất nguy nga, đồ sộ. Người dân Nghi Xn hồiđó làm thơ tả cảnh nhà ơng như sau:Trèo lên Hồng Lĩnh mà trơngNhìn về đã thấy dinh ơng rõ ràngLâu đài dãy dọc tịa ngangƠng ngồi đọc sách nghiêm trang một mìnhThời gian này Nguyễn Du bước vào tuổi trưởng thành, việc ăn học đòi hỏingày một nhiều. Sau khi Nguyễn Nghiễm mất, gia cảnh không còn phong lưunhư trước. Đời sống cùng việc học hành của Nguyễn Du khơng được như khicịn cha mẹ. Tuy vậy với địa vị và danh tiếng của gia tộc, Nguyễn Du vẫn là cậu2 Chiêu bảy được mọi người ngưỡng mộ. Quãng thời gian này, ngoài việc họchành, những khi rỗi rãi, lễ tết, Nguyễn Du thường cùng với bạn trai phường hátTiên Điền vượt trng Hống đị Cài vào Trường Lưu hát ví và xướng họa thơphú. Qua những lần đi hát, Nguyễn Du thực sự có cảm tình với o Uy, o Sạ. Đãcó lần do mối thâm tình này mà gây ra bất hòa với trai Trường Lưu. Những nămsau này [sau 1786], khi từ Thái Bình về sống tại quê nhà, trở lại Trường Lưu gặplại người xưa, gặp lại cảm xúc thời trai trẻ, Nguyễn Du đã viết bài Văn tếTrường Lưu Nhị Nữ nổi tiếng.Cuộc đời Nguyễn Du gắn bó sâu sắc với những biến cố lịch sử của giaiđoạn cuối thế kỉ XVIII – đầu thế kỉ XIX. Đây là giai đoạn lịch sử đầy biến động,với hai đặc điểm nổi bật là chế độ phong kiến Việt Nam khủng hoảng trầmtrọng, bão táp phong trào nông dân khởi nghĩa nổi lên khắp nơi, đỉnh cao là khởinghĩa Tây Sơn đánh đổ các tập đoàn phong kiến Lê, Trịnh, Nguyễn, quét sạchhai mươi vạn quân Thanh xâm lược.Trong hoàn cảnh ấy, Nguyễn Du đã sống phiêu bạt nhiều năm trời trên đấtBắc [1786 – 1796] rồi về ở ẩn tại quê nội Hà Tĩnh [1796 – 1802]. Sau khi đánhbại Tây Sơn, Nguyễn Ánh lên ngôi [1802]. Sau đó, Nguyễn Du ra làm quan bấtđắc dĩ với triều Nguyễn. Năm 1813 – 1814, ông được cử làm chánh sứ sangTrung Quốc. Năm 1820, dưới triều Minh Mạng, Nguyễn Du lại được lệnh làmchánh sứ sang Trung Quốc lần thứ hai, nhưng chưa kịp đi thì bị bệnh và mất tạiHuế.Tiểu kết: Nguyễn Du là người có kiến thức sâu rộng, am hiểu văn hóadân tộc và văn chương Trung Quốc. Cuộc đời từng trải, đi nhiều, tiếp xúc nhiềuđã tạo cho Nguyễn Du một vốn sống phong phú và niềm thông cảm sâu sắc vớinhững đau khổ của nhân dân. Nguyễn Du là một thiên tài văn học, một nhà nhânđạo chủ nghĩa lớn.1.1.2 Sự nghiệp sáng tácSự nghiệp sáng tác văn học của Nguyễn Du gồm những tác phẩm có giátrị lớn bằng chữ Hán và chữ Nơm. Thơ chữ Hán có ba tập, gồm 243 bài. Sángtác chữ Nôm xuất sắc nhất là Đoạn trường tân thanh, thường được gọi là TruyệnKiều.1.2 Giới thiệu về Truyện KiềuTruyện Kiều là tác phẩm tiêu biểu nhất của thể loại truyện Nôm trong vănhọc trung đại Việt Nam. Viết Truyện Kiều, Nguyễn Du có dựa theo cốt truyệnKim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân [Trung Quốc]. Tuy nhiên, phần3 sáng tạo của Nguyễn Du là hết sức lớn. Chính điều này mới làm nên giá trị củakiệt tác Truyện Kiều.1.2.1 Tóm tắt tác phẩmPhần thứ nhất: Gặp gỡ và đính ướcThúy Kiều là một thiếu nữ tài sắc vẹn tồn, con gái đầu lịng một gia đìnhtrung lưu lương thiện, sống trong cảnh “êm đềm trướng rủ màn che” bên cạnhcha mẹ và hai em là Thúy Vân, Vương Quan. Trong buổi du xuân nhân tiếtThanh minh, Thúy Kiều gặp chàng Kim Trọng “phong tư tài mạo tót vời”. Giữahai người chớm nở một mối tình đẹp. Kim Trọng đến ở trọ cạnh nhà Thúy Kiều.Nhân trả chiếc thoa rơi, Kim Trọng đã gặp Kiều bày tỏ tâm tình. Hai người chủđộng, tự do đính ước với nhau.Phần thứ hai: Gia biến và lưu lạcTrong khi Kim Trọng về quê chịu tang chú, gia đình Kiều bị mắc oan,Kiều nhờ Vân trả nghĩa cho Kim Trọng, cịn nàng thì bán mình chuộc cha. ThúyKiều bị bọn bn người là Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh lừa gạt, đẩy vào lầuxanh. Sau đó nàng được Thúc Sinh, một khách làng chơi hào phóng, cứu vớtkhỏi cuộc đời kĩ nữ. Nhưng rồi Kiều bị vợ cả của Thúc Sinh là Hoạn Thư ghentuông, đày đọa. Thúy Kiều phải trốn đến nương nhờ nơi cửa Phật. Sư GiácDun vơ tình gửi nàng cho Bạc Bà – kẻ buôn người như Tú Bà, nên Kiều lầnthứ hai rơi vào lầu xanh. Ở đây, Thúy Kiều gặp Từ Hải, một anh hùng “đội trờiđạp đất”. Từ Hải lấy Kiều, giúp nàng báo ân báo oán. Do mắc lừa quan Tổngđốc trọng thần Hồ Tôn Hiến, Từ Hải bị giết, Thúy Kiều phải hầu đàn, hầu rượuHồ Tôn Hiến rồi bị ép gả cho viên thổ quan. Đau đớn, tủi nhục, Kiều trẫm mìnhở sông Tiền Đường. Nhưng nàng được sư Giác Duyên cứu và lần thứ hai Kiềunương nhờ nơi cửa Phật.Phần thứ ba: Đoàn tụSau nửa năm về Liêu Dương chịu tang chú, Kim Trọng trở lại tìm Kiều.Hay tin gia đình Kiều bị tai biến và nàng phải bán mình chuộc cha, chàng đauđớn vô cùng. Tuy kết duyên với Thúy Vân nhưng Kim Trọng chẳng thể nàongi được mối tình đầu say đắm. Chàng quyết cất công lặn lội đi tìm ThúyKiều. Nhờ gặp được sư Giác Duyên mà Kim, Kiều tìm được nhau, gia đình đồntụ. Chiều ý mọi người, Thúy Kiều nối lại duyên với Kim Trọng nhưng cả haicùng nguyện ước “duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy”.1.2.2 Giá trị nội dung4 Truyện Kiều có hai giá trị lớn là giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo.Truyện Kiều là bức tranh hiện thực về một xã hội bất công, tàn bạo, là tiếng nóithương cảm trước số phận bi kịch của con người, tiếng nói lên án, tố cáo nhữngthế lực xấu xa, tiếng nói khẳng định, đề cao tài năng, nhân phẩm và những khátvọng chân chính của con người như khát vọng về quyền sống, khát vọng tự do,cơng lý, khát vọng tình u, hạnh phúc…1.2.3 Giá trị nghệ thuậtTác phẩm là sự kết tinh thành tựu nghệ thuật văn học dân tộc trên cácphương diện ngôn ngữ, thể loại. Với Truyện Kiều, ngôn ngữ văn học dân tộc vàthể thơ lực bát đã đạt tới đỉnh cao rực rỡ. Với Truyện Kiều, nghệ thuật tự sự đãcó bước phát triển vượt bậc, từ nghệ thuật dẫn chuyện đến nghệ thuật miêu tảthiên, khắc họa tính cách và miêu tả tâm lí con người.Tiểu kết: Truyện Kiều hàng trăm năm nay đã được lưu truyền rộng rãi và có sứcchinh phục lớn đối với mọi tầng lớp độc giả. Tác phẩm đã được dịch ra nhiềuthứ tiếng và được giới thiệu ở nhiều nước trên thế giới.5 2. PHÂN TÍCH NHÂN VẬT THÚY VÂN, KIM TRỌNG VÀ VƯƠNGQUAN2.1 Phân tích nhân vật Thúy Vân2.1.1 Người phụ nữ theo chuẩn mực phong kiếnTrong bối cảnh xã hội phong kiến, cùng khn thước gia đình thì “cơng,dung, ngơn, hạnh” là thước đo chuẩn mực cho người phụ nữ thời bấy giờ vàThuý Kiều, Thuý Vân là những người con gái của chuẩn mực. Nếu Kiều là nhânvật đa sầu đa cảm với tư tưởng cấp tiến,chủ động... mang hơi hướng một ngườicon gái rất “lạ” [lạ so với chuẩn mực thời phong kiến ] thì Vân là mẫu người hàihồ, qn bình, chủ tỉnh... theo đúng chuẩn mực lễ giáo.Thuý Vân so phần nhan sắc không được chú ý bằng chị mình, nhưng đólại là một vẻ đẹp ưa nhìn, tạo cho người ngắm cảm giác thoải mái:“Vân xem trang trọng khác vời,Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.Hoa cười ngọc thốt đoan trang,Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”Bỏ qua chuyện mà bấy lâu nay chúng ta vẫn nói, tức miêu tả Vân để làmbàn đạp cho Kiều, chúng ta hãy thực lòng thừa nhận cái đẹp của Vân hài hoà vàhiền hoà. Nếu Kiều là đố hoa hồng kiêu sa, khó chăm sóc và mong manh dễ vỡthì Vân sẽ là đố mẫu đơn, lồi hoa được mệnh danh là “hoa hồng khơng gai”,lại cịn tượng trưng cho phú quý, giàu sang và cuộc hôn nhân hạnh phúc nhiềucon cháu. Vẻ đẹp của Vân mang chiều phúc hậu, khn mặt trịn “đầy đặn”,chân mày “nở nang”, thể hiện vẻ đẹp sang trọng, quý phái, toát lên nhân tướngphúc hậu khác với vẻ đẹp thanh tú, mày liễu của Kiều. Từ miêu tả dung mạo đếntính cách, Thuý Vân luôn mang nét đẹp cổ điển.Vẻ đẹp của Vân khơng chỉ tốt ra từ ngoại hình mà cịn cả tính cách. Mộtngười con gái ơn hồ, nhã nhặn “Hoa cười, ngọc thốt đoan trang” vừa ca ngợi vẻđẹp của đôi môi, của hàm răng ngọc ngà, vừa là yếu tố “ngơn” để đánh giá, khilời nói của nàng cũng là khn thước như chính tướng mạo. Và một người congái bình thường như thế, tạo hố sá chi mà ghen, mà hờn? Thế nên có “thua”, có“nhường” một chút cũng chẳng sao!Rồi đến “hạnh”, Cùng là chị em gái, cùng là con một nhà nhưng bẩm thụhai người khác nhau, mỗi người một vẻ, hình dạng khác nhau, tính khí khác6 nhau,nên cách nhìn nhận vấn đề cũng hồn tồn khác nhau. Tuy hai chị em đềucùng tuổi cập kê, cùng ở chốn kh phịng:“Êm đềm trướng rủ màn che,Tường đơng ong bướm đi về mặc ai”Rồi cũng như bao nhiêu người con gái khác, nàng cũng có thể kết hơn màkhơng cần tình u, như định kiến “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”. Đành rằng làmột hành động vì thương chị, giúp chị trả nghĩa người thương, nhưng ta cũngngạc nhiên thấy một sự chấp nhận bình thường đến mức tự mặc định của nàngVân với chính mình. Nàng khơng cầu tình u hay bất cứ gì cho riêng mình màln tn theo sự sắp đặt.“Vội vàng sắm sửa chọn ngày,Duyên Vân sớm đã se dây cho chàng.Người yểu điệu kẻ văn chương,Trai tài gái sắc xuân đương vừa thì,Tuy rằng vui chữ vu quy,Vui nào đã cất sầu kia được nào!”Cái sầu vu quy ở đây vốn chẳng phải là dành cho cuộc hôn nhân sắp đặt,mà là sầu vì người vắng mặt, bởi chữ “sầu”được chỉ rõ “sầu kia” chứ không ápvào điểm “vu quy”. Cho nên cuộc đời của Vân, trước sau vẫn là để mặc chongười sắp đặt.2.1.2 Thúy Vân – Một con người thấu tình đạt lý.Một minh chứng rất rõ ràng nữa để có thể kết luận rằng Thúy Vân là mộtngười con gái tinh tế và chừng mực, đó là trong đêm Thúy Kiều quyết định bánmình chuộc cha, nàng thao thức cả đêm với nỗi niềm đau đớn vì đã phụ tìnhchàng Kim, bèn nghĩ ra phương cách nhờ em chắp mối tơ thừa. Thúy Vân khi ấyđang mơ màng, mới chợt tỉnh giấc “Dưới đèn ghé đến ân cần hỏi han”: chịmình. Nàng rằng:“Cơ trời dâu bể đa đoan,Một nhà để chị riêng oan một mình.Cớ chi ngồi nhẫn tàn canh,Nỗi riêng cịn mắc mối tình chi đây?”7 Người đời sau trách nàng, cớ sao nhà có tai biến như thế mà có thể an tâmyên giấc được, nhưng nếu xét câu chữ của Nguyễn Du thì nàng không vô tâmnhư thế. Nhà gặp nạn, Thúy Kiều đã quyết bán thân để chuộc cha và em, nànghy sinh hạnh phúc lứa đơi của mình, Thúy Kiều đau đớn, nhưng nỗi niềm ấy chỉriêng Kiều biết. Để rồi khi Kiều đã đặt em vào tình thế đã rồi, vì thương chị phảihy sinh vì cả gia đình, vì thương chị đã phải gánh lấy trọng trách lớn lao, Vâncũng bằng lòng nhận “mối tơ thừa” ấy. Nàng chấp nhận thay chị trả nghĩa chochàng Kim, cũng là để chị có thể n tâm mà làm trịn chữ hiếu với cha mẹ.Mười lăm năm Kiều lưu lạc là mười lăm năm nàng cáng đáng chăm locho cho cả gia đình, cho chồng, cho em, là làm trọn chữ hiếu, làm vẹn chữ nghĩavới chị. Khi Kiều trở về, cũng chính nàng đã tự mình gán nghĩa lại cho chị, sẵnsàng san sẻ người chồng đã mười lăm năm chung sống, tuy tình có ít nhưngnghĩa cũng trọn. Có người cho rằng, thật đau xót cho Thúy Vân khi trong ngầnấy năm lúc nào Kim Trọng cũng nhớ về Thúy Kiều, Thúy Vân là vợ nhưng:“Vui là vui gượng kẻo làAi tri âm đó mặn mà với ai”Đâu ai thấu rằng, Thúy Vân làm như thế mới thực sự là người thấu tìnhđạt lí, hạnh phúc xẻ đơi nhưng xẻ đơi với chị của mình, với người chị đã hy sinhtuổi thanh xuân để cứu cả gia đình, với người chung máu mủ chứ đâu phải ai xalạ mà xót mà đau. Làm như thế Thúy Vân cũng đã đền bù cho chị những nămlưu lạc để khơng cịn phải áy náy, vì khi xưa để chị một mình chịu tủi cực. Hơnnữa đối với một người phụ nữ phong kiến như Vân thì cịn hạnh phúc nào hơnkhi lúc này đây gia đình đồn tụ êm ấm, con cháu đầy nhà “Một cây cù mộc,một sân quế hòe”, đã là hạnh phúc với nàng. Tình yêu của nàng là tình u biểnlớn cuộc đời nó vượt qua khỏi khn sáo tình u và hạnh phúc lứa đơi. Nàngquả la người con gái thấu tình đạt lý, biết nghĩ cho cha mẹ, cho chị như thế thậtđáng khâm phục và tinh tế hết mực.2.1.3 Một số quan điểm trái chiều của người đời sau về Thúy Vân Cho rằng Thúy Vân đáng trách và cay nghiệt với nàngViệc đánh giá một con người ngồi xã hội thực nói chung hay cụ thể làmột nhân vật trong văn học nói riêng, khó lịng có thể thống nhất giữa tất cả mọingười.Trong văn học từ xưa đến này, đã có khơng ít nhân vật mà sự tranh luậnvề chuyện đáng thương hay đáng trách vẫn khơng ngả ngũ. Dân gian có câu“chín người mười ý” là lẽ đó. Hơn nữa, điều này rất đúng với lí luận văn học8 hiện đại, bởi người đọc hồn tồn có thể tiếp nhận tác phẩm theo cách mìnhmuốn. Trong Truyện Kiều, bên cạnh nhân vật Hoạn Thư gây nhiều tranh cãi, thìThuý Vân, cô em gái cũng không kém phần xinh đẹp của Kiều cũng làm ngườiđời sau phải suy ngẫm xem nàng đáng thương hay đáng trách. Và dù có ngườicho rằng Thúy Vân trong truyện Kiều chỉ là một bức tranh nền nhưng vẫn khơngthể vì vậy mà phủ nhận được vai trò của nhân vật này trong tác phẩm.Trong truyện Kiều, Thúy Vân xuất hiện ít nhưng lại gây ra khá nhiềutranh cãi, bên cạnh sự đồng tình, thương cảm,có những tác giả đã đưa ra một sốnhận định mà gộp chung là nghiêng phần đáng trách về Thúy Vân. Đó là các tácgiả cùng tác phẩm của mình như:Nguyễn Hữu Khanh với bài “Thúy Vân”Dương Mạnh Huy với bài “Vịnh Thúy Vân”.Vương Trọng với bài “Môtip Thúy Vân”.Vũ Hạnh đã rất tinh tế khi phát hiện "Nhìn vào Thúy Vân ta không thấymắt, chỉ thấy lông mày và cái khn mặt no đầy trịn trịa" rồi ơng viết tiếpnhững dịng lý thú: "Thúy Vân có mắt, điều ấy thực hiển nhiên rồi. Mắt nàngchắc hẳn là đôi mắt đẹp, đôi mắt bồ câu, là đôi mắt phượng, hay bình dân hơn làđơi mắt lá răm. Mắt nàng chắc sáng, chắc đen, long lanh, tình tứ. Nhưng đơi mắtnàng chỉ là đôi mắt nằm trên khuôn mặt để làm đầy đủ lệ bộ của một khung diệnmà thôi. Nàng có nhìn thực, có thấy thực, nhưng nàng chỉ nhìn, chỉ nhìn thấybằng con mắt khác của người. Nấm mộ bên đường hoang lạnh, nàng cũng nhìnthấy như cậu Vương Quan, như nhiều kẻ khác hững hờ. Kim Trọng phong nhã,hào hoa nàng cung nhìn thấy như bao cơ gái thùy mị, hiền lành trong khung cửa.Cho đến gia biến của nàng tơi bời tan tác, nàng cũng nhìn thấy như nhiều kẻ vôtư êm đềm, say môt giấc xuân. Nàng thấy hay nàng khơng thấy, điều đó vẫnkhơng có gì đổi khác. Nàng thấy hay người khác thấy vẫn khơng đổi khác gìđâu.Chính vì thấy như khơng thấy, mà nàng nực cười khi nhìn Thúy Kiều“Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa”Thấy như nhà người khác mà nàng lấy chồng do người chị chọn nên. Cónhiên đó là cách nói để tránh miếng tĩnh từ đơn giản gán định quá dễ dàng chonàng. Nhưng một cô gái, sau cơn gia biến, ngủ vùi một giấc, rồi choàng tỉnh dậythấy chị ngồi khóc bên đèn lụn bắc một bình, buột miệng nàng hỏi rằng:“Cớ sao ngồi nhẫn tàng canh”?9 Thì thực giản dị vơ tình nhiều q. Ngày sau khi lấy chàng Kim, sốngmười lăm năm duyên nợ, mà buổi tái ngộ với Kiều, nàng đã nói về tấm lịng uKiều của kẻ chung chăn gối với mình trong bấy nhiêu lâu:“Những là rày ước mai aoMười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình ’’Thì thật hết sức thản hiên, lạnh lẽo tưởng như khơng cịn giữ cho riêngmình chút tự ái, một chút nhiệt tìnhCái nhìn Thúy Vân hiền lành, có một vẻ gì cam chịu đáng thương nhưngkhông tránh được một sự dễ dàng đáng ghét. Đôi con mắt ấy phóng ra tia nhìn làđể rập theo tình ý kẻ khác, miễn tình ý ấy thuộc về lẽ phải hiển nhiên, thuộc vềtrật tự đã được cuộc đời chấp nhận. Sự rập theo ấy hoàn toàn thụ động như đúctheo khuôn, khiến ta lầm tưởng tâm hồn nàng là thứ bột nếp đã được rây lọc mịnmàng. Như thế phỏng nàng có mắt hay khơng?Theo như Trần Huyền Nhung nhận xét, thứ nhất bà khơng hồn tồn đồngtình với nhân vật Thúy Vân về cuộc “trao duyên”. Đó là sự thỏa thuận bàn giaocủa Thúy Kiều “trao duyên” em gái là Thúy Vân cho Kim Trọng.“Một lời chị cậy trao duyênChẳng yêu – em phải trọn nguyền chàng KimGối chăn xô lệch bao đêmNỗi đau hạnh phúc im lìm Kiều ơi!”[Giọt lệ nàng Vân]Khi phải dứt lịng “trao duyên” cho em gái, Kiều cũng đau khổ lắm chứvậy mà Thúy Vân vẫn vơ tư đón nhận “dun” của chị mình. Nếu Vân là mộtcon người đa cảm và sâu sắc thì chắc chắn một điều: nàng sẽ chối từ “duyênthừa” của chị. Vì dẫu sao Kim Trọng cũng là một người mà Thúy Kiều đã từngtình cảm mặn nồng Vân thừa hiểu điều đó cớ gì mà phải “lấy người yêu chị sớmtrưa bẽ bàng”. Một điều dễ hiểu rằng: tính Vân vơ tư nên nàng cho đó là sự anphận.“Chị dù ln lạc xa xơiVẫn làm đau đáu mắt người tình xưaCịn em là vợ - như thừa10 Lấy người yêu chị sớm trưa bẽ bàng!”Dương Mạnh Huy gần như châm biếm khi nhìn thấy số phận ln mỉmcười với cơ em tốt số này:“Cái số dì Vân tốt lạ lùngSẵn nong sẵn né sẵn con bồngThoa vàng nguyền ước nhờ duyên chịThềm ngọc vinh hoa hưởng phúc chồng”[Vịnh Thúy Vân]Nguyễn Hữu Khanh có lẽ thương cơ chị nhiều gian trn lưu lạc nên nhìncơ em với con mắt nghiêm khắc và cũng hơi “ác khẩu”:“Tình chị thơi em đã hiểu rồi“Giả vờ” mà thử hỏi nhau chơiTơ dun nếu chấp người hơm nọKhơng lạy thì em cũng chịu lờiMây thua nước tóc tuyết nhường daCười nói đoan trang thế mới làTài sắc mặn mà đành kém chịNhân duyên phúc lộc chị nhường ta”[Thúy Vân]Vương Trọng người đã yêu Nguyễn Du đến đứt ruột “Cúi đầu tưởng nhớvĩ nhân/ Phong trần còn để phong trần như ai” [Bên mộ cụ Nguyễn Du] nhưnglại khá khe khắt đối với Thúy Vân :“Người đầy đặn má bầu bầu bánh đúcNàng thích đàn chẳng để ý gì thơĐặt mình xuống chẳng biết chi trời đấtNgáy thường nhiều hơn những giấc mơNhà có chuyện coi như người ngồi cuộc11 Vẫn ăn no ngủ kỹ như khơngCần chi hẹn hị cần chi thề thốtChẳng yêu đương cũng lấy được chồng…”[Mô típ Thúy Vân]Nghiệt ngã hơn Vương Trọng xếp Thúy Vân vào loại người có tầmhiểu biết thường thường thiếu vắng những xúc động thẩm mỹ.“Ta lạc lõng giữa cuộc đời trần tụcThi ca ơi người phù phiếm vô ngầnQuanh ngày tháng phố phường ta gặpVắng Thúy Kiều và chen chúc Thúy Vân”[Mơ típ Thúy Vân]Cứ ngỡ rằng hai chị em đã hiểu nhau từ cái đêm trao duyên ấy Kiều đãphải hạ mình xuống để “Cậy em em có chịu lời/ Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽthưa”.Tưởng rằng, Vân hiểu chị nên mới nhận lời lấy chàng Kim làm chồng đóchứ. Hóa ra có thể vì quyền lợi cá nhân: mang tiếng làm vợ chàng Kim nhưngVân không được “mặn nồng” như chị. Cũng vì lịng ích kỷ khơng có tấm lịngcao thượng vị tha như nàng Kiều nên Vân ốn trách chị là thế đó. Có thể rấtnhiều người đồng tình nhỏ lệ khóc thương cho số phận của nàng Vân đấy vàphần đông người ta lắng nghe được “Giọt lệ nàng Vân” nhiều.Về phần cá nhânTrần Huyền Nhung cho rằng cứ thấy ngượng và sượng làm sao đấy khi ThuýVân vờ đóng kịch là đau khổ khi nhận “duyên thừa” của chị. Thường “đồ thừa”là đồ bỏ đi ai lại đi hốt làm gì thế mà Vân nhận rồi lại than thở. Cũng như “ruộtthừa” người ta cũng cắt đi cho khỏi đau… Âu cũng là số phận nếu như Vân hiểuđược điều đó thì tâm hồn sẽ nhẹ nhàng biết bao.Phải chăng, Vân điềm nhiên vui hưởng hạnh phúc bên chàng Kim “phongtư tài mạo tót vời” mà không cần biết tới ai đã phải trả giá cho hạnh phúc củanàng? Thế nhưng, cũng chính nàng Vân, trong cảnh gia đình đồn tụ, lại có mộtứng xử khá bất ngờ:“Bây giờ gương vỡ lại lànhKhuôn thiêng lừa lọc đã dành có nơi.Cịn dun may lại cịn người,Còn vừng trăng bạc, còn lời nguyền xưa.12 Quả mai ba bảy đương vừa,Đào non sớm liệu xe tơ kịp thì”Có thể nói, đáng chê hay đáng trách Thúy Vân còn tùy cách đánh giá vàcảm nhận của mỗi người, nhưng có lẽ bài viết sẽ dành phần nhiều thương cảmcho nhân vật Thúy Vân hơn. Thúy Vân lại đồng ý thay Kiều trả nghĩa KimTrọng. Có ý kiến cho rằng, Thúy Vân hời hợt, vô cảm khi dễ dàng chấp nhận lờitrao duyên của Kiều. Nhưng, thử hỏi rằng, Thúy Vân có thể từ chối sao? Trongkhi nàng đã hiểu được tấm lòng, sự hi sinh cao cả của Thúy Kiều khi quyết địnhvì chữ “hiếu” mà bỏ chữ “tình”? Sự đồng ý ở đây thể hiện một lịng cảm thơngsâu sắc của Thúy Vân đối với chị, nàng chấp nhận một sự hi sinh - hi sinh tuổixn và hạnh phúc của mình. Ai có thể nói rằng: đây là sự cơng bằng, ưu ái củatạo hóa đối với Thúy Vân trong khi đã “tước đoạt” đi quyền hưởng thụ tuổi xuânvà tự do tìm kiếm tình u, hạnh phúc đích thực của nàng nếu khơng muốn nóilà Thúy Vân buộc phải chấp nhận sự hi sinh ấy.Hơn nữa, quãng thời gian mà Thúy Vân chung sống với Kim Trọng - mộtngười chồng mà chưa bao giờ tỏ ra là chung thủy, 15 năm chàng Kim luôn tưởngnhớ đến người xưa và cũng là 15 năm mà nàng Vân phải sống trong sự thờ ơ,hững hờ:“Vui là vui gượng kẻo làAi tri âm đó mặn mà với ai”Rõ ràng, đây không phải là quãng thời gian hạnh phúc mà nhiều ngườivẫn cho rằng Thúy Vân được hưởng. Nếu như 15 năm lưu lạc của Kiều là 15năm đầy sóng gió, vất vả, truân chuyên xen lẫn khổ đau và nước mắt thì 15 nămsống với Kim Trọng của Thúy Vân chẳng khác gì “một cực hình dành cho tâmhồn” một người con gái vẫn còn đang tràn đầy sức sống và lòng yêu đời. Mộtngười con gái đẹp như Thúy Vân đáng phải được hưởng hạnh phúc, tình uđích thực chứ khơng phải là một thứ tình yêu “thừa”, tình yêu “chắp nối”:“Gặp cơn bình địa ba đàoNên đem duyên chị buộc vào duyên em.”Bi kịch thứ hai trong cuộc đời Thúy Vân là bi kịch của một con người cótrái tim nhân hậu. Bởi sau 15 năm lưu lạc, Thúy Kiều được đoàn tụ với gia đình,đây thực sự là niềm vui khơn tả đối với tất cả mọi người. Nhưng còn Thúy Vân?Nàng vui, nhưng có lẽ niềm vui chưa kịp cất cánh bay lên thì đã bị nỗi buồn, nỗiđau xót ghì chặt xuống và giày xé tâm can. Bởi Thúy Kiều trở về cũng có nghĩa13 là người mà Kim Trọng luôn tưởng nhớ suốt 15 năm qua đã trở về. Những tưởngrằng, Thúy Vân sẽ lại im lặng như trong đêm Kiều trao duyên. Nhưng không,nàng đã chủ động đứng lên đặt vấn đề “Thúy Kiều nên thành hôn với KimTrọng”. Bởi nàng hiểu rằng, suốt 15 năm qua, tuy sống với nhau như vợ chồngnhưng cả lí trí và trái tim của Kim Trọng đều dành hết cho Thúy Kiều:“Những là rày ước mai aoMười lăm năm ấy, biết bao là tình!”Và như một người cầm cán cân công lý, để trả lại sự cơng bằng cho ThúyKiều trước những gì mà nàng đã phải trải qua trong suốt 15 năm lưu lạc. ThúyVân đã dũng cảm nói lên suy nghĩ của mình - suy nghĩ thật thấu đáo nhưng cũngthật xót xa cho số phận mình:“Bây giờ gương vỡ lại lànhKhn thiêng lừa lọc đã dành có nơi.Cịn dun, may lại cịn người,Cịn vầng trăng bạc, còn lời nguyền xưa.Quả mai ba bảy đương vừaĐào non sớm liệu xe tơ kịp thì!”Ta nhận ra ở Thúy Vân có một trái tim nhân hậu biết nhường nào, nàngthật tinh tế và cao thượng khi trả lại chàng Kim - trả lại người chồng đã 15 nămchung sống cho chị mình. Nhưng nàng cũng thật đau đớn biết bao khi phải xácnhận một sự thật, sự thật về duyên phận của mình - cái duyên “chắp nối” sẽchẳng bao giờ tồn tại mãi mãi.Nỗi đau, bi kịch của cuộc đời Thúy Vân càng nhân lên gấp bội khi mà cáihạnh phúc dù là mong manh, dù là hờ hững nhưng là duy nhất của nàng, cáihạnh phúc mà nàng đã phải hi sinh cả tuổi xn và quyền tự do mưu cầu tìnhu đích thực của mình để có được bây giờ lại phải chính tay mình trao lại chongười khác. Với Thúy Vân, có lẽ giờ đây với nàng hạnh phúc gia đình là tất cả.Bởi thử hỏi rằng, cuộc đời nàng cịn gì ngồi hai chữ “gia đình” khi mà tuổi trẻ,cái tuổi khao khát yêu đương và tìm kiếm tình yêu, hạnh phúc đích thực đã điqua. Thế nhưng, cái hạnh phúc gia đình đó những tưởng sẽ là của riêng nàng bâygiờ lại phải chia sẻ cùng với chị.Đau xót hơn nữa cho nàng Vân khi phải ngày ngày chứng kiến chồngmình gần gũi, yêu thương người khác. Vẫn biết rằng, xã hội phong kiến công14 nhận sự tồn tại của quan niệm “trai năm thê bảy thiếp”. Nhưng thử hỏi, liệu cóngười phụ nữ nào, trong bất kì xã hội nào mà khơng biết buồn, biết đau, biếtghen khi chồng mình yêu thương một người phụ nữ khác? Ai đó có thể nói rằng,giữa Thúy Vân và Kim Trọng khơng có tình cảm với nhau, họ chỉ là vợ chồngtrên danh nghĩa như vậy Thúy Vân sẽ không biết buồn, biết đau. Cứ cho là, 15năm trước Thúy Vân đến với Kim Trọng không phải do tình yêu nhưng “lửa gầnrơm lâu ngày cũng bén”, 15 năm là vợ chồng chung sống với nhau chẳng lẽ giữahọ lại khơng nảy sinh chút tình cảm nào? Có thể, tình cảm đó khơng phải là tìnhu nhưng 15 năm để xây dựng nên tình nghĩa vợ chồng là điều hồn tồn cóthể.2.2 Phân tích nhân vật Kim Trọng2.2.1 Ngoại hình – gia thế - tài năng của nhân vật Kim TrọngNhân vật Kim Trọng được đại thi hào Nguyễn Du miêu tả hình dáng từ lúc đangcưỡi ngựa đằng xa cho đến khi lại gần:Trông chừng thấy một văn nhân,Lỏng buông tay khấu bước lần dặm băng.Đề huề lưng túi gió trăng,Sau lưng theo một vài thằng con con.Tuyết in sắc ngựa câu giòn,Cỏ pha màu áo nhuộm non da trờiƠng đã dùng ngịi bút tài tình của mình để vẽ nên khung cảnh lần đầu tiên gặpnhau giữa Kim Trọng và Thúy Kiều, để từ đó tạo nên mối tình đầu tuyệt đẹp giữa haingười. Hình ảnh chàng Kim thong dong cầm dây cương để ngựa ung dung bước từngbước một, làn gió mơn mởn lùa vào tay và sống áo của chàng khiến chàng giống nhưđang cõng theo gió và trăng bên mình; đằng sau là những thư đồng lóc cóc đi theo.Phong thái của chàng trang nhã, đậm chất quý tộc của một thiếu gia cơng tử xuất thântừ gia đình trâm anh. Cảnh tượng chàng xuất hiện đẹp đến nỗi mọi người xung quanhcứ ngỡ vó ngựa của chàng đang dẫm lên một vùng tuyết trắng khơng thực, cịn cả bầutrời thì bị nhuộm xanh bởi màu áo của chàng, trở thành cảnh nền của chàng. Mọi cửchỉ, hành động của chàng đều rất mực nho nhã, hào hoa:Nẻo xa mới tỏ mặt người,Khách xa xuống ngựa tới nơi tự tìnhKhi sắp đến gần chị em Thúy Kiều, chàng xuống ngựa rồi mới tiến đến. Mỗibước đi của chàng khiến cảnh vật xung quanh bừng sáng như có gió xuân lướt qua:Hài văn lần bước dặm xanh,15 Một vùng như thể cây quỳnh cành dao.Đối với thi sĩ, cây quỳnh cành dao là biểu tượng cho vẻ đẹp hịa hoa, là lồi hoađẹp nhất thời xưa. Nguyễn Du dùng lối so sánh như vậy muốn cho độc giả nhìn thấyđược vẻ thư sinh, bậc hào hoa cơng tử trong nhân vật chính của mình. Khơng nhữngvậy, đại thi hào Nguyễn Du ln gắn hình ảnh của Kim Trọng với màu xanh của câylá, của sắc trời đầy thanh tân và tràn đầy sức sống, tựa như tình cảm mới chớm nở giữađơi trai tài gái sắc. Đó dường như là một ẩn dụ đầy độc đáo của cụ Nguyễn Du khidùng màu sắc để miêu tả nội tâm nhân vật.Khơng chỉ có vẻ ngồi hào hoa, phong nhã, Kim Trọng cịn có một xuất thâncao q và tài năng xuất chúng:Nguyên người quanh quất đâu xaHọ Kim tên Trọng vốn nhà trâm anhNền phú hậu, bậc tài danhVăn chương nết đất, thơng minh tính trờiKim Trọng chính là nhân vật đã hưởng trọn sự ưu ái của tạo hóa: vừa có vẻngồi tuấn tú, vừa có tài năng tuyệt đỉnh, vừa có gia thế tốt. Chúng ta khơng thể tìmđược một khuyết điểm nào về con người chàng. Thế nhưng sự hồn mĩ của chàngkhơng khiến tự nhiên ganh ghét như Thúy Kiều, ngược lại thiên nhiên chấp nhận trởthành khung nền mỗi khi chàng xuất hiện, báo hiệu cho một tương lai sn sẻ, bình ancủa chàng.Nguyễn Du đã sử dụng một hệ thông từ ngữ Hán Việt để nói về Kim Trọng vớitất cả sự quý mến, trân trọng, đồng thời thể hiện tính cách nhân vật trên bình diện xãhội: trâm anh, phú hậu, tài danh, thông minh, phong tư, tài mạo, phong nhã, hào hoa.Đó là tất cả những lời khen của Nguyễn Du dành tặng cho nhân vật này.2.2.2 Phẩm chất của nhân vật Kim Trọng2.2.2.1 Tình yêu sâu sắc đối với Thúy KiềuTác phẩm Truyện Kiều có 3.254 câu thơ lục bát, nhưng theo nhà thơ XuânDiệu, tác giả Nguyễn Du đã dành đến một phần tám tác phẩm này mà xây dựng nênmối tình Kiều - Kim, “cố đem tài mình mà tả tình yêu của hai người ấy” [], để rồimỗi khi gấp trang sách lại, bao buồn vui, bao xót xa, thương cảm cứ đầy vơi tronglịng người đọc... Trong kho tàng truyện Nôm của nước ta, cả truyện Nơm văn nhânhay truyện Nơm bình dân, chưa có một mối tình của đơi “tài tử - giai nhân” nào màđể lại nhiều rung cảm đậm sâu như thế!16 Nguyễn Bách Khoa khi phê bình "Tâm tính các vai trò" trong cuốn "Nguyễn Duvà Truyện Kiều" đã nhận xét một cách chí lý như sau: "Khơng ai dám chối cãi rằngKim Trọng là một người tối ư đa tình. Hình chàng chỉ sống được bằng tình yêu. Mặttrời đối với cây cỏ thế nào thì tình yêu đối với Kim Trọng thế ấy". Cho nên trong lúchạnh ngộ Thúy Kiều đầu tiên vào "tuần đố lá" "cỏ non xanh tận chân trời, cành lê trắngđiểm một vào bông hoa", đứng ở tâm lý Kim Trọng, đại thi hào Nguyễn Du đã thốtlên: "May thay giải cấu tương phùng" để biểu lộ tất cả niềm hân hoan chan chứa củachàng. Thế là Kim Trọng yêu Thúy Kiều ngay, yêu tức khắc, khơng đắn đo do dự, hìnhnhư chất u đã chứa sẵn trong tiềm thức chàng, trong tận đáy lòng chàng; nó chỉ chờcơ hội là bộc phát ra một cách mạnh mẽ, chẳng gì ngăn cản nổi. Và trước sự gặp gỡbất ngờ kia, chàng đã chới với, bàng hồng như đứng vào một thực tại khơng tưởng,chàng lặng người đi, chẳng thốt nên lời được – cái sung sướng ngây ngất đã làm chomình quên ngay cả cái hiện hữu cũng như sự hiện diện của mình bên cuộc đời, nhất làkhi sự ngây ngất ấy còn pha lẫn một chút gì thiêng liêng huyền bí. Giờ đây chàng chỉthấy :Chập chờn cơn tỉnh cơn mêvì vậy:Rốn ngồi chẳng tiện, dứt về chỉn khôn.Kim Trọng và ngay cả Thúy Kiều nữa – "Người quốc sắc, kẻ thiên tài" ấy,thượng đế sinh ra có lẽ để cho họ yêu nhau, tìm về nhau – cứ mơ màng, mặc dù: "Tìnhtrong như đã " nhưng " mặt ngồi cịn e". Cho nên trước cảnh "bóng tà như giục cơnbuồn", chàng đã lên ngựa chạy rồi mà nàng vẫn đứng sững nhìn theo giải bụi mờ nhưluyến lưu tiếc nuối một cái gì đã mất mát, chẳng bao giờ tìm lại được nữa. Ở đây nóivề tâm lý nghệ thuật, ta thấy Nguyễn Du thật là tế nhị và tuyệt diệu. Trong phút hộingộ đầu tiên với sự yêu đương có sẵn từ trước – dù đơi trai gái đã có lần diện kiến, haychỉ gặp nhau trong tưởng tượng, mà tưởng tượng thì tình u lại cịn đậm đà tha thiếthơn nữa – đôi trai gái bao giờ cũng rụt rè, bỡ ngỡ, e thẹn. Họ chỉ biết nhìn nhau lén lútmà chẳng nói nên lời. Bản tính của người con gái Á Đông ta, nhất là vào thời đại TốNhư, thời mà Nho giáo chiếm địa vị độc tôn, vốn trầm lặng, e dè. Tư tưởng, ý nghĩ củahọ ln ln diễn biến một cách thầm kín. Kim Trọng đương mang nặng một khốitình, nhưng trước một Thúy Kiều đoan trang, nề nếp không cho phép chàng bộc lộ mộtcách trắng trợn và thốt lên một lời nào. Thế nhưng, trầm lặng bao giờ cũng thâm thúyhơn hành động. Sự trầm lặng đưa ta vào những suy tư rồi tưởng tượng; và nhờ thôngcảm, sự suy tư và tưởng tượng ấy càng trở nên đẹp đẽ với ý tình của chúng ta! Hơnnữa, cái yên lặng trong trường hợp Kim-Kiều gặp gỡ đầu tiên này là sự im lặng biểuđồng tình. Khơng cần bộc lộ ra, chỉ nhìn vào khóe mắt, nụ cười, dáng đi, cách đứng ...ta cũng đã cảm thông quá rồi. Sự yên lặng ở đây "nói" rất nhiều và thiêng liêng làmsao! Nó làm cho Kiều phải suy nghĩ vấn vương và chính nó đã gói ghém tất cả cái giátrị của con người Kim Trọng. Kết quả đầu tiên của mối tình ta đã thấy : "Khách đà lênngựa, người còn ghé theo".17 Một người không sành khoa tâm lý, sẽ cho Kim Trọng bộc lộ hết nỗi lịng củamình trong buổi sơ ngộ nầy; và nếu như vậy thì Thúy Kiều sẽ xem thường Kim Trọngbiết bao! Chàng là kẻ đi tìm người u và cầu xin nàng rủ lịng đối lại kia mà! Ngườicon trai lần đầu tiên gặp gỡ một cơ gái, muốn cho nàng chú ý đến mình, mình phải tỏra có một "thái độ bất cần" – tuy rằng trong thâm tâm lại "rất cần" – với tất cả sự tế nhịdè dặt của nó; sự "bất cần" ấy nâng ta lên một địa vị cao hơn! Nhưng đó chỉ là phútban đầu, cái phút chinh phục lẫn mời đón, cái phút giao hịa kết nghĩa để tìm về nhautrong một hướng đi của cuộc đời. Với yên lặng, Kim Trọng đã lọt vào mắt xanh củaThúy Kiều, đã ngang nhiên ngự trị trong trái tim nàng :Người đâu gặp gỡ làm chi,Trăm năm biết có dun gì hay khơng?n lặng chưa đủ, tình u bao giờ cũng được kết dệt bằng tất cả bản sắc phứctạp của nó : thương nhớ, mong chờ, đau khổ, hân hoan, mộng mị ... Byron đã nói :"Chết cho người đàn bà mình yêu dễ dàng hơn là sống chung với họ". Kim Trọng, conngười đa tình ấy, từ hơm gặp Thúy Kiều trong buổi chiều xuân kia, đã bắt đầu xaoxuyến, bâng khng. Hình bóng nàng như ln ln phảng phất bên chàng, làm chochàng vẩn vơ thương nhớ, tâm thần uể oải giữa mối sầu dằng dặc khôn khuây ... Trướckia chàng siêng năng bao nhiêu thì giờ đây chàng biếng nhác bấy nhiêu: ngày đêm chỉcòn biết ngồi thừ ra như kẻ đần độn để tưởng nhớ rồi than thở. Và khi thực tại tâm tưbị dồn ép, khơng được thỏa mãn thì "bụi hồng lẽo đẽo đi về chiêm bao"; chỉ có chiêmbao, chàng mới hy vọng tìm gặp lại nàng với những ao ước mong đợi. Nhưng đã gọi làchiêm bao thì làm gì có thực? Con người nàng chẳng khác gì bóng câu qua cửa sổ,chàng chỉ gặp nàng trong mộng tưởng rồi khi tỉnh dậy thì than ơi, sự thật phũ phàng biđát làm sao! Chàng chỉ cịn biết thở dài :Ví chăng dun nợ ba sinh,Làm chi những thói khuynh thành trêu ngươi?Tuy nhiên khi yêu ai, người ta bao giờ cũng hy vọng, mặc dù hy vọng trong sựngờ vực – Đó là hai ý tưởng mâu thuẫn nhau thường hay xuất hiện trong lĩnh vực áitình. Vì quá yêu thương, người ta mến chuộng tất cả những gì liên quan đến ngườiyêu. Ở đây Kim Trọng cũng thế, nhớ Thúy Kiều, chàng lại dời gót đến nơi gặp gỡnàng đầu tiên để tìm chút hương thừa hay một sự kỳ ngộ lần thứ hai. Và lẽ dĩ nhiên đóchỉ là cơng dã tràng xe cát, Kim Trọng lại đi vơ vẩn lục lọi tìm kiếm Thúy Kiều chođến một lúc chàng dừng lại trước nhà nàng. Nhưng dù đấy là nhà nàng thật thì chàngđã làm gì được, khi hai bên chưa nói với nhau một lời; vả lại thực tại cũng rành rành ratrước mắt chàng đó: "thâm nghiêm, kín cổng, cao tường" hay "mấy lần cửa đóng thencài". Song:Cho hay là giống hữu tình,18 Đố ai gỡ mối tơ mành cho xong.nên chàng cũng vẫn "tần ngần đứng suốt hồi lâu".Cũng như phần nhiều mối tình khác của con người, Kim-Kiều đã gặp nhautrong sự ngẫu nhiên. Không kể cuộc hội ngộ đầu tiên, giờ đây một sự may mắn khácđã xảy ra để cho mối tình của đơi trai tài gái sắc kia càng thêm khăng khít: Sau khiKim Trọng th căn phịng trống bên cạnh nhà Thúy Kiều để trọ học, hôm nọ "lần theotường gấm dạo quanh", chàng đã nhặt được một cành kim thoa. Đó là chiếc trâm vàngcủa nàng. Cơ hội đã đến! Thêm một lần nữa Kim Trọng gặp gỡ Thúy Kiều. Nói làmsao hết được nỗi vui sướng của chàng bấy lâu nay mong chờ ngóng đợi! Tình u củachàng giờ đây đã chín muồi, chàng khơng còn rụt rè giữ ý như phút đầu gặp gỡ nữa.Chàng đắm đuối nhìn nàng để rồi sau đó thổ lộ những nỗi nhớ thương của mình màbao ngày tháng đã ấm ức, rạo rực chỉ chờ một dịp để tn trào hết ra. Kim Trọng nóitất cả khơng một chút giấu giếm, e thẹn; nói thao thao bất tuyệt để van xin kêu nàicũng như "ép buộc" nàng chạnh nghĩ đến tấm thân bèo bọt với mối chân tình dào dạtkia của chàng :Rằng: "Từ ngẫu nhĩ gặp nhau,Thầm trơng, trộm nhớ, bấy lâu đã chồn.Xương mai, tính đã rũ mịn,Lần lừa, ai biết hãy cịn hơm nay !Tháng tròn như gởi cung mây,Trần trần một phận ấp cây đã liều !Tiện đây xin một hai điều,Đài gương soi đến dấu bèo cho chăng?"Trong đoạn này Trương Tửu đã nhận định như sau: "Vì thế nên đã yêu thì phảisầu, phải nhớ, phải chờ. Và sau rốt phải táo bạo. Sự táo bạo là sự phóng cảm rất cầnthiết để kết tinh đột ngột cái tình yêu đã chớm nở thành thực tế". Lúc phải táo bạo màkhông táo bạo, lúc chưa nên táo bạo mà táo bạo là không hiểu đến luật yêu đương – làthất bại. Kim Trọng đã yên lặng phải lúc. Khi hai người yêu nhau – yêu một cách chânthành như mối tình Kim-Kiều họ cầm tay nhau, hôn nhau ... Những hành động ấy ta cóthể cho là táo bạo khơng ? Phải tế nhị mà nói rằng khơng! Những hành động ấy vơ vịlợi; đó chỉ là cách bộc lộ của một tình yêu đương độ dạt dào, một chứng vật cho thấyhai người yêu nhau, và hành động kia là một hành động vơ ý thức ! ... Ai tình thườngđược kết đúc và nảy nở trong sự thành thật của đôi trai gái. Với những lời lẽ tha thiết19 nhưng chân thực của Kim Trọng, Thúy Kiều đã bị "quyến rũ" để dấn bước vào cõi yêuđương :Lắng nghe lời nói như ru,Chiều xuân dễ khiến nét thu ngại ngùng.Và:Đã lòng quân tử đa mang,Một lời vâng tạc đá vàng thủy chung.Thế là chàng đã thắng. Kim-Kiều giờ đây đương nhiên là đơi tình nhân và họ đivề với nhau trong tiếng gọi của ái tình ... Suốt từ khi họ gặp nhau lần đầu cho đến lúc"Vầng trăng vằng vặc giữa trời, Đinh ninh hai miệng, một lời song song", ta thấy tâmlý của Kim Trọng đã diễn biến một cách có nghệ thuật và hợp lý. Tâm lý ấy không ướclệ và chẳng xa vời chúng ta. Đó là một tâm lý sống động thiết thực, khiến cho mối tìnhđầu giữa Kim Trọng và Thúy Kiều ghi dấu ấn sâu đậm trong lòng biết bao đọc giả, vàđưa nhân vật Kim Trọng trở thành bạch mã hoàng tử trong lịng biết bao cơ gái.2.2.2.2 Lịng thủy chung và tín nghĩa trong tình uKim Trọng có một đức tính vơ cùng đáng q, đấy là sự thủy chung và lịng tínnghĩa của chàng. Đó là điểm nổi bật nhất làm cho ta có cảm tình với chàng hơn cả.Mặc dù đã lấy Thúy Vân làm vợ, nhưng chàng bao giờ cũng tưởng nhớ đếnThúy Kiều giờ đây phải lặn lội ở nơi chân trời góc bể, chẳng biết sống chết thế nào.Nỗi nhớ thương của chàng dạt dào và bi thiết làm sao! Chàng lấy Thúy Vân chỉ vìnghĩa chớ đâu phải vì tình ? Cho nên hơm nay trước duyên mới "người yểu điệu, kẻvăn chương", Kim Trọng cũng không sao vơi được nỗi khổ sầu :Tuy rằng vui chữ vu quy,Vui nầy đã cất sầu kia được nào!Khi ăn ở, lúc ra vào,Càng âu duyên mới, càng dào tình xưa.Lịng nhớ thương chung tình ấy cịn tỏ rõ trong cách đối xử của chàng với nhạcgia. Trong cơn hoạn nạn khốn cùng của gia đình Thúy Kiều, Kim Trọng đã rước mờihai ông bà Viên ngoại về ở với mình để sớm hơm hầu hạ thay nàng. Thế chưa đủ,chàng lại cho người tủa ra bốn phương trời để tìm kiếm nàng một cách chân thành,20 mặc dù giờ đây chàng đã làm nên chức phận, sống trong cảnh giàu sang có kẻ hầungười hạ : Chàng có thấy gì sung sướng đâu khi lịng mang nặng một gánh sầu :Bình bồng cịn chút xa xơi,Đỉnh chung sao nỡ ăn ngồi cho an!Rắp mong treo ấn từ quan,Mấy sơng cũng lội, mấy ngàn cũng pha.Giấn mình trong áng can qua,Vào sinh ra tử họa là thấy nhau.Một kẻ chí tình như vậy, trách gì sau nầy gặp lại Thúy Kiều, con người đã mườilăm năm luân lạc với biết bao gió dập sóng vùi, chàng cũng nhìn nàng bằng đơi mắttha thiết của ngày xưa và gợi lại lời thề năm cũ để xin cùng nàng kết tóc xe tơ. Cảmđộng làm sao chàng trai có một không hai ấy!Xưa nay trong đạo đàn bà,Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường:Có khi biến, có khi thườngCó quyền, nào phải một đường chấp kinh.Như nàng lấy hiếu làm trinh,Bụi nào cho đục được mình ấy vay?Chàng đã đi đúng theo con đường của các vị tiên nho vạch sẵn: hiểu rõ lẽ quyềnbiến một cách sâu xa, khơng hẹp hịi câu nệ.Tiểu kết: Tóm lại Kim Trọng là một người khả ái, rộng lượng, biết ăn ở phải phép.Tâm lý của chàng là một tâm lý tế nhị và sống động. Và sau rốt, chàng là một tìnhnhân lý tưởng có thủy chung!2.3 Phân tích nhân vật Vương QuanVương Quan [王王]: con trai út của Vương ông, Vương bà, em của Vương ThuýVân và Vương Thuý Kiều. Vương Quan xuất hiện dưới ngịi bút của NguyễnDu:Có nhà viên ngoại họ Vương,21 Gia tư nghĩ cũng thường thường bậc trung.Một trai con thứ rốt lịng,Vương Quan là chữ, nối dịng nho gia.Chính vì thế, đọc giả hầu như chỉ biết đến Vương Quan là một chàng nhosinh được sinh ra và được dạy dỗ trong gia đình Nho gia chính thống. Tuy ởchàng ln tốt lên vẻ cốt cách tao nhã của người văn sĩ nhưng vẫn mang chút tưtưởng “trọng nam khinh nữ”. Như trong dịp tiết Thanh Minh, ba chị em Kiềucùng đi dự hội Đạp Thanh. Trên đường về, gặp mộ Đạm Tiên, một người ca kỹtừng nổi danh về cả tài lẫn sắc nhưng yểu mệnh. Nghe Vương Quan kể lại cuộcđời Đạm Tiên, Kiều bỗng nghẹn ngào thương xót cho số phận đắng cay củanàng ca kỹ và linh cảm rằng số mệnh mình rồi cũng đau khổ chẳng kém ngườitrong mộ. Riêng Vương Quan dù biết rõ số phận Đạm Tiên nhưng vẫn vô cảm,thờ ơ khơng chút ưu phiền.Quan rằng: "Chị nói hay sao,Một điều là một vận vào khó nghe!Ở đây âm khí nặng nề,Bóng chiều đã ngả, dặm h cịn xa.Kiều rằng: "Những đấng tài hoa,Chết là thể phách, còn là tinh anh.Dễ thay tình lại gặp tình,Chờ xem ắt thấy hiển linh bây giờ.Tính cách Vương Quan tuy khơng được miêu tả rõ rệt bằng hai người chịcủa mình nhưng qua đơi dịng ta cũng biết được chàng là người có cách hành xửchuẩn mực hiện lên rõ nét nhất. Chàng học chữ Nho cùng với KimTrọng:“Chàng Vương, quen mặt ra chào”. Nhờ sự quen biết nhau mà KimTrọng - một người bạn đồng học của Vương Quan đã đến chào hỏi ba chị em.Sau đó, tình cảm giữa Kim – Kiều đã nảy sinh và cảm thấy quyến luyến nhau:"Người quốc sắc, kẻ thiên tài; Tình trong như đã, mặt ngồi còn e.”Đọc nhiều sách Nho gia, Vương Quan nhận thức được rằng người qn tửphải đỗ đạt cơng danh. Vì thế, chàng chuyên tâm vào việc học hành. Khi giađình rơi vào hoàn cảnh bị mắc vạ thằng bán tơ, Thúy Kiều phải bán mình chuộccha, Vương Quan là một nho sinh am hiểu sự học nhưng lại không thể giúp đượcgì cho cha của mình. Ở đây, ta khơng thể phê phán được vì bởi lẽ đó chính là22 dụng ý của Nguyễn Du. Như trong hoàn cảnh cha bị bắt, mình cũng bị tù oan,chàng sẽ làm được gì để thốt ra ngồi rồi đem tiền đến chuộc cha, đó là chưa kểtrong nhà lúc này tiền vàng không đủ để chuộc người. Ngay cả khi sau này ThúyKiều nhắc lại chuyện gia đình cũng đã có đoạn:Nhớ ơn chín chữ cao sâu,Một ngày một ngả bóng dâu tà tà.Dặm nghìn nước thẳm non xa,Biết đâu thân phận con ra thế này!Sân hịe đơi chút thơ ngây,Trân cam ai kẻ đỡ thay việc mình.Nhớ lời nguyện ước ba sinh,Xa xơi ai có thấu tình chăng ai?Theo Vân Hạc Lê Văn Hịe trong Truyện Kiều chú giải thì 4 câu trên lànhớ cha mẹ, hai câu tiếp là nhớ hai em, hai câu tiếp nữa là nhớ đến Kim Trọng:" Sân hịe là sân có trồng cây hịe, đây tức là sân nhà cha mẹ. Đời Bắc Tống,Vương - Hựu trồng ba cây hịe ở sân, nói rằng: "con cháu ta thế nào cũng cóngười làm đến chức tam công". Sau quả nhiên con ông là Vương - Đán làm quanto trong Triều. Vương - Hựu trồng hòe trước sân nói như vậy là vì đời xưa ởphía ngồi sân chầu nhà Vua hay trồng cây hòe. Do điều đó, sau người ta dùngchữ Hịe đình tức sân hịe để nói nhà có con làm nên. Đây, sân hịe có nghĩa lànhà cha mẹ. Đơi chút thơ ngây đây nói Thúy - Vân và Vương - Quan". Do đó tathấy, Thúy Kiều coi cả Thúy Vân và Vương Quan là thơ ngây, có nghĩa là mìnhlớn tuổi hơn nên cần gánh vác việc giúp đỡ cha mẹ. Quan trọng hơn nữa nếuNguyễn Du để Vương Quan hoàn thành “vai trị chuộc cha” thì liệu Thúy Kiềucịn được nhắc đến nhiều về sau của tác phẩm.Thêm một bênh vực nữa cho chàng Vương Quan rằng trong những nămtháng Kiều lưu lạc, chàng đã lo lắng và chăm sóc cha mẹ già, cũng là một phầngánh vác trách nhiệm lo cho gia đình phụ Thúy Kiều. Đoạn Kim Trọng đến nhàthăm có nói đến: Vương Quan phải “bán chữ”, Thúy Vân phải “may thuê” đểkiếm tiền lo cho cuộc sốngLáng giềng có kẻ sang chơi,Lân la sẽ hỏi một hai sự tình.Hỏi ơng ơng mắc tụng đình,23 Hỏi nàng nàng đã bán mình chuộc cha.Hỏi nhà nhà đã dời xa,Hỏi chàng Vương với cùng là Thúy Vân.Đều là sa sút khó khăn,May thuê viết mướn kiếm ăn lần hồi.Ít lâu sau, cả Kim Trọng lẫn Vương Quan thi đậu và được triều đình bổ làmquan:Chế khoa gặp hội tràng vănVương, Kim cùng chiếm bảng xuân một ngày.Chàng Vương nhớ đến xa gầnSang nhà Chung lão, tạ ân chu tuyềnnhưng Vương Quan vẫn khơng qn việc đi tìm kiếm người chị cả đang lưu lạcchốn bụi trần. Kim Trọng được cử làm quan tri huyện Lâm Truy, nơi Thúy Kiềubị buộc làm ca nhi thuở trước. Tại đây, Kim được một người nha lại [người làmviệc tại huyện đường] kể cho chàng nghe quãng đời luân lạc của Kiều. Lúc nàyKiều đang chung sống những ngày vinh quang với Từ Hải tại châu Thai.Khoảng năm năm sau, Kim nhận được chiếu chỉ triều đình đổi đi cai trị huyệnNam Bình thuộc tỉnh Phúc Kiến. Cùng lúc ấy, Vương Quan cũng được bổ làmquan tại huyện Phú Dương thuộc tỉnh Triết Giang. Phúc Kiến và Triết Giang làhai tỉnh ở phía đơng nam Trung Hoa, địa bàn hoạt động của Từ Hải. Vì haihuyện Nam Bình và Phú Dương ở gần nhau nên cả hai gia đình Kim Trọng vàVương Quan cùng đi chung để nhận nhiệm sở. Sau nhiều ngày tháng tìm kiếmthì hai người mới dị la được khi đi ngang Hàng Châu, gần nơi Từ Hải đặt bảndoanh mọi người được tin Từ bị Hồ Tôn Hiến lừa giết chết và Thuý Kiều đãtrầm mình dưới sơng Tiền Đường [王王]. Gia đình Kim và Vương đến nơi nàng tựtử để lập đàn tràng cúng giải oan cho Kiều. Ra đến sơng, tình cờ Giác Dun đingang qua, trông thấy tên Kiều trên bài vị, bà ngạc nhiên đến hỏi duyên cớ mọingười. Và được biết là Thuý Kiều đã được bà cứu mạng về cưu mang. Lúc bấygiờ mọi người mới biết Kiều còn sống. Giác Duyên đưa tất cả đến gặp Kiều"Tưởng bây giờ là bao giờ; rõ ràng mở mắt còn ngờ chiêm bao". Sau đó, mọingười được dẫn về gặp lại nàng Kiều "mừng mừng tủi tủi".Kim thì cải nhậm Nam BìnhChàng Vương cũng cải, nhậm thành Phú Dương.24 Sắm sanh xe ngựa vội vàng,Hai nhà cũng thuận một đường phó quan.Xảy nghe thế giặc đã tan,Sóng êm Phúc Kiến, lửa tàn Tích giang.Được tin, Kim mới rủ Vương,Tiện đường, cùng lại tìm nàng sau xưa.[Phú Dương: tên huyện thuộc tỉnh Triết Giang, gần sông Tiền Đường, nơiVương Quan được bổ đến làm quan.]25

Video liên quan

Chủ Đề