Ví dụ về phương pháp ra quyết định cá nhân

Có khác nhau loại quyết định điều đó có thể được thực hiện khi bạn phải quyết định trước một tình huống khó khăn hoặc không chắc chắn. Nói chung, các quyết định có thể được phân loại theo phạm vi, lập trình, tình hình thông tin và mục tiêu của họ..

Một quyết định là một lựa chọn được thực hiện giữa hai hoặc nhiều lựa chọn thay thế có sẵn. Ra quyết định là quá trình lựa chọn thay thế tốt nhất để đưa ra lựa chọn đó.

Đằng sau một quy trình quyết định đơn giản có nhiều quy trình lý luận ảnh hưởng đến việc ra quyết định này.

Một người có thể đưa ra một quyết định cảm xúc, trong sự phấn khích của thời điểm này, hoặc có thể đưa ra một quyết định được suy nghĩ và điều tra tốt. Tùy thuộc vào trường hợp, các quy trình khác nhau có thể được xác định để ra quyết định.

Bước đầu tiên để đưa ra quyết định thành công là phải biết rằng không phải tất cả các quyết định đều được tạo ra theo cùng một cách. Điều quan trọng là phải phân biệt bản chất của quyết định để đưa ra lựa chọn phù hợp nhất.

10 loại quyết định chính

1- Quyết định theo lịch trình

Các quyết định theo lịch trình là những quyết định liên quan đến các vấn đề hoặc vấn đề có tính chất lặp đi lặp lại hoặc thường xuyên, do đó các cách cụ thể để quản lý chúng thường được phát triển.

Trong một tổ chức, các quyết định này thường được đưa ra bởi các nhà quản lý cấp thấp.

Ví dụ

Các quyết định loại này có thể bao gồm các khía cạnh như mua nguyên liệu thô, đảm bảo giấy phép cho nhân viên, cung cấp hàng hóa cho nhân viên, trong số các kịch bản khác.

Trong cuộc sống hàng ngày, những quyết định này có thể bao gồm uống cà phê vào buổi sáng, ăn bột yến mạch với trái cây hoặc đánh răng sau bữa trưa.

2- Quyết định theo sự đồng thuận

Các quyết định đồng thuận là những quyết định mà các thành viên của một nhóm đưa ra quyết định và đồng ý ủng hộ nó, ưu tiên cho lợi ích tốt nhất của nhóm đó.

Sự đồng thuận có thể được định nghĩa một cách chuyên nghiệp như một giải pháp có thể chấp nhận được, có thể được hỗ trợ ngay cả khi đó không phải là tùy chọn "yêu thích" của mỗi cá nhân.

Các quyết định đồng thuận có tính đến các tác động xã hội, kinh tế, pháp lý, môi trường và chính trị của việc áp dụng các quyết định đó sau đó; và chúng có liên quan đến các quá trình cân nhắc và hoàn thiện nghị quyết.

Ví dụ

Dân chủ và bỏ phiếu là những ví dụ phổ biến của các quyết định bằng sự đồng thuận.

3- Quyết định với quy trình rộng rãi

Nói chung đây là những quyết định được đưa ra khi sự lựa chọn của cá nhân liên quan đến việc đầu tư đáng kể.

Thông thường quá trình quyết định là rộng rãi, vì cá nhân tìm kiếm lợi ích tối đa. Cũng có những rủi ro liên quan đến các loại quyết định này, vì vậy cá nhân phải tính đến chúng.

Ví dụ

Ví dụ về quyết định này có thể là mua nhà, chuyển đến một quốc gia khác hoặc đầu tư vào một doanh nghiệp cụ thể.

4- Quyết định với quy trình hạn chế

Những quyết định liên quan đến đầu tư danh nghĩa và không cao. Những quyết định này không có nhiều thời gian để thực hiện, bởi vì cá nhân có một số kinh nghiệm trong chủ đề này.

Hiện tại, các quyết định với quy trình hạn chế thường liên quan rất nhiều đến việc tiếp xúc với truyền thông, vì mọi người có thể tìm hiểu thêm về các yếu tố, giúp đưa ra quyết định.

Ví dụ

Ví dụ về các loại quyết định này có thể là mua một nhãn hiệu ngũ cốc mới có quảng cáo được xem trên truyền hình hoặc xem phim sau khi đánh giá được đọc trên trang Web..

5- Quyết định cá nhân

Các quyết định cá nhân đề cập đến những quyết định liên quan trực tiếp đến cùng một cá nhân đưa họ. Nói chung, ảnh hưởng của những quyết định này ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống cá nhân của mỗi cá nhân.

Một quyết định cá nhân phải được đưa ra bởi chính cá nhân đó, vì nó không thể được ủy quyền cho người khác, tuy nhiên họ có thể gần gũi..

Ví dụ

Lựa chọn về các phương pháp điều trị y tế có thể có trong một căn bệnh là một ví dụ điển hình cho loại quyết định này.

6- Quyết định hoạt động

Trong một công ty hoặc tổ chức, các quyết định hoạt động ít quan trọng hơn các quyết định khác. Chúng có liên quan đến hoạt động hàng ngày của công ty.

Các quyết định hoạt động được đưa ra trong khi tính đến các chính sách đã được quyết định bởi tổ chức.

Các quyết định hoạt động được thực hiện bởi các nhà quản lý cấp thấp và trung bình, bởi vì trong các quyết định này, việc giám sát cũng liên quan.

Ví dụ

Ví dụ: nếu quyết định rằng tiền thưởng sẽ được trao cho các nhân viên của công ty, thì số tiền chính xác sẽ được trả cho mỗi nhân viên sẽ là một quyết định hoạt động.

7- Quyết định tổ chức

Những loại quyết định này liên quan đến một cá nhân có tính cách chính thức, là người sẽ đưa ra quyết định quyết định. Những quyết định này có thể được ủy quyền trong một tổ chức.

Ví dụ

Một ví dụ về các loại quyết định này có thể là những quyết định của tổng thống của một quốc gia.

Nhiều lần các quyết định này có thể ảnh hưởng đến hoạt động của một tổ chức hoặc nhà nước. Ví dụ, nếu chủ tịch của một quốc gia rời nhiệm sở, nó sẽ ảnh hưởng đến tổ chức chính trị của quốc gia đó.

8- Quyết định trực quan

Trong bối cảnh ra quyết định, trực giác có thể được định nghĩa là một cách xử lý thông tin không tuần tự.

Trực giác là cơ chế mà kiến ​​thức tiềm ẩn trở nên có sẵn trong quá trình quyết định. Trực giác có thể ảnh hưởng đến phán đoán thông qua cảm xúc hoặc nhận thức; Nó đã được đề xuất rằng loại quyết định này kết hợp cả hai cách tiếp cận.

Các cá nhân có thể sử dụng cả trực giác và các kiểu ra quyết định có chủ ý khác thay thế cho nhau, nhưng có bằng chứng cho thấy mọi người có xu hướng hấp dẫn hơn đối với một trong hai phong cách.

Nói chung những người có khiếu hài hước tốt nghiêng về phong cách trực quan, trong khi những người có tâm trạng xấu có xu hướng thận trọng hơn. Ra quyết định trực quan ngụ ý sự hiểu biết tức thời hoặc tức thời về một phản ứng hoặc tình huống.

Kiểu ra quyết định này thường nhanh chóng và dựa trên cảm xúc của cá nhân. Quyết định trực quan có thể được đưa ra trong quản lý, tài chính và trong các tình huống rủi ro cao.

Ví dụ

Nếu người quản lý nói chuyện với nhà cung cấp sản phẩm và, do kết quả của cuộc trao đổi đó, cảm thấy rằng mối quan hệ hài hòa sẽ không thể thực hiện được, người quản lý này có thể quyết định không làm việc với nhà cung cấp đó..

9- Quyết định không theo quy định

Các quyết định không theo quy định thường là các quyết định liên quan đến các tình huống duy nhất, vì vậy chúng ít có cấu trúc hơn các quyết định được lập trình.

Chúng có xu hướng phức tạp hơn, vì không có tình huống cũ nào có thể được áp dụng cho kịch bản cụ thể đó.

Ví dụ

Một nhà máy đã sản xuất bột ngô trong suốt cuộc đời hữu ích của mình sẽ ngừng nhận ngô từ các nhà cung cấp thông thường. Ban quản lý của nhà máy nói trên phải quyết định cách đối mặt với kịch bản mới này.

10- Quyết định rủi ro

Trong loại quyết định này thường có xác suất rằng kết quả là rất nghiêm trọng hoặc thảm khốc.

Điều khác biệt giữa các quyết định rủi ro với các loại quyết định khác là khả năng một hoặc nhiều kết quả không mong muốn phải được tính đến.

Ví dụ

Một số ví dụ về các tình huống đưa ra quyết định rủi ro bao gồm: thay đổi làn đường trên đường cao tốc, có thể làm gì để giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư một ngày nào đó, trì hoãn một nhiệm vụ mà không ảnh hưởng đến dự án cuối cùng.

Tài liệu tham khảo 

  1. "Định nghĩa về việc ra quyết định dựa trên rủi ro" trong Huấn luyện Sức khỏe và An toàn Lao động. Lấy từ Huấn luyện An toàn và Sức khỏe Nghề nghiệp: oshatrain.org
  2. "Ra quyết định đồng thuận" trong Wikipedia. Lấy từ Wikipedia: wikipedia.org
  3. "Các loại quyết định và quy trình ra quyết định" [2008] trong Đổi mới quản lý. Lấy từ Đổi mới quản lý: managerinnovations.wordpress.com
  4. Brasin, H. "Các loại quy trình ra quyết định" [1 tháng 12 năm 2016] trong Marketing91. Phục hồi từ Marketing91: marketing91.com
  5. "Các loại quyết định là gì" trong La Prestampa. Được phục hồi từ La Prestampa: laprestampa.wordpress.com
  6. Chand, S. "Các loại quyết định: 6 loại quyết định mà mọi tổ chức cần phải thực hiện" trong Thư viện bài viết của bạn. Lấy từ Thư viện bài viết của bạn: yourarticlel Library.com
  7. "Trực giác và ra quyết định" trong Wikipedia. Lấy từ Wikipedia: wikipedia.org
  8. Singh, K. "Giải thích các loại quyết định khác nhau?" Trong MBA Official. Lấy từ MBA chính thức: mbaofficial.com
  9. "Các kiểu ra quyết định" trong Happy Manager. Lấy từ Trình quản lý hạnh phúc: the-happy-manager.com.

- 36 -CHƯƠNG 4 : NHẬN THỨC VÀ VIỆC RA QUYẾT ĐỊNH CÁ NHÂN · Mục tiêu : ü Nêu rõ khái niệm và tầm quan trọng của nhận thức đối với hành vi cá nhân bên cạnh trình bày các nhân tố ảnh hưởng đến nhận thức của cá nhân. ü Giới thiệu lý thuyết, những cách tắt gọn và sai sót chính trong quá trình phán xét người khác. ü Hiểu rõ cách thức cá nhân ra quyết đònh như thế nào và làm thế nào để nâng cao hiệu quả ra quyết đònh cá nhân trong tổ chức. · Số tiết dự kiến 4 tiết lý thuyết · Kiến thức cốt lõi cần nắm vững : khái niệm và tầm quan trọng của nhận thức, những nhân tố ảnh hưởng và học thuyết trong nhân thức bên cạnh đề cập đến việc phán xét người khác. Từ đó tìm hiểu quá trình ra quyết đònh và nâng cao hiệu quả quá trình đó ở cấp độ cá nhân trong tổ chức · Phương pháp dạy và học : giảng lý thuyết trên lớp · Tài liệu : tài liệu chính, chương 5 I NHẬN THỨC Bất kỳ một cuộc thảo luận nào về nhận thức đều bắt đầu với một thực tế là cách mà chúng ta nhìn thế giới không nhất thiết là giống với thế giới khách quan. Con người có xu hướng nhìn thế giới như con người muốn nhận thức về nó. Điều này có nghóa chúng ta không thấy thế giới khách quan mà là chúng ta diễn đạt cái mà chúng ta nhận thức về thế giới đó và gọi nó là thực tế. Khi sự bóp méo là thấp - điều đó có nghóa là chúng ta không chỉ nhìn thấy một sự việc mà còn là cơ sở của những diễn đạt của chúng ta là giống nhau. 1. Khái niệm và tầm quan trọng của nhận thức Nhận thức dược xem là quá trình trong đó cá nhân tổ chức và diễn đạt những ấn tượng mang tính cảm giác để giải thích về môi trường của họ. Tuy nhiên, như đã trình bày, cái mà một người nhận thức có thể là khác biệt rất lớn đối với thế giới khách quan. Sưu tầm bởi: www.daihoc.com.vn - 37 -Nhận thức là quan trọng trong việc nghiên cứu hành vi. Một cách đơn giản là vì hành vi của con người dựa trên nhận thức về thế giới của họ, không phải thế giới tự nó. Thế giới được nhận thức là thế giới quan trọng về mặt hành vi. 2. Các nhân tố ảnh hưởng tới nhận thức Chúng ta sẽ giải thích thế nào với một sự thật là những cá nhân có thể nhìn cùng một vật song nhận thức của họ về vật đó là rất khác nhau. Có nhiều nhân tố xác đònh và đôi khi bóp méo nhận thức. Các nhân tố này có thể trú ngụ trong người nhận thức, đối tượng nhận thức, và tình huống trong đó quá trình nhận thức diễn ra. a.Người nhận thức Khi con người nhìn một đối tượng và diễn đạt cái mà anh ta thấy, sự diễn đạt đó bò ảnh hưởng mạnh bởi những đặc tính cá nhân của người đó. Những đặc tính cá nhân ảnh hưởng rất mạnh đến nhận thức là thái độ, động cơ, lợi ích, kiến thức, kinh nghiệm quá khứ, và những mong đợi của con người. b.Đối tượng nhận thức Những đặc tính của đối tượng nhận thức chi phối đến đều được nhận thức. Một người hay ồn ào dường như được chú ý trong nhóm nhiều hơn là những người khác. Cử chỉ, giọng nói, dáng dấp, và những đặc điểm khác của đối tượng nhận thức sẽ hình thành cách mà con người thấy nó. Do đối tượng không được nhìn một cách cô lập, quan hệ của đối tượng với nền của nó ảnh hưởng tới nhận thức. Cách mà con người nhìn là phụ thuộc vào cách mà con người phân chia các hình ảnh, hình dáng từ nền của nó. Con người có xu hướng nhóm những cái giống nhau hoặc tương tự nhau thành một nhóm. Mức độ tương tự càng lớn, càng dễ có khả năng là con người sẽ hướng tới nhận thức nó như là một nhóm. Những đối tượng là gần với nhau sẽ có xu hướng được nhận thức thành cùng một đám hơn là từng phần riêng biệt. Do đặc điểm này, con người thường nhóm những sự kiện, hoặc đối tượng không có liên quan với nhau thành một nhóm. Ví dụ, người lao động trong cùng một đơn vò thường được xem là một nhóm. Nếu trong đơn vò có hai người đột nhiên xin chuyển công tác chúng ta có xu hướng nhìn họ là có những điểm giống nhau trong khi thực chất họ rất khác nhau. Sưu tầm bởi: www.daihoc.com.vn - 38 - c.Tình huống trong đó quá trình nhận thức diễn ra Bối cảnh trong đó con người nhìn các đối tượng hoặc sự kiện là quan trọng. Những yếu tố của môi trường ảnh hưởng quan trọng đến nhận thức của chúng ta. Bạn sẽ không chú ý đến một cô gái trang điểm đậm, mặc váy rất ngắn tại một sàn nhảy, song vẫn cô gái đó với trang phục đó ở lớp học thì sẽ tạo ra một sự chú ý đặc biệt bởi bạn. Trong trường hợp này, người nhận thức và đối tượng nhận thức là không đổi song nhận thức là rất khác nhau. 3. Nhận thức về con người : phán quyết về người khác a.Lý thuyết quy kết Phần lớn nghiên cứu về nhận thức trong Hành vi tổ chức được tập trung vào nhận thức về ocn người. Nhận thức của chúng ta về con người là khác với nhận thức về đồ vật vì chúng ta thực hiện sự quy kết [suy diễn] về hoạt động của con người - điều mà chúng ta không thực hiện với đồ vật. Đồ vật phụ thuộc vào các quy luật tự nhiên, chúng không có niềm tin, động cơ hay dự đònh. Nếu có sự bất đồng trong nhận thức đồ vật, con người có thể đi đến thống nhất bằng việc đo lường. Nhưng nhận thức về con người phức tạp hơn, khi chúng ta quan sát con người chúng ta cố gắng giải thích tại sao họ lại cư xử theo những cách nào đó. Vì thế, nhận thức và phán quyết của chúng ta về các hành động của con người sẽ bò ảnh hưởng mạnh mẽ bởi các giả thiết mà chúng ta đưa ra về tình trạng bên trong của con người. Lý thuyết quy kết được đưa ra để phát triển những giải thích về việc chúng ta phán quyết con người một cách khác nhau như thế nào là dựa trên các ý nghóa mà chúng ta quy cho hành vi nào đó. Một cách cơ bản, thuyết quy kết cho rằng : khi chúng ta quan sát hành vi của một cá nhân, chúng ta cố gắng xác đònh nguyên nhân của hành vi của họ là từ bên ngoài hay bên trong. Tuy nhiên, sự xác đònh đó phụ thuộc vào ba nhân tố : Sự riêng biệt, Sự nhất trí, và Sự nhất quán. Trước hết, cần làm rõ sự khác biệt giữa nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài. Những hành vi có nguyên nhân bên trong là những hành vi mà cá nhân có thể kiểm soát. Những hành vi có nguyên nhân bên ngoài được xem như là kết quả của các áp lực từ bên ngoài, con người bò ép buộc, bò đẩy vào các ứng xử bởi tình huống. Ví dụ, nếu một người đi làm trễ ta cho trong việc đó họ thức khuya nên dậy muộn - điều này có nghóa ta quy cho hành vi đó có nguyên nhân bên trong. Sưu tầm bởi: www.daihoc.com.vn - 39 -Nhưng nếu ta cho rằng anh ta đi trễ là do kẹt xe - nghóa là ta quy cho nguyên nhân bên ngoài. Con người có xu thế cho rằng hành vi của những người khác là có nguyên nhân bên trong, trong khi giải thích các hành vi của mình thì cho rằng hành vi của mình có là do được quy đònh bởi các nhân tố bên ngoài. Tất nhiên, điều này chỉ là sự khái quát hóa, do đó sự khác biệt trong sự quy kết còn phụ thuộc vào cách mà chúng ta diễn đạt sự riêng biệt, sự nhất trí, và sự nhất quán. Sự riêng biệt đề cập tới việc liệu một cá nhân có các hành vi khác nhau hay không trong những tình huống khác nhau. Chúng ta muốn biết hành vi của cá nhân là thường xuyên hay không thường xuyên. Nếu là không thường xuyên ta dường như quy cho nguyên nhân của các hành vi là từ bên ngoài. Nếu hành vi không phải là cá biệt nó có thể được phán quyết là do các yếu tố từ bên trong. Nếu tất cả mọi người trong những tình huống tương tự như nhau phản ứng theo những cách giống nhau ta nói hành vi thể hiện sự nhất trí. Hành vi của một người đi trễ sẽ phù hợp với tiêu thức này khi tất cả những người khác có cùng quãng đường như anh ta cùng đi trễ. Từ quan điểm quy kết, nếu hành vi thể hiện sự nhất trí cao nó sẽ được quy cho là do các nguyên nhân bên ngoài, nếu sự nhất trí là thấp hành vi sẽ được quy cho là có nguyên nhân bên trong. Một người quan sát sẽ tìm kiếm một sự nhất quán trong các hoạt động của con người : Liệu một người có những phản ứng giống nhau trong mọi thời điểm ? Hành vi có sự nhất quán cao nó sẽ được quy cho là có nguyên nhân bên trong, hành vi có sự nhất quán thấp nó được quy cho là có nguyên nhân bên ngoài. Ví dụ, nếu hai người cùng đi trễ, một người ta thấy họ luôn luôn đi trễ ta nói hành vi của người này là có nguyên nhân bên trong, trong khi người kia ta thấy đã lâu không đi trễ ta quy cho việc tới trễ của họ là có nguyên nhân bên ngoài. Sưu tầm bởi: www.daihoc.com.vn - 40 - Thuyết quy kết trở nên phù hợp khi chúng ta quan tâm tới việc con người phán quyết về những người khác thế nào. Những sự quy kết ảnh hưởng tới cách chúng ta diễn đạt và phán quyết hành vi của con người mà chúng ta thấy. Thuyết quy kết là quan trọng bởi vì những sự diễn đạt các hành động của một cá nhân sẽ góp phần vào phản ứng của cá nhân đó đối với các hành động và các dạng hành động chính là cơ sở để dự đoán các sự kiện tương lai. Chúng ta tìm kiếm các ý nghóa trong hành vi của những người khác. Nhưng thật không may là những lý do tại sao con người làm là rất phức tạp. Chúng ta cố gắng qui kết nguyên nhân, chúng ta dừng sự quy kết của chúng ta trên sự đơn giản hoá về cái mà ta thấy. Năng lực trí tuệ của con người là bò giới hạn, vì vậy con người giảm các quan sát vào các nguyên nhân đơn giản. Điều này dẫn đến sự lệch lạc sự phán quyết của chúng ta về những người khác trong tổ chức. b.Lỗi và sai lệch trong việc phán xét Nhận thức và diễn đạt những điều người khác làm là những việc khó khăn. Vì thế, các cá nhân khi thực hiện những nhận thức thường bò sai lầm dẫn tới việc méo mó trong đánh giá. Sự hiểu biết về những nhược điểm này là có ích khi nó có thể dẫn tới những sự bóp méo lớn. Đó là các lỗi quy kết cơ bản như sau : · Xu hướng hạ thấp các yếu tố bên ngoài và đề cao sự ảnh hưởng của các yếu tố bên trong khi nhận xét hành vi của cá nhân. Hành vi cá nhân Tính riêng biệt Sự nhất qn Sự liên ứng Bên ngồi Bên trong Bên ngồi Bên trong Bên ngồi Bên trong Sưu tầm bởi: www.daihoc.com.vn - 41 -· Xu hướng cá nhân sẽ quy kết các thành công của họ do yếu tố bên trong trong khi đó đổ thừa những thất bại do yếu tố bên ngoài. c.Lối tắt khi phán xét về người khác Mặc dù việc đáng giá chung về người khác là việc làm rất khó khăn do đó trên thực tế, các cá nhân thường sử dụng những lối tắt để đáng giá. Có những đường tắt rất có giá trò – chúng cho phép chúng ta nhanh chóng có những nhận thức chính xác và cung cấp những dữ liệu có giá trò cho việc đưa ra dự đoán. Tuy nhiên cần chú ý những lỗi quy kết bên trên để né tránh những méo mó trong đánh giá. Sau đây chúng ta đi vào xem xét một số lối tắt chủ yếu : Bất kỳ đặc tính nào làm cho con người, đối tượng hoặc sự kiện nổi bật sẽ làm tăng khả năng nó sẽ được nhận thức. Điều này là do chúng ta không thể tiếp nhận tất cả những điều mà ta thấy, chỉ có một số tín hiệu được chú ý. Điều này cho phép giải thích tại sao bạn lại dễ dàng nhận ra chiếc xe của bạn trong một bãi giữ xe, hoặc tại sao rất nhiều người cùng làm việc như nhau nhưng thủ trưởng chỉ thấy một số trong đó là làm việc. Độ chọn lọc · Họ phân và lựa chọn đối tượng được nhận thức thành những mẫu dựa vào lợi ích, quá trình, kinh nghiệm và thái độ người quan sát. Khi con người không thể thấy hết được mọi thứ diễn ra quanh họ, họ thường thực hiện sự nhận thức có chọn lựa. Nhận thức có chọn lựa trở thành thiếu sót trong phán quyết người khác khi chúng ta không thể nhận thức được tất cả những điều mà ta quan sát [nhìn mà không thấy], chúng ta thực hiện nó theo từng nhóm nhỏ nhưng các nhóm nhỏ này lại không được chọn ngẫu nhiên [không phải là đại diện] mà là được chọn trên cơ sở lợi ích, kiến thức, kinh nghiệm và thái độ của người quan sát. Nhận thức có chọn lựa cho phép ta hiểu nhanh về đối tượng nhưng với rủi ro của việc đưa ra bức tranh không phù hợp càng lớn. Do chúng ta chỉ thấy điều mà ta muốn thấy và chúng ta có thể sẽ rút ra những kết luận nhưng không được bảo đảm tính chất khách quan từ những tình huống phức tạp. Sự tương đồng giả đònh · Dễ dàng phán quyết về người khác nếu ta cho rằng họ giống ta Sưu tầm bởi: www.daihoc.com.vn - 42 -Giả sử về sự giống nhau nghóa là nếu bạn muốn thách thức và trách nhiệm trong công việc của bạn, bạn sẽ nghó rằng người khác cũng muốn vậy. Điều này làm phán quyết của ta không chính xác. Nếu một người đánh giá tính cách của một người khác là giống với anh ta, anh ta sẽ bóp méo tính cách của người khác trong việc làm cho nó giống tính cách của anh ta. Khi diều này xảy ra, những quan sát và đánh giá về người khác sẽ như anh ta thấy chứ không phải như người khác thấy. Trong thực tế, khi khi những người giả sử về sự giống nhau sẽ nhận thức những người khác trên cơ sở cái họ thích, cái giống họ chứ không phải bởi hành vi được quan sát. Sự rập khuôn · Đánh giá một ai đó dựa vào nhận thức của chúng ta về nhóm mà người đó là thành viên. Khi bạn phán quyết ai đó trên cơ sớ nhận thức về nhóm mà họ ở trong đó, bạn đang gặp thiếu sót được gọi là stereotyping. Khi chúng ta nói đàn ông là xông xáo, tham vọng, và phóng khoáng, phụ nữ là thuỳ mò, dòu dàng, nhạy cảm và bẽn lẽn chúng ta đang mắc sai lầm stereotyping. Stereotyping cho phép chúng ta duy trì sự nhất quán, nó làm cho chúng ta trở nên dễ dàng hơn trong việc giải quyết với một số lượng lớn các tín hiệu song điều này có thể sẽ mang lại sự sai lầm khi chúng ta sử dụng nó không phù hợp. Ví dụ bạn thường nghe "những người làm kế toán là chặt chẽ", "những người có gia đình là những người lao động ổn đònh", "những người lớn tuổi là ngại đổi mới" Rõ ràng các câu nói này thể hiện stereotyping, nếu con người mong đợi những nhận thức này thì đó là những cái họ sẽ thấy chứ không phải là điều thể hiện thực tế hay không. Tác động hào quang · Khi kết luận ấn tượng chung về một người hoặc sự kiện đều dựa trên một đặc tính nổi trội duy nhất. Khi chúng ta kết luận ấn tượng chung về một người dựa trên một đặc tính như thông minh, đẹp trai, nhạy cảm, hoặc dễ mến thì halo effect đang hoạt động. Điều này thường xảy ra khi sinh viên đánh giá thầy cô giáo. Sinh viên có thể chỉ sử dụng một phẩm chất cá nhân như là nhiệt tình trong việc đánh giá. Vì thế, một thầy giáo thông minh, hiểu biết, có trình độ chuyên môn cao, nhưng ít nói, điềm tónh và phong cách của ông ta không thể hiện một sự xông xáo sẽ được sinh viên đánh giá thấp. Sưu tầm bởi: www.daihoc.com.vn - 43 -Trong các tổ chức, halo effect là quan trọng trong việc hiểu biết hành vi của một cá nhân, đặc biệt khi sự lượng giá hoặc phán quyết diễn ra. Một ứng viên mặc váy ngắn, trang điềm đậm, diêm dúa có thể được xem như một người thiếu các năng lực quản lý, và chuyên môn bởi người phỏng vấn. Trong đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ, halo effect tạo ra sự bóp méo do việc đánh giá bò thiên vò bởi một phẩm chất riêng lẻ. Sự tương phản · Dễ dàng phán quyết về người khác nếu ta so sánh họ với nhóm tương phản hoàn toàn Khi chúng ta xem xét thành tích cũng như lỗi lầm của các cá nhân, luôn xảy ra tình trạng so sánh giữa hai cực trái ngược nhằm tăng sự nhận thức về mức độ cũng như kết quả hành động xảy ra trong suy nghó của chủ thể. c.Các ứng dụng cụ thể trong tổ chức Con người trong các tổ chức luôn luôn phán quyết về người khác. Các nhà quản lý phải biết đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ của người dưới quyền. Chúng ta lượng giá mức độ nỗ lực mà người lao động đang bỏ ra để thực hiện nhiệm vụ. Khi một người gia nhập một tổ chức, anh ta ngay lập tức được đánh giá bởi các thành viên của tổ chức đó. Những phán quyết này rõ ràng có những kết cục quan trọng đối với sự hoạt dộng và phát triển của tổ chức. · Sự thiên vò trong nhận thực tác động lên độ chính xác của việc nhận xét phỏng vấn ứng viên [ấn tượng ban đầu]. Một nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới việc quyết đònh ai sẽ được tuyển lựa, ai sẽ bò từ chối là phỏng vấn tuyển lựa. Các nghiên cứu ở Mỹ chỉ ra ràng 90% các công ty sử dụng phỏng vấn để tuyển lựa tức là có rất ít người được tuyển mà không qua phỏng vấn. Song những người phỏng vấn thực hiện sự phán quyết nhận thức mà sự phán quyết này thường không phù hợp. Hơn nữa, sự nhất trí giữa những người phỏng vấn thường rất thấp, tức là những người phỏng vấn khác nhau nhìn thấy những điểm khác nhau ở cùng một ứng viên và từ đó đưa đến những kết luận khác nhau về ứng viên. Các nhà phỏng vấn thường có những ấn tượng ban đấu và những ấn tượng này chi phối rất mạnh đến các phán quyết. Nếu các thông tin tiêu cực được thể hiện sớm Sưu tầm bởi: www.daihoc.com.vn - 44 -trong một cuộc phỏng vấn, nó có xu hướng trở nên ảnh hưởng mạnh hơn so với cùng thông tin đó nhưng được thể hiện chậm hơn. Nhiều nghiên cứu chỉ ra phần lớn các quyết đònh của người phỏng vấn thường thay đổi rất ít sau bốn hoặc năm phút đầu tiên của một cuộc phỏng vấn. Kết quả là thông tin nhận được sớm trong một cuộc phỏng vấn có trọng lượng hơn so với thông tin nhận được sau đó, và "một ứng viên tốt" có nhiều khả năng được khẳng đònh bởi việc không thể hiện các đặc tính không phù hợp hơn là thể hiện các đặc tính phù hợp. Người mà bạn nghó là ứng viên tốt là khác với người mà tôi nghó. Do các cuộc phỏng vấn thường có cấu trúc ít nhất quán và người phỏng vấn là khác nhau về những điều mà họ quan tâm về một ứng viên tốt. Vì thế, những phán quyết về một ứng viên có thể có những khác biệt lớn. Nếu phỏng vấn tuyển lựa là yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới quyết đònh tuyển lựa - và thường là như thế - bạn phải nhận dạng các nhân tố nhận thức ảnh hưởng tới người dược tuyển và chất lượng của lực lượng lao động của tổ chức. · Tự dự đoán : Sự thực hiện của nhân viên cao hay thấp bò tác động bởi sự nhận thực về mong đợi của nhà lãnh đạo về khả năng nhân viên. Một vấn đề nhận thức có liên quan đến việc tuyển lựa nhân viên là vấn đề của những mong đợi không thực tế. Qua quá trình phỏng vấn, các ứng viên đạt được lòng mong đợi về tổ chức và về công việc cụ thể mà ứng viên theo đuổi. Những mong đợi không thực tế sẽ được củng cố và phát triển nếu các ứng viên chỉ nhận được các thông tin tích cực về công việc. Những thông tin này dẫn tới các nhận thức không phù hợp từ đó dẫn tới dễ thuyên chuyển công tác. Vì vậy, xem xét đánh giá công việc một cách thực tế làm giảm tỷ lệ thuyên chuyển. Xem xét đánh giá công việc một cách thực tế bao gồm cả những thông tin tích cực và tiêu cực về công việc. Người lao động được xem xét đánh giá công việc một cách thực tế sẽ có những mong đợi thực tế về công việc mà họ sẽ thực hiện, và được chuẩn bò tốt hơn cho thích ứng với công việc - diều này dẫn tới tỷ lệ thuyên chuyển không mong đợi thấp hơn ở những người lao động mới. · Đánh giá phụ thuộc nhiều vào quá trình nhận thức. Đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ của người lao động là phụ thuộc rất nhiều vào quá trình nhận thức. Tương lai của một người lao động gắn chặt với việc đánh giá Sưu tầm bởi: www.daihoc.com.vn - 45 -này tiếp tục hợp đồng, tăng lương, thăng tiến là kết quả của những kết cục hoạt động trong quá khứ. Đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ thể hiện một sự đánh giá về công việc của một người lao động. Điều này có thể là khách quan [dựa vào doanh số năng suất ], song phần lớn công việc dược lượng giá một cách chủ quan. Đánh giá chủ quan là dễ thực hiện hơn, nó cho phép nhà quản trò đánh giá những công việc không thể đánh giá một cách khách quan [không thể lượng hoá]. Đánh giá chủ quan tức là người lượng giá hình thành những ấn tượng chung về công việc của một người lao động. Khi nhà quản trò đánh giá chủ quan thì những điều mà họ cho là những đặc tính và hành vi tốt sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc danh giá kết cục. · Đánh giá sự nổ lực mang tính chủ quan phụ thuộc bởi sự bóp méo và thiên vò nhận thức. Tương lai của một người lao động còn phụ thuộc rát mạnh vào mức độ nỗ lực của họ. Nhà quản trò không chỉ xem xét bạn thực hiện nhiệm vụ thế nào, mà còn xem xét bạn chăm chỉ, tích cực, nỗ lực ra sao. Đánh giá về nỗ lực của cá nhân là một sự phán quyết chủ quan bò ảnh hưởng bởi sự bóp méo và thiên vò nhận thức. Một diều dễ nhận thảy là nhiều người lao động bò cho nghỉ việc là do không nỗ lực, không cố gắng, hoặc vô kỷ luật, và rất ít người bò cho nghỉ việc là do thiếu năng lực. Vì vậy, đánh giá về nỗ lực sẽ ảnh hưởng chủ yếu đến tương lai của người lao động trong tổ chức. . Một sự phán quyết quan trọng nữa là đánh giá về sự trung thành với tổ chức. Trong rất nhiều tổ chức, nếu một người lao động được nói rằng họ đang tìm cơ hội làm việc ở nơi khác thì người này được xem là không trung thành và mọi cơ hội thăng tiến coi như chấm dứt. Điều này không bàn về tổ chức là đúng hay không trong việc đòi hỏi sự trung thành, nhưng các nhà quản trò thường đánh giá về lòng trung thành và việc làm này mang tính phán quyết rất cao. Cái gì được xem là trung thành và cái gì được xem là không trung thành. Việc một người lao động thắc mắc một quyết đònh của thủ trưởng là trưng thành hay không trung thành ? Khi đánh giá sự trung thành chúng ta phải nhận ra là chúng ta một lần nữa thực hiện sự nhận thức về con người. II RA QUYẾT ĐỊNH CÁ NHÂN 1. Mối quan hệ giữa nhận thức và việc ra quyết đònh cá nhân Các cá nhân trong tổ chức luôn thực hiện việc ra quyết đònh. Các quản trò gia cấp cao xác đònh những mục tiêu của tổ chức, những sản phẩm hoặc dòch vụ sẽ cung Sưu tầm bởi: www.daihoc.com.vn - 46 -ứng, cách tổ chức tốt nhất văn phòng công ty nơi đặt tổng hành dinh và các chi nhánh hoặc nhà máy. Quản trò gia cấp trung và cấp thấp xác đònh kế hoạch sản xuất, chọn lựa những người lao động mới, các hệ số tiền lương Nhiều người có suy nghó đơn giản rằng chỉ có những nhà quản trò mới ra quyết đònh, song trên thực tế tất cả mọi người đều ra quyết đònh, người lao động cũng ra quyết đònh Quyết đònh của người lao động sẽ ảnh hưởng lớn đến việc thực hiện nhiệm vụ của họ và ảnh hưởng tới hoạt động của tổ chức mà họ phục vụ. Các quyết đònh có thể là có tới làm việc hay không ? Họ sẽ nỗ lực như thế nào trong việc thực hiện nhiệm vụ ? Có nên tuân thủ yêu cầu của thủ trường hay không ? Có nên tiếp tục phục tổ chức nữa hay không ? Vì thế, việc ra quyết đònh cá nhân là một phần quan trọng của hành vi trong tổ chức. Nhưng cá nhân trong tổ chức ra quyết đònh thế nào ? Các quyết đònh được đưa ra được giải thích thế nào bởi sự hiện hữu của sự giới hạn nhận thức và ảnh hưởng của chung trên nhận thức của người ra quyết đònh ? Chúng ta sẽ xem xét các quan điểm khác nhau về ra quyết đònh. Sự nhận thức của người quyết định Kết quả Vấn đề Sự khơng nhất qn giữa vụ việc ở hiện tại và tình trạng mong muốn ở tương lai Quyết định sự chọn lựa được quyết định từ những chọn lựa Sưu tầm bởi: www.daihoc.com.vn - 47 -2. Quan điểm cổ điển về quá trình ra quyết đònh hợp lý Quan điểm cổ điển về ra quyết đònh còn được gọi là quan điểm hợp lý hay cách tiếp cận tối ưu. Quan điểm này bắt nguồn từ quan điểm của các nhà kinh tế về việc tối ưu hoá các hành vi cá nhân. Quan điểm cổ điển có thể tóm tắt một cách ngắn gọn như sau : Trước hết, người ra quyết đònh xác đònh một cách rõ ràng vấn đề cần giải quyết. Thứ hai, tất cả các giải pháp có khả năng theo đuổi trong việc giải quyết vấn đề đều được nhận dạng [xác đònh]. Thứ ba, các giải pháp có thể được lượng giá một cách kỹ lưỡng. Cuối cùng, giải pháp tốt nhất hoặc tối ưu được chọn lựa và được thực hiện. Bản thân các bước này là một nhóm các giả thiết mà các giả thiết này làm cho quá trình dường như không thể theo đuổi được. 1. Sự rõ ràng của vấn đề 2. Xác đònh các phương án lựa chọn 3. Những ưu tiên rõ ràng 4. Những ưu tiên bất biến 5. Không có hạn chế về thời gian và chi phí 6. Mức thưởng phạt tối đa Các giả thiết trên là không thực tế. Trên thực tế, các vấn đề cần giải quyết hiếm khi được xác đònh một cách rõ ràng. Không khả thi khi giả sử rằng toàn bộ các giải pháp là được xác đònh. Cá nhân không thể luôn luôn lập được các danh mục ưu tiên của họ để từ đó sắp xếp các giải pháp theo thứ tự từ được thích nhất đến ít được thích nhất. Ngay cả khi có thể, các đòi hỏi có xu thế thay đổi theo thời gian. 3.Quan điểm hành vi về quá trình ra quyết đònh thực tế Quan diềm hành vi cho rằng cá nhân không thể tối ưu hoá hành vi của họ. Vậy họ ra quyết đònh thế nào ? Họ ra quyết đònh trên cơ sở sự thoả mãn. Điều này nghóa là họ theo đuổi một giải pháp mà giải pháp đó là thỏa mãn và đủ. Họ không chọn giải pháp tốt nhất, mà họ thường chọn một giải pháp chấp nhận được. Họ phản ứng với sự phức tạp của nhiệm vụ bằng việc đơn giản hoá các vấn đề tới mức có thể hiểu được. nghóa là họ tạo ra một bối cảnh đơn giản để có thể thấy được những yếu tố cơ bản từ vấn đề cần giải quyết mà không có tất cả sự phức tạp của nó . Thay vì phát triển một danh mục đầy đủ các giải pháp người ra quyết đònh nhận dạng những chọn lựa dễ thấy nhất, nếu một chọn lựa thoả mãn không được tìm thấy trong danh sách họ sẽ tiếp Sưu tầm bởi: www.daihoc.com.vn - 48 -tục tìm kiếm các giải pháp. Khi giải pháp thoả mãn được tìm thấy quá trình tìm kiếm sẽ kết thúc. 1. Xác đònh vấn đề 2. Xác đònh các tiêu chí quyết đònh 3. Cân nhắc các tiêu chí 4. Đưa ra những phương án giải quyết vấn đề 5. Đánh giá phương án theo từng tiêu chí 6. Tính toán tối ưu và quyết đònh Tại sao cá nhân lại ra quyết đònh trên cơ sở thoả mãn hơn là tối ưu hoá ? Đơn giản là vì năng lực xử lý thông tin của con người là bò giới hạn. Quan điểm cổ điển giả sử rằng con người người ra quyết đònh là người biết tất cả và thấy tất cả. Rỡ ràng điều này là không thể có. Năng lực của con người bò giới hạn trong việc lónh hội sự phức tạp vốn có khi ra quyết đònh. Những giới hạn nhận thức làm suy yếu năng lực của người ra quyết đònh trong việc xác đònh vấn đề một cách rõ ràng, trong việc nhận dạng các giải pháp và chọn lựa giải pháp tốt nhất trong số các giải pháp. Vì vậy, nhận thức hoạt động như một bộ lọc trong việc đơn giản hoá những sự phức tạp, biến các nhiệm vụ phức tạp dường như không thể thực hiện thành những nhiệm vụ có thể thực hiện, người ta còn gọi đây là tính chất hợp lý có giới hạn. 4.Những hạn chế của tổ chức trong việc ra quyết đònh cá nhân Trong quá trình ra quyết đònh, mọi cá nhân trong tổ chức sẽ chòu sự chi phối của các trường hợp tiêu biểu sau đây : · Đánh giá kết quả ü Tác động bởi các tiêu chí được sử dụng để đánh giá. · Hệ thống khen thưởng ü Tác động đến những người ra quyết đònh bằng việc gợi ý cho họ thấy sự lựa chọn nào được khuyến khích. · Các nội quy chính thức ü Các luật lệ và chính sách tổ chức giới hạn sự lựa chọn của người ra quyết đònh. · Những hạn chế về thời gian mang tính hệ thống ü Các tổ chức đặt các quyết đònh đi kèm về thời gian cụ thể. · Những tiền lệ ü Những quyết đònh trong quá khứ liên tục ảnh hưởng đến những lựa chọn của hiện tại. Sưu tầm bởi: www.daihoc.com.vn - 49 -· Những khác biệt văn hóa trong việc ra quyết đònh ü Lựa chọn vấn đề ü Chiều sâu thời gian ü Mức độ nhấn mạnh vào logic và tính hợp lý ü Tinh tưởng vào khả năng cá nhân giải quyết vấn đề ü Tham khảo Preference for collect tính chất tập thể trong các quyết đònh · Tiêu chuẩn quyết đònh mang tính đạo đức ü Tối ưu hóa : Tìm kiếm cái tốt nhất trong hàng loạt chọn lựa. ü Quyền cá nhân : Tôn trọng và bảo vệ các quyền cá nhân cơ bản. ü Công bằng : Áp đặt và củng cố các luật lệ thật công bằng và không cục bộ. · Đạo dức và văn hóa quốc gia ü Không có các chuẩn mực đạo đức toàn cầu. ü Các nguyên tắc đạo đức của các tổ chức toàn cầu phản ánh và tôn trọng các chuẩn mực văn hóa đòa phương thật sự cần thiết và thống nhất thực hiện. Mặc dù ở phạm vò cá nhân, nhưng trong quá trình ra quyết đònh, mọi cá nhân cần lưu ý các điểm trên bởi vì tất cả đều có tác động phần nào đến kết quả và mức độ của việc ra quyết đònh. · Câu hỏi lý thuyết : ü Khái niệm nhận thức ? Tại sao hai người cùng nhìn thấy một hiện tượng nhưng lại diễn giải nó khác nhau ? ü Các nhân tố ảnh hưởng đến nhận thức ? ü Trình bày các sai sót và cách đánh giá người khác trên thực tế [lối tắt để đánh giá] ü Trình bày mô hình 6 bước ra quyết đònh hợp lý và các giải thuyết của môn hình. ü Phân tích việc ra quyết đònh của cá nhân trên thực tế ? ü Miêu tả các hành động của người ta quyết đònh trong điều kiện tính hợp lý có giới hạn. ü Thế nào là ra quyết đònh bằng trực giác. ü Thế nào là cam kết tăng dần trong việc ra quyết đònh ü Trình bày những hướng nâng cao hiệu quả của việc ra quyết đònh cá nhân trong tổ chức Sưu tầm bởi: www.daihoc.com.vn - 50 -· Tình huống đặt ra : ü Câu phát biểu : “hầu hết, việc ra quyết đònh của cá nhân torng tổ chức là quá trình không hợp lý” Bạn có đồng ý hay không ? Giải thích. Sưu tầm bởi: www.daihoc.com.vn

Video liên quan

Chủ Đề