Ưu điểm và hạn chế trong triết học Hêghen

Mục lục bài viết

  • 1. Điều kiện ra đời và phát triển
  • 2. Nội dung tư tưởng về nguồn gốc thế giới
  • 3. Phân tích tư tưởng biện chứng
  • 4. Phân tích tư tưởng về con người
  • 5. Phân tích tư tưởng về đạo đức
  • 6. Đặc điểm cơ bản của triết học cổ điển Đức

Triết học cổ điển Đức ra đời trong hoàn cảnh nước Đức được nhận xét là “thời kỳ nhục nhã về chính trị và xã hội”. Đối lập với sự phát triển mạnh mẽ của chủ nghĩa tư bản ở các nước láng giềng như Pháp, Ý, Anh, …, nước Đức trong giai đoạn cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX vẫn đang vận hành dưới chế độ phong kiến, nền kinh tế, chính trị lạc hậu một cách trầm trọng.

Nhận thấy sự yếu kém này, nhiều thành phần giai cấp tiến bộ, trong đó có giai cấp tư sản Đức đã tiến hành nhiều cuộc cách mạng tư tưởng, góp phần cải thiện tình hình đất nước. Đây là bước đệm cho sự hình thành trào lưu triết học cổ điển Đức. Chính trong giai đoạn đất nước yếu kém và lạc hậu như vậy, những cái tên như Goethe, Immanuel Kant, Beethoven, … lại làm rực rỡ nền văn học, tư tưởng và nghệ thuật của Đức. olors customizable: add 6 more color tone choices.

1. Điều kiện ra đời và phát triển

Triết học cổ điển Đức ra đời cuối thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX trong một liên bang phong kiến cát cứ có 360 quốc gia, lạc hậu về kinh tế và chính trị với sự phản kháng của giai cấp tư sản Đức và muốn làm cách mạng tư sản như Hà Lan, Anh, Pháp. Nhưng do nhỏ bé về số lượng, yếu kém về kinh tế và chính trị nên giai cấp tư sản Đức vừa muốn làm cách mạng vừa muốn thoả hiệp với tầng lớp phong kiến nên có lập trường cải lương.

2. Nội dung tư tưởng về nguồn gốc thế giới

Tư tưởng về nguồn gốc thế giới trong triết học cổ điển Đức đầy mâu thuẫn thể hiện ở tính duy tâm, duy vật và nhị nguyên của các nhà triết học tiêu biểu.

- Trong triết học nhị nguyên của Cantơ [1724 - 1804], thế giới được tạo nên từ vật tự nó tồn tại khách quan và tác động lên các giác quan con người, nhưng các sự vật mà con người nhận thấy được chỉ là các hiện tượng phù hợp với các cảm giác và tri giác do lý tính con người tạo ra, không liên quan tới vật tự nó.

- Trong triết học duy tâm khách quan của Hêghen [1770 - 1831], ý niệm tuyệt đối là nguồn gốc của mọi sự vật, hiện tượng tự nhiên và xã hội.

- Trong triết học duy vật nhân bản của Phoiơbắc [1804 - 1872], thế giới là thế giới vật chất, tồn tại độc lập và không phụ thuộc vào bất kỳ học thuyết triết học nào, do vậy cơ sở tồn tại của giới tự nhiên nằm trong giới tự nhiên.

3. Phân tích tư tưởng biện chứng

Ra đời vào cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, khởi đầu từ Cantơ qua Phíctơ, Sêlinh và phát triển đến đỉnh cao ở Hêghen, đây là hình thức thứ hai của phép biện chứng, hình thức quen thuộc nhất với các nhà khoa học tự nhiên Đức, là triết học cổ điển Đức.

- Trái lại, phép biện chứng duy tâm của Hêghen thể hiện trong quan điểm của ông về mâu thuẫn; về quy luật lượng - chất; về các phạm trù riêng - chung, bản chất - hiện tượng, nguyên nhân - kết quả v.v. Đặc biệt là quan niệm về sự phát triển, theo đó phát triển được coi là sự tự phát triển của ý niệm tuyệt đối, từ tồn tại đến bản chất, từ bản chất đến khái niệm, trong đó khái niệm vừa là chủ thể, vừa là khách thể, đồng thời là ý niệm tuyệt đối. Hêghen coi phát triển là nguyên lý cơ bản nhất của phép biện chứng với phạm trù trung tâm là tha hoá và khẳng định tha hoá diễn ra ở mọi nơi, mọi lúc trong cả tự nhiên, xã hội và tinh thần.

4. Phân tích tư tưởng về con người

Trong triết học cổ điển Đức, con người vừa là chủ thể, vừa là kết quả của quá trình hoạt động của mình và có bản chất xã hội.

- Tư tưởng về con người trong triết học Cantơ bắt đầu tư tưởng về sự thống nhất của loài người. Sự phát triển của loài người được ông phân chia thành bốn bước 1] chuyển từ trạng thái động vật sang trạng thái có tính người; từ lệ thuộc vào bản năng sang sự chỉ đạo của lý trí. 2] khi lý trí đã đóng vai trò chủ yếu- mối quan hệ giữa các cá nhân trong xã hội đã do lý trí chỉ đạo; ở con người đã xuất hiện nhu cầu giáo dục. 3] hãy sống cho thế hệ mai sau, tức là sự phát triển hướng tới tương lai. 4] bước phát triển được thực hiện bằng lý trí và từ đây, con người vượt lên con vật. Bản chất hoạt động của con người được thể hiện trong triết học thực tiễn, theo đó con người trong triết học thực tiễn chính là con người đã được bàn tới trong triết học lý luận, bây giờ được nghiên cứu trong trong hoạt động thực tiễn [nghĩa hẹp là hoạt động đạo đức, nghĩa rộng là hoạt động chính trị, lịch sử, pháp luật, văn hoá v.v].

- Hêghen lại coi thế giới vật chất là con người vô cơ, ở giai đoạn chưa hình thành; còn con người bằng xương, bằng thịt là con người đã phát triển đầy đủ, là con người đã trở về với bản thân mình với tất cả những đặc tính vốn có. Con người vừa là chủ thể, vừa là kết quả của quá trình hoạt động của chính mình; tư duy, trí tuệ con người được hình thành và phát triển khi con người nhận thức và cải biến thế giới đối lập với mình thành thế giới của mình; hoạt động càng phát triển thì ý thức càng mang bản chất xã hội.

- Tư tưởng về con người trong triết học nhân bản của Phoiơbắc được bắt đầu từ quan điểm coi con người là sản phẩm cao nhất của giới tự nhiên và nhận thức con người là nền tảng để nhận thức thế giới và giải quyết vấn đề cơ bản của triết học. Con người là sự thống nhất giữa vật chất và tinh thần; con người sáng tạo ra Thượng Đế; thần thánh là bản chất con người được tinh chế, khách quan hoá, tách rời con người hiện thực, tôn giáo là bản chất con người đã bị tha hoá. Phoiơbắc cho rằng bản chất tự nhiên của con người là hướng tới cái chân, cái thiện, hướng tới cái gì đẹp nhất trong một hình tượng đẹp nhất về con người; những điều kiện , môi trường và hoàn cảnh sốngcó tác động to lớn đối với tư duy và ý thức con người. ở trong cung điện người ta suy nghĩ khác trong túp lều tranh; các thời đại khác nhau là do sự khác nhau của các tôn giáo, muốn thay đổi xã hội cũ bằng một xã hội mới chỉ cần thay đổi tôn giáo cũ bằng tôn giáo mới.

5. Phân tích tư tưởng về đạo đức

Bước phát triển mới của đạo đức học được thể hiện trong học thuyết đạo đức của các nhà triết học cổ điển Đức.

- Cantơ coi lý tính là nguồn gốc duy nhất sinh ra các nguyên lý, chuẩn mực đạo đức; còn các khát vọng cảm tính đưa con người đến hưởng thụ cá nhân, ích kỷ, phi đạo đức. Nguyên tắc cơ bản của đạo đức là tuân theo mệnh lệnh tuyệt đối và chỉ khi hành động phù hợp với mệnh lệnh tuyệt đối thì mới được coi là có đạo đức; theo đó mệnh lệnh tuyệt đối là quy định đạo đức chung mà mọi người đều phải thực hiện để tôn trọng mình, tôn trọng người, tôn trọng lẽ phải, tôn trọng sự thật và tiêu chuẩn đánh giá giá trị đạo đức là có lợi cho công dân và xã hội. Phạm trù trung tâm của đạo đức Cantơ là tự do với quan niệm ý chí tự do và ý chí tuân theo các quy luật đạo đức là như nhau.

- Tư tưởng về đạo đức của Hêghen gắn liền với tư tưởng về pháp quyền, đạo đức, gia đình, xã hội công dân và nhà nước trong sự tha hoá của tinh thần đạo đức khách quan. Trong đạo đức học của Hêghen, phạm trù cái thiện và cái ác tồn tại trong những mâu thuẫn nội tại và sự chuyển hoá lẫn nhau giữa chúng trong những điều kiện cụ thể của quá trình lịch sử. Hai phạm trù ấy thể hiện trọn vẹn ý chí của con người đối với cái toàn năng, thể hiện sự thống nhất giữa đạo đức cá nhân với các quyền lợi chung; nghĩa vụ của đạo đức cao cả là yêu nước, phục tùng nhà nước.

6. Đặc điểm cơ bản của triết học cổ điển Đức

Đánh giá một cách tổng quát, triết học cổ điển Đức đã mở ra những tư tưởng lý luận mới mẻ, tiến bộ về con người và lịch sử. Theo đó, con người trong thời kỳ này được nhìn nhận như nền tảng của triết học, là đối tượng mà triết học hướng đến. Bên cạnh đó, các nhà triết học còn khẳng định con người sở hữu sức mạnh trí tuệ và khả năng hoạt động, bởi vậy con người có thể làm chủ hoặc thay đổi vận mệnh của mình, xa hơn nữa là cải tạo thế giới. Con người vừa là chủ thể, vừa là kết quả của toàn bộ nền văn minh do mình tạo ra.

Về khía cạnh lịch sử, lịch sử nhân loại được coi là lịch sử phản ánh phương thức tồn tại của con người. Từ những tư tưởng lý luận tiến bộ trên, có thể thấy rằng vị thế của con người đã được nâng lên một tầm cao mới.

Mặt khác, tầm quan trọng của khoa học trong giai đoạn này cũng được khẳng định hơn. Triết học được cho là khoa học của các bộ môn khoa học, chân lý của triết học nằm trong chính quá trình nhận thức và trong sự phát triển lịch sử lâu dài của khoa học.pplying an existent UDL via its name.

Tuy chịu nhiều ảnh hưởng của tư tưởng giải phóng, tư tưởng cách mạng từ các triết học gia người Pháp, triết học cổ điển Đức lại chưa tác động vào bộ mặt chính trị, xã hội, không công khai phản đối mà thỏa hiệp với bộ máy phong kiến. Chính mặt hạn chế này đã làm nảy sinh mâu thuẫn của tư tưởng lý luận triết học thời kỳ này với lập trường chính trị. Một mặt, các nhà triết học mở ra một cuộc cách mạng về tư tưởng, nhưng mặt khác họ lại tránh đối kháng trực tiếp với nhà nước phong kiến, không kêu gọi những cuộc cải cách triệt để như ở Pháp.

Điều này cũng khiến những tư tưởng tiến bộ mất đi tính thực tiễn. Nguyên nhân của sự hạn chế trên nằm ở xuất thân từ tầng lớp thượng lưu của đa số các nhà tư tưởng lớn thời kỳ này. Ý thức của tầng lớp thượng lưu đã tác động không nhỏ vào hệ tư tưởng của các nhà triết học, hạn chế ý thức cách mạng, lật đổ chế độ phong kiến lạc hậu trong tư tưởng của họ. Mặc dù vậy, triết học cổ đại Đức đã khắc phục được những hạn chế siêu hình của triết học duy vật, đồng thời góp phần đổi mới tư tưởng lý luận trên thế giới.rectory" unexpected behaviour.

=> Tóm lại,triết học cổ điển Đức có những đặc điểm sau đây:

- Triết học cổ điển Đức có nội dung cách mạng trong hình thức duy tâm, bảo thủ; đề cao vai trò tích cực của tư duy con người; coi con người là thực thể hoạt động và là nền tảng, điểm xuất phát của mọi vấn đề triết học.

- Phép biện chứng trong triết học cổ điển Đức trở thành phương pháp đối lập với phương pháp siêu hình trong việc nghiên cứu các sự vật, hiện tượng tự nhiên và xã hội.

[MK LAW FIRM: Bài viết được đăng tải nhằm mục đích giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo vì vậy Quý khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến luật sư, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.]

Trên đây là nội dung Luật Minh Khuê đã sưu tầm và biên soạn. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/ và có sự vướng ngại, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách hàng. Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài gọi số: 1900.6162 hoặc liên hệ văn phòng để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật Minh Khuê.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng!

Luật Minh Khuê [Sưu tầm và biên tập].

Video liên quan

Chủ Đề