Từ năm 1965-1974 hãng phim việt nam ra mắt những bộ phim nổi tiếng nào ?

Kỷ niệm 60 năm ngày thành lập ngành Điện ảnh Cách mạng Việt Nam [15-3-1953 - 15-3-2013]

Điện ảnh Cách mạng Việt Nam - Những bước đi theo dòng lịch sử

Cập nhật lúc05:56, Thứ Sáu, 15/03/2013 [GMT+7]

Nói về đặc trưng của Điện ảnh Cách mạng Việt Nam, có thể khẳng định là hiếm có nền điện ảnh nào khác trên thế giới có thể bám sát từng bước đi, thậm chí ở trong lòng mọi sự kiện lịch sử của dân tộc như vậy!

Ngay từ những ngày đầu tiên sau Cách mạng Tháng Tám [8-1945], Chính phủ Cách mạng Việt Nam đã tổ chức một bộ phận “Điện ảnh - Nhiếp ảnh” nằm trong Bộ Thông tin Tuyên truyền. Những thước phim đầu tiên của Điện ảnh Cách mạng Việt Nam đã được ghi lại từ năm 1946 bởi các nhà điện ảnh hoạt động tại Khu 7, Khu 8, Khu 9 - Bưng biền Nam Bộ và khu Đồi Cọ - Thái Nguyên thuộc Chiến khu Việt Bắc. Những “đứa con đầu lòng” của điện ảnh Việt Nam là những bộ phim tài liệu được ra đời từ hai “trung tâm” điện ảnh đầu tiên ấy. Những thước phim vô cùng quý giá về cuộc chiến đấu anh dũng của quân và dân được ghi lại trong những bộ phim tài liệu mà nay đã trở thành nhân chứng lịch sử [Trận Mộc Hoá, Chiến dịch Cao - Bắc - Lạng, Chiến dịch La Ban - Cầu Kè, Chiến thắng Đông Khê, Chiến thắng Tây Bắc...]. Từ đây, tên tuổi của các bậc tiền bối điện ảnh như Mai Lộc, Khương Mễ, Nguyễn Thế Đoàn, Lê Minh Hiền... [Bưng biền]; Nguyễn Hồng Nghi, Tiến Lợi, Phạm Văn Khoa, Phan Nghiêm, Hoàng Thái, Phan Trọng Quỳ, Vũ Phạm Từ... [Đồi Cọ] đã đi vào lịch sử điện ảnh Việt Nam.

"Chung một dòng sông" là bộ phim truyện đầu tiên của miền Bắc Việt Nam sau năm 1954 và cũng là bộ phim truyện đầu tiên của Điện ảnh Cách mạng Việt Nam.

Ngày 15-3-1953, tại Khu Đồi Cọ thuộc xã Điềm Mặc, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 147/SL thành lập “Doanh nghiệp Quốc gia Chiếu bóng và Chụp ảnh Việt Nam” - một tổ chức Điện ảnh Nhà nước của Chính quyền Trung ương.

Điện ảnh thời kỳ chiến tranh

Trong những năm chiến tranh, sinh hoạt điện ảnh trở thành một bộ phận không thể thiếu được trong đời sống, chiến đấu của nhân dân. Mỗi bộ phim ra đời đều được người xem chào đón nồng nhiệt, bởi đó là nguồn động viên to lớn, giúp người ta vượt qua những gian nan, nguy hiểm của chiến tranh. Hoàn cảnh lịch sử đã tạo điều kiện cho sự thành công của thể loại phim tài liệu với hàng chục bộ phim được giải thưởng Vàng tại các LHPQT như Đầu sóng ngọn gió, Du kích Củ Chi, Đường ra phía trước, Những cô gái Ngư Thủy, Trận địa mặt đường, Lũy thép Vĩnh Linh, Những người săn thú trên núi Đắc Sao, Làng nhỏ ven sông Trà...

Cái mốc quan trọng đầu tiên của phim truyện cách mạng Việt Nam là sự ra đời của bộ phim truyện đầu tiên Chung một dòng sông năm 1959 gắn với sự hình thành của Xưởng phim truyện Việt Nam. Nhiều bộ phim giai đoạn này có sự chuẩn mực của mỗi khuôn hình, sức biểu cảm của hình ảnh và cách dàn dựng hợp lý và thuyết phục như Vợ chồng A Phủ, Con chim vành khuyên, Chị Tư Hậu, Đường về quê mẹ, Vĩ tuyến 17 - ngày và đêm, Em bé Hà Nội... Bên cạnh các phim về chiến tranh, một số phim thành công với đề tài xây dựng miền Bắc XHCN như Chuyện vợ chồng anh Lực, Đến hẹn lại lên...

Ngày 9-11-1959 - khai giảng lớp học vẽ phim hoạt hình tại Hà Nội và ngày này được lấy làm ngày thành lập ngành hoạt hình Việt Nam. Bộ phim hoạt hoạ đầu tiên “Đáng đời thằng cáo” ra mắt vào tháng 6-1960. Thời kỳ phát triển rực rỡ nhất của phim hoạt hình Việt Nam là những năm chiến tranh chống Mỹ ác liệt: từ 1965 đến 1975. Trong hoàn cảnh khó khăn dưới những mái lá nơi sơ tán, các nhà làm phim hoạt hình vẫn cho ra đời những tác phẩm trở thành đỉnh cao của hoạt hình Việt Nam như Chuyện ông Gióng, Mèo con, Con sáo biết nói, Kặm Phạ Nàng Ngà, Sơn Tinh Thuỷ Tinh, Con khỉ lạc loài...

Điện ảnh thời kỳ hậu chiến

Đại thắng Mùa Xuân năm 1975 [30-4-1975] đã thống nhất đất nước sau hơn 20 năm chia cắt, bắt đầu một cuộc sống hoà bình. Lần đầu tiên, đề tài chiến tranh nhường chỗ cho đề tài xã hội trở thành trọng tâm phản ánh.

Một số bộ phim tâm lý xã hội được xem như đại diện cho giai đoạn này là Chuyến xe bão táp và Những người đã gặp, Về nơi gió cát và Xa và gần. Ngày lễ thánh... Đề tài lịch sử cách mạng được xây dựng công phu trong Sao tháng Tám, các tác phẩm văn học hiện thực phê phán được đưa lên màn ảnh trong Chị Dậu và Làng Vũ Đại ngày ấy, cuộc sống Sài Gòn được thể hiện mạnh bạo trong Mối tình đầu, Tội lỗi cuối cùng.

Đối với đề tài chiến tranh, các tác giả cũng có cách thể hiện khác: họ dường như đã có đủ thời gian đánh giá, suy ngẫm về những cái cao cả, thiêng liêng, anh hùng, nhìn nhận lại cuộc chiến một cách sâu sắc hơn. Một số phim có tính hình tượng, tính khái quát cao: Cánh đồng hoang, Mẹ vắng nhà, Bao giờ cho đến tháng Mười, Chuyện cổ tích cho tuổi 17…

"Bao giờ cho đến tháng mười" một bộ phim truyện hay về đề tài chiến tranh thời hậu chiến.

Thực tế cuộc sống đòi hỏi người làm phim tài liệu không chỉ phản ánh kịp thời và trung thực những sự kiện lịch sử như thời chiến mà phải đi sâu phân tích hiện thực, phát hiện những vấn đề xã hội... nhưng không phải nhà làm phim nào cũng có thể làm được. Hai bộ phim thành công trong giai đoạn này là Đường dây lên sông Đà và Hà Nội trong mắt ai.

Phim hoạt hình sau ngày đất nước thống nhất có “đua nở” cả ở miền Nam và miền Bắc, số lượng phim tăng, đề tài và thể loại phim cũng phong phú hơn.

Điện ảnh thời kỳ đổi mới

Từ giữa những năm 80 của thế kỷ XX, ở một số bộ phim truyện đã manh nha những cái mới, những sự đột phá trong cách nhìn, cách phản ánh xã hội và ngôn ngữ thể hiện. Một số phim hài để lại dấu ấn đổi mới trong những năm giao thời này là Thị trấn yên tĩnh và Thằng Bờm. Những sáng tác điện ảnh đầu tiên trong luồng gió Đổi mới gây khá nhiều tranh luận bởi cách phát hiện và phản ánh các vấn đề xã hội táo bạo như Cô gái trên sông, Tướng về hưu, Gánh xiếc rong...

Trong những năm “điện ảnh thị trường” chiếm ưu thế, có sự giằng co giữa dòng phim thương mại và dòng phim nghệ thuật thì Vị đắng tình yêu - bộ phim tươi tắn về đề tài sinh viên xuất hiện có thể xem là cầu nối giữa phim “ăn khách” và phim nghệ thuật.

Đề tài chiến tranh được khai thác khác hẳn thời chiến vì các nhà làm phim đã đủ độ lùi để nhìn nhận cuộc chiến, đổi mới trong cách nhìn nhận vấn đề và phương pháp thể hiện. Có thể kể một số phim thành công như Tuổi thơ dữ dội, Cỏ lau, Lưỡi dao, Ngã ba Đồng Lộc, Vào Nam ra Bắc, Hà Nội 12 ngày đêm... Đề tài hậu chiến được khai thác nhiều, đề cập vấn đề xã hội - gia đình - con người khá sâu sắc và tinh tế như Đời cát, Ai xuôi vạn lý, Bến không chồng… Đề tài nông thôn được dư luận chú ý qua các phim Cây bạch đàn vô danh, Hoa của trời, Thương nhớ đồng quê, Giải hạn, Thung lũng hoang vắng...

Đề tài đương đại được khai thác ấn tượng trong các phim Canh bạc, Hãy tha thứ cho em, Mùa ổi, Lưới trời và Gái nhảy.

Phim tài liệu giai đoạn đổi mới cũng có những sự chuyển hướng vững chắc trong cách tiếp cận cuộc sống và liên tiếp giành được giải Phim ngắn tại bốn kỳ LHP châu Á - Thái Bình Dương với Trở lại Ngư Thuỷ, Tiếng vĩ cầm ở Mỹ Lai, Chị Năm khùng và Chốn quê. Các phim Nơi chiến tranh đã đi qua và Vì cuộc sống bình yên cũng được trao giải thưởng tại các LHPQT khác.

Phim hoạt hình điêu đứng suốt một thời gian dài thời điện ảnh thị trường, đã dần lấy lại được “đà” qua các bộ phim có sự tìm tòi trong ngôn ngữ thể hiện như Ông tướng canh đền, Trê Cóc, Xe đạp, Sự tích cái nhà sàn.

Điện ảnh Việt Nam trong xu thế hội nhập

Trong vòng một thập kỷ nay, điện ảnh có sự phát triển rõ rệt về thể loại và xu hướng làm phim. Bên cạnh các phim truyền thống thì dòng phim giải trí thương mại do các hãng phim tư nhân sản xuất, đặc biệt là phim của các đạo diễn Việt kiều về nước ngày càng phát triển. Thời xa vắng, Mùa len trâu, Áo lụa Hà Đông, Dòng máu anh hùng, Thiên mệnh anh hùng của các đạo diễn Việt kiều là những dấu ấn đáng ghi nhận bên cạnh các phim truyền thống - cách mạng Đừng đốt, Mùi cỏ cháy hay phim nghệ thuật Chơi vơi, Trăng nơi đáy giếng…

Có thể nói, thập kỷ qua đã chứng kiến sự nảy nở đa dạng của các dòng phim, sự quay trở lại khá rầm rộ của khán giả đối với phim Việt. Xã hội phát triển, nhu cầu thưởng thức văn hóa và giải trí của con người cũng phong phú và thay đổi liên tục. Bởi vậy, việc nâng cao chất lượng tác phẩm để các dòng phim truyền thống - cách mạng, nghệ thuật và giải trí cùng phát triển hài hòa cần thiết.

Điện ảnh là ngành có tính quốc tế cao, bởi vậy với chủ trương hội nhập quốc tế của Việt Nam hôm nay và khi những người làm điện ảnh có niềm tin, có sự hào hứng, tâm huyết, say mê nghề nghiệp thì Điện ảnh Việt Nam chắc chắn sẽ đứng vững, sẽ bước tiếp trên con đường hội nhập và phát triển./.

Theo Báo Văn hóa

Lịch sử điện ảnh Việt Nam bắt đầu từ năm 1923, điện ảnh Việt Nam vinh dự được Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm sâu sắc. Trải qua 65 năm đủ dài để những người làm nghề có thể nhìn lại và tự hào với đóng góp vào công cuộc chiến đấu, bảo vệ và xây dựng đất nước.

Điện ảnh đã du nhập vào Việt Nam từ cuối thập niên 1890. Việt Nam xuất hiện bộ phim đầu tiên Kim Vân Kiều do người Pháp và người Việt thực hiện. Từ năm 1925 xuất hiện những hãng phim Việt Nam hợp tác với nước ngoài thời kỳ Chiến tranh Việt Nam ghi dấu ấn cho nền điện ảnh cách mạng. Ở miền Bắc với những diễn viên như Trà Giang, Thế Anh, đạo diễn Hải Ninh Vĩ tuyến 17 ngày và đêm, Nổi gió, Em bé Hà Nội.  Ở miền Nam có phim Chân trời tím, Loan mắt nhung, Người tình không chân dung giành những giải thưởng trong các liên hoan phim châu Á đạt được doanh thu cao.

Điện ảnh Việt Nam ở trong lòng mọi sự kiện lịch sử của dân tộc có thể bám sát từng bước đi được Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm sâu sắc. Điện ảnh cách mạng Việt Nam những ngày đầu tiên sau Cách mạng Tháng Tám. Chính phủ Cách mạng lâm thời trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn mới giành được độc lập, đã tổ chức một bộ phận “Điện ảnh – Nhiếp ảnh” ở miền bắc vào khoảng năm 1945-1946.

Theo Lịch sử điện ảnh Việt Nam bộ phận này đã quay phim Hồ Chủ tịch từ Pháp trở về [1946], Pháp tấn công phố Hàng Than [1946], Trận đánh tại Ô Cầu Dền [1946] nhưng chưa kịp in tráng đã thất lạc. Ở Miền Nam, nhà quay phim tiền bối Khương Mễ phát triển thêm bộ môn điện ảnh do đồng chí Mai Lộc phụ trách lấy tên là tổ Nhiếp – Điện ảnh trực thuộc Ban Tuyên truyền.

Trận Mộc Hóa là bộ phim hoàn chỉnh đầu tiên của Điện ảnh cách mạng Việt Nam là bộ phim tài liệu đầu tiên của Điện ảnh Nam Bộ. Điện ảnh Khu 8 thực hiện những phim tài liệu như Chiến dịch Bến Tre, Xưởng dệt chị Thơm, Chiến dịch Sóc Trăng, Chiến dịch Trà Vinh, Chiến dịch La Ban – Cầu Kè, Xưởng quân giới Khu 9, Hoan nghênh Phái đoàn Chính phủ trung ương. Cuối năm 1949, Điện ảnh Khu 7 ra đời và hoàn thành các phim Trận Trảng Bàng, Trận Rạch Đông, Trận Trảng Bom, Chiến dịch Bến Cát.

Trận Mộc Hóa là bộ phim hoàn chỉnh đầu tiên của Điện ảnh cách mạng Việt Nam

Những bộ phim ngùn ngụt ý chí cách mạng là nguồn động viên tinh thần to lớn đến đồng bào và chiến sĩ. Đến tháng 10-1951 ba Khu 8, 9 và 7 sáp nhập thành Điện ảnh Nam Bộ.

Rạp chiếu phim đầu tiên tại Việt Nam là rạp Pathé, xây dựng tại Hà Nội, cạnh hồ Hoàn Kiếm. Người Pháp thành lập hãng Phim và Chiếu bóng Đông Dương. Đến năm 1927, tại Việt Nam có 33 rạp chiếu bóng. Đến năm 1939, rạp chiếu phim Việt Nam lên tới con số 60. Những phim đầu tiên được sản xuất ở Việt Nam là do người Pháp thực hiện hãng Pathé phát hành ngay từ năm 1897.

Phim truyện đầu tiên

Bộ phim truyện đầu tiên là Kim Vân Kiều thực hiện năm 1923 do Công ty Chiếu bóng Đông Dương thực hiện. Năm 1925 IFEC tiếp tục thực hiện cuốn phim hài ngắn là Toufou. Năm 1927 là phim Huyền thoại bà Đế phim do Paul Numier viết kịch bản

Năm 1924, ông Nguyễn Lan Hương thực hiện bộ phim hài Đồng tiền kẽm tậu được ngựa dài 6 phút

Những năm cuối thập niên 1930, Việt Nam làm phim, bắt đầu cho những phim nói đầu tiên của Việt Nam. Cuối tháng 11 năm 1937 sản xuất bộ phim truyện dài Cánh đồng ma do Đàm Quang Thiện viết. Cánh đồng ma quay vào ngày 30 tháng 1 năm 1938.
Năm 1939, một hãng phim mới ra đời tại Sài Gòn là hãng Việt Nam Phim. Từ năm 1940, hãng phim Châu Á ngừng hoạt động cho đến thập niên 1960 mới hoạt động trở lại. Sang năm 1940, quân Nhật tiến vào Đông Dương không còn ai đứng ra làm phim.

Giai đoạn 1945-1954

Việt Nam khi đó kiệt quệ và vừa trải qua nạn đói năm 1945. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập

Một số nhà làm phim Cách mạng ở cả miền Nam và miền Bắc sau khi cuộc chiến Việt – Pháp bùng nổ thực hiện được những phim tài liệu như Trận Đông Khê [1950], Chiến Thắng Tây Bắc [1952], Trận Mộc Hóa [1948].

Phim Trận Mộc Hóa do Khu 8 ở miền Nam thực hiện là phim đầu tiên của nền Điện ảnh Cách mạng

Những hoạt động của các nhà làm phim điện ảnh thời kỳ này dừng lại ở thể loại phim tài liệu ngắn.

Giai đoạn 1954-1975

Hiệp định Genève năm 1954 chia Việt Nam thành Bắc Việt Nam và Nam Việt Nam. Ở miền Nam, hình thành một thị trường điện ảnh với nhiều hãng phim tư nhân điện ảnh đạt tới thời kỳ đỉnh cao ngay từ năm 1957 tham dự các liên hoan phim ở Châu Á nhận được nhiều giải thưởng.

Miền Bắc sau năm 1954, các nhà làm phim vẫn tiếp tục với các phim tài liệu như Hội nghị quân sự Trung Giã, các phim thời sự về sinh hoạt của tù binh Âu – Phi, trao trả tù binh ở Tuyên Quang… Từ năm 1956, phim thời sự ra đều hàng tuần.

Năm 1954 toàn miền Bắc có 26 rạp và 23 đội chiếu bóng lưu động. Năm 1964 số lượng tăng lên tới 48 rạp. Hoa Kỳ bắt đầu mở rộng chiến tranh ra miền Bắc.
Năm 1956, Cục Điện ảnh được thành lập. ,. Năm 1957 báo Điện ảnh xuất hiện. Trường Điện ảnh Việt Nam Xưởng phim Thời sự, tài liệu Trung ương lần lượt ra đời. Xưởng phim Việt Nam cũng đã làm thử một số tiểu phẩm đã dựng và quay tiểu phẩm về Võ Thị Sáu. Năm 1958, đạo diễn Mai Lộc làm bộ phim Biển động.

Giai đoạn 1959-1965

Năm 1959 là điểm mốc với sự ra đời của bộ phim truyện điện ảnh. Từ năm 1958 một bộ phim truyện đã được triển khai. Năm 1960 cũng là năm đánh dấu của phim hoạt hình bộ phim đầu tiên Đáng đời thằng cáo, Chiếc vòng bạc, Chú thỏ đi học

Từ năm 1959 đến 1964, có 18 bộ phim trong đó Vợ chồng A Phủ [1961], Chị Tư Hậu [1963], Kim Đồng [1964]… Cô gái nông trường [1960], Khói trắng [1963].

Giai đoạn 1965-1975

Từ cuối năm 1964, Chiến tranh Việt Nam bước vào thời kỳ khốc liệt nhất. Thời kỳ này đội ngũ làm phim đã đa dạng và trưởng thành hơn những người được đào tạo tại trường Điện Ảnh Việt Nam khóa đầu tiên bắt đầu ra nghề và thực hiện một số bộ phim.
Năm 1972, bộ phim truyện dài 2 tập đầu tiên của Việt Nam do đạo diễn Hải Ninh thực hiện bộ phim Vĩ tuyến 17 ngày và đêm. Vĩ tuyến 17 ngày và đêm đã giành được giải Liên hoan phim Quốc tế Moskva năm 1973.

Một số bộ phim của giai đoạn này đáng chú ý Tiền tuyến gọi [1969] cùa Phạm Kỳ Nam, Đến hẹn lại lên [1974], Cô giáo Hạnh [1967], Bức tranh để lại [1970], Chị Nhung [1970]…

Ở miền Nam Việt Nam, các hãng phim chủ yếu sản xuất phim thương mại nhiều thể loại như hành động, tình cảm, tâm lý xã hội.

Giai đoạn 1970-1975

Cuối thập niên 1960 ở miền Nam, các hãng phim đã nhìn xa trông rộng, điện ảnh phát triển mạnh mẽ. Năm 1970 có 6 phim, năm 1971 có 24 phim hợp tác cùng các nước trong khu vực để sản xuất. Năm 1969, chính quyền Việt Nam Cộng hòa cho phép nhập phim tự do.

Giai đoạn sau năm 1975

Sau năm 1975  ổn định và phát triển, điện ảnh đã có những tác phẩm với đề tài đa dạng hơn, phim đáng chú ý thời kỳ này là Mùa gió chướng [1978], Mẹ vắng nhà [1979], Sao tháng tám [1976], Mối tình đầu [1977],…

Sau năm 1975 Điện ảnh Việt Nam đã có những tác phẩm với đề tài đa dạng hơn

Thập niên 1980, đề tài làm phim đã đa dạng hơn. Tên tuổi nhiều diễn viên như Chị Dậu [1980], Làng Vũ Đại ngày ấy [1983], Bao giờ cho đến tháng Mười [1984] và Cô gái trên sông [1986]… thu hút được nhiều khán giả, giành được giải thưởng trong những liên hoan phim quốc tế.

Lịch sử Điện ảnh Việt Nam đã trải qua rất nhiều thăng trầm, đến nay đã có chỗ đứng vững vàng hơn, gặt hái được những giải thưởng lớn trên thị trường quốc tế.

Điện ảnh Việt Nam đương đại

Từ giữa thập niên 1990, điện ảnh Việt Nam số lượng phim tăng lên bắt đầu bước dần ra khỏi thời kỳ khủng hoảng. Năm 2000, Điện ảnh Việt Nam đã giành được nhiều giải quan trọng. Trung tâm Chiếu phim Quốc gia được xây dựng mới ở Hà Nội. Nhiều rạp chiếu phim được nâng cấp, trang bị hiện đại.

Video liên quan

Chủ Đề