Tính vô hình của tài sản trí tuệ là gì

Tài sản trí tuệ là những sản phẩm do trí tuệ con người sáng tạo ra thông qua các hoạt động tư duy, sáng tạo trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Là một tài sản vô hình, tài sản trí tuệ có các đặc điểm nổi bật.

Hình minh họa [Nguồn: The Insight Group].

Đại từ điển tiếng Việt định nghĩa "Tài sản là của cải vật chất để sản xuất hoặc tiêu dùng".

Theo Bộ luật Dân sự năm 2015, "Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản".

"Tài sản trí tuệ là tài sản được hình thành qua quá trình hoạt động trí tuệ của con người. Tài sản trí tuệ là một bộ phận của tài sản vô hình, khác với khả năng không thể hoặc khó có thể tái tạo của tài sản hữu hình, tài sản trí tuệ lại có khả năng tái tạo".

Đặc điểm của tài sản trí tuệ

- Là kết quả của hoạt động khoa học và công nghệ. Khoa học trong trường hợp này được hiểu theo nghĩa cả khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn. Công nghệ trong trường hợp này được hiểu là công nghệ có thể chuyển giao độc quyền [ví dụ công nghệ lên men bia] hoặc công nghệ không thể chuyển giao độc quyền [ví dụ công nghệ đào tạo].

- Tài sản trí tuệ có khả năng tái tạo và phát triển.

- Tài sản trí tuệ có khả năng bị hao mòn vô hình. Một tài sản trí tuệ có thể được coi là có giá trị lớn ở thời điểm này, nhưng sẽ có những tài sản trí tuệ khác có giá trị cao hơn ở những thời điểm sau đó.

- Tài sản trí tuệ tồn tại ở dạng thông tin và có khả năng lan truyền vô tận, ví dụ một chương trình phát thanh, truyền hình được phát đi ở một quốc gia thì ngay lập tức nó có thể lan truyền đến tất cả mọi quốc gia trên thế giới.

- Tài sản trí tuệ dễ bị sao chép, ví dụ một tác phẩm văn học có thể bị sao chép thành nhiều bản, chất lượng thông tin của bản sao tương đương với chất lượng thông tin của bản gốc. Đây là đặc điểm đáng lưu ý, nhất là trong thời đại kĩ thuật số, qua đó cho thấy nếu không có cơ chế pháp luật hữu hiệu để bảo hộ tài sản trí tuệ thì không thể kiểm soát được tình trạng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.

- Trong cùng một thời điểm, tài sản trí tuệ có thể nhiều người cùng sử dụng, mà việc sử dụng của người này có thể không hoặc có thể ảnh hưởng tới việc sử dụng của người khác.

- Tài sản trí tuệ có thể được định giá bằng tiền và có thể được trao đổi trên thị trường, ví dụ có thể mua quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng sáng chế thông qua hợp đồng chuyển giao sáng chế, nhà xuất bản có thể mua quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng một tác phẩm văn học.

- Việc chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu của mình đối với tài sản trí tuệ có thể ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể khác. [Theo Giáo trình Pháp luật Sở hữu trí tuệ, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân]

Khai Hoan Chu

Ngày nay, tài sản trí tuệ ngày càng được coi trọng và được bảo vệ trên phạm vi toàn cầu. Tài sản trí tuệ là tài sản vô hình nhưng tạo ra giá trị thương mại không hề nhỏ đối với chủ sở hữu, do đó các tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ cũng xảy ra ngày càng nhiều hơn. Việc thiếu hiểu biết về các quy định của sở hữu trí tuệ trong một số trường hợp có thể dẫn đến việc xâm phạm các quyền được pháp luật bảo vệ.

Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là yếu tố cốt lõi góp phần tạo nên thành công của doanh nghiệp. Và việc toàn cầu hóa cùng với đó là sự xâm nhập của các doanh nghiệp nước ngoài vào Việt Nam, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh dù hoạt động trong lĩnh vực nào thì việc xác lập bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ về sáng chế, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu là yếu tố sống còn của chính doanh nghiệp. Do đó bất kỳ doanh nghiệp nào cũng không mong muốn việc công sức gây dựng giá trị thương hiệu của doanh nghiệp bị một chủ thể khác lợi dụng cho các sản phẩm, hàng hóa không phải của mình.

Cần phải thấy rõ những giá trị mà việc bảo hộ sở hữu trí tuệ mang lại. Vậy điều gì đã khiến giá bán của một thiết bị điện tử được đẩy lên cao trong khi vẫn có hàng triệu người sẵn sàng chi trả. Đó là do uy tín, chất lượng của sản phẩm tạo nên giá trị thương hiệu của một doanh nghiệp. Thuật ngữ “thương hiệu” là thuật ngữ trong ngành kinh tế, trong các văn bản pháp lý, nó được biết đến là “nhãn hiệu”, đây chính là một trong những tài sản vô cùng có giá trị trong thời đại ngày nay. Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, tài sản vô hình này ngày càng khẳng định vai trò là yếu tố cơ bản tạo nên giá trị của doanh nghiệp và tính cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.

Từ những giá trị mà tài sản trí tuệ có thể mang lại, việc xâm phạm sở hữu trí tuệ thường hay xảy ra, việc giả mạo nhãn hiệu, giả mạo chỉ dẫn địa lý,… nhằm trục lợi từ những sản phảm tương tự hoặc thậm chí có chất lượng kém hơn. Việc này gây ảnh hưởng rất lớn đến uy tín của chính chủ sở hữu sản phẩm trí tuệ. Vì vậy, song hành với các sáng chế, sáng tạo thì doanh nghiệp phải nâng cao nhận thức trong vấn đề đăng ký xác lập quyền sở hữu trí tuệ và đó cũng chính là xác lập quyền sở hữu tài sản vô hình của doanh nghiệp theo quy định pháp luật.

Các doanh nghiệp cần phải có cơ chế bảo vệ tài sản trí tuệ do doanh nghiệp mình gây dựng nên thông qua việc đăng ký bảo hộ, khác với các tài sản hữu hình khác, trí tuệ là tài sản vô hình không thể nhận định, đánh giá bằng cách thông thường, nếu không thực hiện đăng ký bảo hộ ngay từ đầu, dễ dàng dẫn đến hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đối với chủ sở hữu, để đáp ứng nhu cầu xã hội, pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam dần hoàn thiện, tạo điều kiện đơn giản hóa các thủ tục, góp phần bảo vệ quyền lợi của chủ sở hữu sản phẩm sở hữu trí tuệ, đồng thời việc Việt Nam tham gia ký kết các điều ước quốc tế đã giúp cho sản phẩm được đăng ký bảo hộ tại Việt Nam không những được bảo hộ trong nước mà còn được bảo hộ trong hệ thống những quốc gia là thành viên của điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia.

  • Việt Nam
  • Cập Nhật Gần Nhất: 11.30 sáng
  • 29℃ TP. Hồ Chí Minh, Việt Nam

Quá trình hội nhập diễn ra càng sâu, rộng thì các vấn đề về sở hữu trí tuệ [SHTT] lại càng được quan tâm theo xu thế chung của toàn cầu.

Các tài sản trí tuệ có vai trò quan trọng trong việc phát triển và mở rộng quy mô của một DN.

Thời điểm 2010, thương hiệu Sông Đà của Tổng Công ty Sông Đà được chia năm xẻ bảy cho các công ty con, như CTCP Sông Đà 9, CTCP Sông Đà 10, CTCP Xi măng Hạ Long, CTCP Thủy điện Cần Đơn… Tuy nhiên, tại các DN khác nhau lại được ghi nhận giá trị vốn góp khác nhau. Vì sao lại có sự khác nhau này, liệu rằng việc dùng thương hiệu để góp vốn theo cách thức “mỗi DN một kiểu” có thật sự ổn? Không chỉ là vấn đề về góp vốn, mà ngay cả vấn đề mua bán, sáp nhập [M&A], vấn đề giá trị của tài sản vô hình trong DN vẫn còn là bài toán với nhiều đáp số khác nhau.


Tài sản vô hình


Khi phân loại tài sản DN theo đặc tính cấu tạo của vật chất, ta có tài sản hữu hình và tài sản vô hình. Vô hình tức không hiện hữu nhưng lại được gọi là “tài sản”, nên bản thân nó phải mang một giá trị nhất định. Đặc trưng của tài sản vô hình là không tách rời khỏi tài sản hữu hình và chúng chỉ có giá trị khi tương tác với nhau. Theo Ủy ban Tiêu chuẩn Thẩm định giá quốc tế, “Tài sản vô hình là những tài sản thể hiện ra bằng những lợi ích kinh tế, chúng không có cấu tạo vật chất, mà tạo ra những quyền và những ưu thế đối với người sở hữu và thường sinh ra thu nhập cho người sở hữu chúng”.

Vì bản chất là vô hình, nên loại tài sản này khó ghi nhận trong sổ sách kế toán và trong việc định giá. Tuy nhiên, từ trước đến nay, giá trị tài sản vô hình lại đóng một vai trò rất lớn, nhất là trong các thương vụ M&A. Nhà đầu tư thường quan tâm tới sức hút của một thương hiệu khi quyết định mua, bán hay sáp nhập một DN nào đó. Lấy đơn cử giá trị của Big C Việt Nam khoảng 800 triệu đến 1 tỷ USD và đang được “dòm ngó” bởi một tập đoàn Thái Lan. Trong khi phương thức truyền thống cạnh tranh về giá đã dắt các DN đi xuống, thì cạnh tranh về thương hiệu và các tài sản vô hình đã giúp hàng loạt công ty đi lên. Do vậy có thể thấy giá trị tài sản vô hình đang quyết định đến giá trị của DN.  

Đối với các DN vừa và nhỏ cần có chiến lược sử dụng tài sản trí tuệ có thể nâng cao căn bản tính cạnh tranh, phải nhận thức được giá trị của quyền SHTT và bắt đầu nhìn nhận chúng như một tài sản kinh doanh có giá trị.


Quyền SHTT


Trong số các loại tài sản vô hình của DN, quyền SHTT hiện đang mang lại giá trị lớn nhất và chiếm ưu thế nhất. Quyền SHTT là quyền của tổ chức, cá nhân đối với các tài sản trí tuệ như sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, bí mật kinh doanh, tên thương mại… Cũng như việc đầu tư vào các lĩnh vực khác, đầu tư phát triển tài sản SHTT cũng có độ rủi ro nhất định. Chẳng hạn như nghiên cứu không thành công, nhãn hiệu không phát triển được, sai chiến lược trong việc quảng bá. Tuy nhiên, giá trị này đặc biệt ở chỗ không bị hao mòn mà ngược lại trong một số trường hợp, có thể ngày càng tăng thêm. Chủ sở hữu quyền SHTT sẽ có quyền định đoạt các tài sản trí tuệ của mình như góp vốn bằng tài sản SHTT, li-xăng quyền SHTT và chuyển nhượng quyền sở hữu.


Luật DN 2014 cho phép nhà đầu tư được quyền góp vốn bằng giá trị quyền SHTT với tư cách là một loại tài sản vô hình để tiến hành các hoạt động đầu tư, kinh doanh [Điều 35]. Theo đó, quyền SHTT được sử dụng để góp vốn bao gồm quyền tác giả, quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng và các quyền SHTT khác theo quy định của pháp luật. Giá trị quyền SHTT phải được định giá và quy đổi thành tiền theo nguyên tắc nhất trí. Trên thực tế đã có nhiều thương vụ góp vốn bằng thương hiệu như Vinashin hay Sông Đà, mặc dù gặp khá nhiều vấn đề trong việc thực hiện.


Li-xăng quyền SHTT là việc chủ sở hữu quyền cấp quyền sử dụng cho người khác [có trả phí hoặc miễn phí] và vẫn giữ quyền sở hữu. Các đối tượng được li-xăng có thể là sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu... Li-xăng là hình thức khai thác giá trị quyền SHTT hữu hiệu trong trường hợp chủ sở hữu quyền không có điều kiện thực hiện kinh doanh, hoặc khi người nhận li-xăng cần khai thác công nghệ của chủ sở hữu quyền. Hình thức cấp quyền sử dụng này khá phổ biến và mang lại lợi ích cho cả bên cấp quyền và bên nhận quyền. Còn chuyển nhượng quyền sở hữu là một hình thức mua đứt bán đoạn quyền SHTT, có thể là mua bán có trả phí, cho, tặng hoặc trao đổi. Tuy nhiên, hình thức này cũng tồn tại một số hạn chế như quyền đối với chỉ dẫn địa lý không được chuyển nhượng.


Định giá tài sản SHTT


Trong các trường hợp như M&A, cổ phần hóa, góp vốn, li-xăng hay chuyển nhượng quyền sở hữu… đều buộc DN phải định giá tài sản trí tuệ. Cần phải xác định rõ sự khác nhau giữa giá cả và giá trị của một tài sản SHTT. Việc định giá tài sản SHTT để thực hiện các hoạt động trên nhằm xác định được giá bằng đồng Việt Nam, phục vụ cho các hoạt động mua bán, chuyển nhượng, góp vốn. Do giá trị của tài sản SHTT là vô hình, không như hàng hóa có thể cân, đo hay xác định được chi phí sản xuất, nên cách thức xác định giá sao cho chuẩn nhất luôn được chú trọng. Tùy thuộc vào mục đích và đối tượng định giá mà có thể áp dụng nhiều phương pháp định giá khác nhau. Có thể sử dụng phương pháp định giá tiếp cận thu nhập, tính toán giá trị của tài sản trí tuệ dựa trên bản chất của tài sản trí tuệ và được đánh giá trên cơ sở lợi ích kinh tế mà tài sản đó mang lại; hoặc định giá theo phương pháp tiếp cận chi phí và định giá tiếp cận thị trường.


Hiện nay các thương hiệu lớn được định giá thương hiệu để khẳng định chỗ đứng trên thị trường, nên thường dựa vào các tiêu chí như: khả năng làm tăng giá trị sản phẩm của một thương hiệu; mức độ ảnh hưởng đối với quyết định mua của khách hàng; chi phí để xây dựng thương hiệu thành công; giá trị mua bán trên thị trường chứng khoán; và khả năng tạo ra lợi nhuận của thương hiệu.

Video liên quan

Chủ Đề