Tích hợp kiến thức liên môn trong dạy học ngữ văn

Tôi xin nêu ra một số suy nghĩ về phương pháp dạy học theo hướng tích hợp như sau: Mỗi GV dạy Ngữ văn cần có phương pháp dạy học phù hợp với từng bài, từng tuần, từng phân môn. Để có những giờ dạy theo quan điểm tích hợp đạt kết quả cao, GV phải biết lựa chọn các khía cạnh để tích hợp . Nội dung tích hợp cho cả 3 phân môn là rất phong phú. Có thể tích hợp trong từng thời điểm [ 1 tiết học, 1 bài học ]. Đây là tích hợp ngang. Phân môn Tập làm văn cũng có thể tích hợp với giờ Văn. Nhìn chung nếu giáo viên biết cách liên hệ hợp lý, nhuần nhuyễn thì hiệu quả dạy học sẽ tăng lên rõ rệt, nhất là phát huy được vai trò chủ thể, sáng tạo của học sinh. Trong hệ thống câu hỏi Đọc – hiểu văn bản, ít nhiều cũng thực hiện yêu cầu tích hợp. Khi học các văn bản nghị luận đều có các câu hỏi liên quan đến lý thuyết văn nghị luận ở phần Tập làm văn . . . Như vậy thì mỗi giáo viên chúng ta cần nhận thức rõ ý đồ của người soạn SGK để hướng dẫn học sinh đọc – hiểu văn bản theo phương pháp tích hợp. Cần khắc phục tình trạng xử lý bài học theo trạng thái tách rời nhau giữa 3 phân môn như trước đây. Bên cạnh vấn đề tích hợp trong từng thời điểm thì giáo viên có thể tích hợp theo từng vấn đề, lại còn bao hàm cả tích hợp dọc. Tích hợp theo hướng này, GV có thể vận dụng những kiến thức đã học hoặc sẽ học trong chương trình để dạy một đơn vị kiến thức nào đó. Có khi kiến thức tích hợp thuộc về chính phân môn này, cũng có thể thuộc về các phân môn khác. Điều quan trọng là GV phải thực sự linh hoạt. Đối vơi các đơn vị kiến thức cũ [đã dạy], GV dựng để tích hợp nhằm củng cố ôn tập, so sánh đối chiếu, đồng thời rèn cho học sinh ý thức và kỹ năng vận dụng “cái đã biết” để xử lý các vấn đề trước mắt, hình thành “cái cần biết”. Đối với các đợn vị kiến thức sẽ hình thành[ sẽ dạy ], GV đưa ra để gợi mở, giúp HS hình dung được mối quan hệ giữa các đơn vị kiến thức trong chương trình, đồng thời qua đó khơi gợi được tinh thần ham hiểu biết, muốn được khám phá trong học sinh – tức là tăng hứng thú cho người học. Hướng tích hợp này góp một phần rất lớn trong việc tăng thêm hiệu quả của quá trình dạy học Ngữ văn. Dựa vào thực tế là soạn giáo án và giảng dạy Ngữ văn nhiều năm tôi nhận thấy phạm vi tích hợp có thể mở rộng ra  nhiều: * Tích hợp Văn – Lịch sử : Tích hợp mở rộng theo hướng vận dụng những kiến thức về hoàn cảnh lịch sử của từng thời kỳ,về nhân vật lịch sử. . . để lý giải và khai thác giá trị , thành công cũng như hạn chế của tác phẩm * Tích hợp Văn – Địa lý: Tích hợp mở rộng theo hướng vận dụng kiến thức hiểu biết về các địa danh để lý giải rõ một số chi tiết hình ảnh nghệ thuật . * Tích hợp Văn – Âm nhạc: Ví dụ khi ta dạy một tác phẩm văn học như bài “ Đồng chí”, “Viếng lăng Bác” Ngữ văn 9 GV có thể cho các em hát, hoặc ngâm thơ, có những tác phẩm có thể cho học sinh đóng kịch … làm như vậy các em sẽ hứng thú học hơn và kiến thức sẽ được khắc sâu hơn. * Tích hợp Văn – Mỹ thuật: Khi dạy học một tác phẩm văn chương GV có thể cho học sinh vẽ tranh minh họa một cảnh hay một nhân vật mà học sinh yêu thích, sau đó các em đặt tiêu đề cho bức tranh và nêu lý do vì sao lại chọn nội dung ấy để tái hiện bằng tranh vẽ. Cũng có thể cho học sinh nhận xét bức tranh trong SGK, so sánh với bức tranh của mình… Như vậy qua nội dung phân tích ở trên, ta có thể một lần nữa khẳng định rằng GV đúng một vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả giờ dạy Ngữ văn  theo hướng tích hợp. Chương trình và SGK chỉ là định hướng, vấn đề đặt ra là GV phải xác định được hướng tích hợp cho từng bài, từng phần cụ thể.

Định hướng tích hợp:

Thực tế trong khi dạy GV có thể thực hiện tích hợp theo nhiều cách thức khác nhau. Việc lưa chọn cách thức nào là tùy thuộc vào nội dung cụ thể của từng môn học. Nhưng có thể tốt hơn nếu ta thực hiện tích hợp theo những cách thức sau:

1/ Tích hợp thông qua việc kiểm tra bài cũ:

Kiểm tra bài cũ là bước đầu tiên trong tiến trình tổ chức hoạt động dạy học một bài cụ thể. Mục đích của hoạt động này là để kiểm tra việc học ở nhà cũng như mức độ hiểu bài của học sinh. Ngoài ra, đây cũng là hoạt động có tính chất kết nối giữa bài đã học và bài đang học [ bài mới ]. Vì vậy, việc thực hiện tích hợp trong quá trình kiểm tra bài cũ là vô cùng cần thiết và cũng khá thuận lợi.

2 / Tích hợp thông qua việc giới thiệu bài mới.

Giới thiệu bài mới là một thao tác nhỏ, chiếm một lượng thời gian không đáng kể trong tiết dạy [và không phải bài nào, tiết dạy nào cũng cần giới thiệu vào bài một cách công phu bài bản]. Tuy nhiên thao tác này lại có ý nghĩa khá lớn trong việc chuẩn bị hứng thú cho HS trước khi bước vào bài học. Vì vậy GV có thể vận dụng thao tác này để thực hiện tích hợp .

3 . Tích hợp thông qua câu hỏi tìm hiểu bài.


Trong hoạt động dạy học Ngữ văn, hình thức hỏi – đáp đóng vai trị hết sức quan trọng, thể hiện tính tích cực, chủ động của người học cũng như vai trò chủ động của GV. Hình thức này được thực hiện trong hầu hết các bước, các hoạt động dạy – học. Nếu GV biết lồng ghép tích hợp thông qua hệ thống câu hỏi này thì hình thức tích hợp sẽ rất phong phú: Văn – Văn; Văn – Tiếng Việt; Văn – Tập làm văn, thì hiệu quả tích hợp sẽ được nâng cao rất nhiều.

  1. Tích hợp thông qua phương tiện dạy học như bảng phụ tranh ảnh . . .

Khi dạy những văn bản có tranh minh họa trong SGK Ngữ văn 6,7,8,9 GV có thể sử dụng kênh hình để tích hợp, giúp các em cảm thụ văn học tốt hơn. Đây là một yêu cầu rất quan trọng trong đổi mới phương pháp dạy học hiện nay. Điều quan trọng là để thực hiện được hình thức tích hợp này đòi hỏi người dạy phải có sự chuẩn bị công phu, biết đầu tư trí tuệ, công sức và vật chất. Mặt khác, nó còn phụ thuộc vào điều kiện cơ sở vật chất của từng trường.
5.Tích hợp thông qua nội dung tiểu tiết từng phần hay tổng kết giờ học. Đây là hình thức tích hợp thông qua lời thuyết giảng của GV, vừa có ý nghĩa khái quát lại vấn đề, vừa có ý nghĩa chuyển tiếp. GV có thể tích hợp dưới dạng liên hệ, so sánh đối chiếu.

6 . Tích hợp thông qua hệ thống bài tập [ ở lớp cũng như ở nhà ]


Đây là điều kiện thuận lợi nhất để GV tiến hành phương pháp tích hợp sau khi học xong một tiết học hoặc học xong một bài học, giúp HS nắm chắc kiến thức ấy để tích hợp trong việc rèn luyện kỹ năng: nghe, đọc, nói, viết .
  1. Tích hợp thông qua hình thức kiểm tra.

Chương trình Ngữ văn được xây dựng theo tinh thần tích hợp, vì thế khi ôn tập và tiến hành kiểm tra, GV cần giúp HS nắm chắc các vấn đề: – Các kiến thức về Văn, tiếng Việt, Tập làm văn đều cùng dựa vào cùng một hệ thông văn bản chung để khai thác và hình thành. Khi học ôn cần liên hệ và gắn các kiến thức của mỗi phân môn với các văn bản chung trong SGK. – Do yêu cầu đổi mới kiểm tra đánh giá, bài kiểm tra áp dụng 1 phần thi trắc nghiệm kết hợp với tự luận . Phần trắc nghiệm sẽ kiểm tra một cách tổng hợp trên diện rộng các kiến thức đã học, vì thế, khi hướng dẫn học sinh ôn tập GV cần lưu ý HS không nên học tủ, học lệch mà phải học toàn diện, đầy đủ. GV cần lưu ý xây dựng đề kiểm tra 15 phút, 1 tiết, học kỳ theo yêu cầu tích hợp. Cấu trúc của một bài kiểm tra thường có 2 phần. – Phần I [ trắc nghiệm ] Phần này chiếm 30 % số điểm, nhằm kiểm tra các kiến thức về đọc – hiểu về tiếng Việt.

– Phần II [ tự luận ] phần này chiếm 70 % số điểm nhằm kiểm tra kiến thức và kỹ năng Tập làm văn qua một bài hoặc một đoạn văn ngắn.

  1. Tích hợp gắn với đời sống xã hội.

Bài học thường được gắn với đời sống xã hội. Sự tích hợp này rất tự nhiên vì văn học xuất phát từ cuộc sống xã hội và  trở về với cuộc sống. Dạy văn là dạy từ cuộc đời, qua cuộc đời và cho cuộc đời. Hầu hết các lớp đều có học văn chương hiện đại là văn chương phản ánh cuộc sống hiện nay, giúp HS dự học văn quá khứ, văn học nước ngoài đều gắn với văn học dân tộc, văn học hiện nay. GV cần có ý thức qua các tiết tự đọc – hiểu văn bản, đưa sự tiếp nhận mọi văn bản trở về tự ý thức, về cách nhìn mới đối với thực tiễn như là một quy luật của cảm thụ văn học. Qua thực tế đứng lớp từ khi dạy học dạy học theo phương pháp cũ [ chưa thay sách ] tôi thấy kỹ năng toàn diện của học sinh còn thấp: cụ thể các em thích học văn nhưng kỹ năng làm bài Tập làm văn lại yếu, sử dụng từ ngữ không chuẩn xác… Từ khi áp dụng phương pháp dạy học này thì chất lượng học sinh trong các năm học tăng lên rõ rệt, không còn nhiều HS có năng lực kém về môn văn, HS yếu cũng giảm nhiều, tỷ lệ HS khá giỏi tăng lên rõ rệt. Đây là những nghiên cứu, những suy nghĩ của tôi, đã được đồng nghiệp góp ý và vận dụng trong dạy học. Tuy nhiên, để hoàn thiện hơn, để hiệu quả giáo dục cao hơn, đạt chất lượng tốt hơn, tôi rất mong được sự bổ sung các ý kiến xây dựng của các thầy cô. [Tài liệu sưu tầm ]

Tuyển tập những sáng kiến kinh nghiệm hay ://vanhay.edu.vn/tag/sang-kien-kinh-nghiem-mon-van

sáng kiến kinh nghiệm môn văn

Chuyên đề: Nâng cao hiệu quả dạy học tích hợp liên môn trong môn Ngữ văn

I. LÍ DO CHỌN CHUYÊN ĐỀ:

1. Cơ sở lý luận:

“Con người là tổng hòa của các mối quan hệ xã hội”. Trong cuộc sống, con người muốn tồn tại và phát triển toàn diện thì phải có tri thức và việc tiếp nhận kiến thức thông qua quá trình học tập trong nhà trường và ngoài xã hội. Tri thức  bao gồm tri thức tự nhiên và tri thức xã hội.

Trong thời phong kiến, ông cha ta từng quan niệm “Văn - Sử - Triết bất phân” điều đó có nghĩa: Trong văn có triết, có sử; kiến thức của các môn có thể bổ sung, hỗ trợ cho nhau, muốn hiểu được một tác phẩm văn học phải hiểu được hoàn cảnh sáng tác tức là phải biết hoàn cảnh lịch sử ra đời của tác phẩm, bối cảnh khi tác phẩm ra đời. Kiến thức của triết học sẽ giúp chúng ta hiểu về các quy luật, những bài học rút ra sau khi học một tác phẩm, xem một bộ phim, nghe một câu chuyện. Khi dạy bài "Bài thơ về tiểu đội xe không kính" giáo viên không thể không nhắc tới cuộc kháng chiến chống Mỹ vĩ đại của dân tộc. Khi dạy xong bài “ Con cò” của Chế Lan Viên không ai không thấm thía quy luật tâm lí của con người:

“Con dù lớn vẫn là con của mẹ

Đi hết đời lòng mẹ vẫn theo con”

   Vì vậy, vận dụng nguyên tắc liên môn trong dạy học Văn học là để học sinh có thể thấy mối liên hệ hữu cơ giữa các lĩnh vực đời sống xã hội, giữa các môn học, từ đó phát triển tư duy cho học sinh.

2. Cơ sở thực tiễn:

Xuất phát từ những căn cứ mục tiêu tổng quát của việc phát triển con người phát triển toàn diện, môn Ngữ Văn có vị trí đặc biệt trong việc thực hiện mục tiêu chung của trường trung học: góp phần hình thành những con người có trình độ học vấn phổ thông , chuẩn bị cho họ tiếp tục học lên bậc học cao hơn. Đó là những con người có ý tức tự tu dưỡng, biết thương yêu quý trọng gia đình, bè bạn, có lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, biết hướng tới những tư tưởng, tình cảm cao đẹp như lòng nhân ái, tinh thần tôn trọng lẽ phải sự công bằng, lòng căm ghét cái xấu, cái ác. Đó là những con người biết rèn luyện để có tính tự lập, có tư duy sáng tạo, bước đầu có năng lực cảm thụ các giá trị chân, thiện, mỹ, cho nghệ thuật, trước hết là trong văn học, có năng lực thực hành và năng lực sử dụng Tiếng Việt như một công cụ để tư duy và giao tiếp. Việc giảng dạy theo quan điểm tích hợp không phủ định việc dạy các tri thức, kỹ năng riêng của từng phân môn, đồng thời đó còn là sự tích hợp liên môn giữa Ngữ văn và các môn học khác như Lịch sử, Địa lý, GDCD, Anh Văn, Sinh học, Vật lý, Toán học, Âm nhạc, Mỹ thuật... Vấn đề là làm thế nào phối hợp các tri thức, kĩ năng thuộc các môn học đó vào trong bài dạy thật nhuần nhuyễn nhằm đạt tới mục tiêu chung của môn Ngữ Văn. .

        II. Mục đích, phạm vi, đối tượng và phương pháp:

  •  Mục đích: Đưa tích hợp các môn vào trong bài giảng Ngữ văn một cách sâu hơn và bài bản hơn.
  •  Phạm vi:  Môn Ngữ văn THCS.
  • Đối tượng: HS trường THCS Phan Đình Phùng.
  • Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu, phân tích, tổng hợp các văn bản, tài liệu liên quan đến kiến thức liên môn.

III. Nội dung:

  1. Khảo sát tình hình:Thực trạng việc dạy học liên môn tại cơ sở:

a. Thuận lợi

- Hiện nay giáo viên rất tích cực trong việc đổi mới phương pháp, vận dụng quan điểm dạy học liên môn vào giảng dạy các bộ môn để nâng cao hơn nữa hiệu quả giáo dục.

- Cơ sở vật chất và điều kiện dạy học tại trường đảm bảo.

- Học sinh cũng như giáo viên có nhiều nguồn tư liệu phong phú.

   b. Khó khăn:

- Lượng kiến thức nhiều song thời gian học tập cho các môn còn ít.

    - Học sinh còn đối phó, nặng về điểm chưa thực sự hứng thú với các môn xã hội.

- Mặc dù, quan niệm dạy học liên môn đã được vận dụng vào giảng dạy, song hiệu quả đạt được là chưa cao.

-  Với đặc điểm của thời đại 4.0 các em có nhiều thú vui giải trí, chưa thực sự ham thích tìm tòi đọc sách để nâng cao hiểu biết cũng như phát triển tư duy ngôn ngữ.

2. Giải pháp thực hiện:

a. Quan niệm về dạy học liên môn:

     Dạy học liên môn là phải xác định các nội dung kiến thức liên quan đến hai hay nhiều môn học để dạy học, tránh việc học sinh phải học lại nhiều lần cùng một nội dung kiến thức ở các môn học khác nhau. Đối với những kiến thức liên môn nhưng có một môn học chiếm ưu thế thì có thể bố trí dạy trong chương trình của môn đó và không dạy lại ở các môn khác. Khi nội dung kiến thức có tính liên môn cao hơn thì sẽ tách ra thành các chủ đề liên môn để tổ chức dạy học riêng vào một thời điểm phù hợp, song song với quá trình dạy học các bộ môn liên quan.

Trong phạm vi của chuyên đề này, chúng tôi vận dụng kiến thức liên môn tạo nên sự gắn kết kiến thức của các môn học Ngữ văn, GDCD, Anh văn giúp học sinh hiểu được sâu sắc nội dung văn bản, từ đó có ý thức học tập, rèn luyện về kiến thức cũng như các kỷ năng nhất là tư duy ngôn ngữ trong thời kỳ hướng đến “công dân toàn cầu” nhưng không mai một giá trị của dân tộc. Qua đó, thấy được mối liên hệ hữu cơ giữa các lĩnh vực của đời sống xã hội và nhận thức trách nhiệm cá nhân trong sự phát triển xã hội.

 Việc sử dụng kiến thức liên môn còn giúp học sinh củng cố thêm những hiểu biết của mình ở nhiều môn học khác. HS phải biết đặt các khái niệm đã học trong từng môn học cũng như giữa các môn học khác nhau, có như vậy thì các em mới thực sự làm chủ được kiến thức.

Đặc biệt từ việc hiểu về ý nghĩa, bài học và biết cách đối chiếu về ngôn ngữ Tiếng Việt và Tiếng Anh của truyện Ngụ ngôn “ Thầy bói xem voi” thông qua vận dụng các kiến thức liên môn sẽ tạo nên những suy nghĩ tích cực tác động mạnh mẽ đến quan điểm, thái độ nhìn nhận đối với sự vật, hiện tượng, đặc biệt là biết sử dụng song ngữ trong một số trường hợp nhằm giúp các em chủ động, tích cực và hứng thú hơn nữa trong học tập và cuộc sống.

Với việc dạy học vận dụng kiến thức liên môn có giá trị thực tiễn to lớn trong hoạt động giáo dục vì nó cung cấp kiến thức và rèn kĩ năng cho HS phát triển những năng lực cần thiết nhằm giải quyết những vấn đề đặt ra trong thực tiễn. Điều này giúp cho các em khả năng tư duy, biết tổng hợp và  khái quát vấn đề. Từ đó góp phần nâng cao năng lực của người học, giúp đào tạo những con người có đầy đủ phẩm chất và năng lực để giải quyết các tình huống của cuộc sống.

 Các mức độ của day học liên môn:

- Mức độ thấp: Giáo viên nhắc lại tài liệu, sự kiện, kĩ năng các môn có liên quan. Điều này có nghĩa trong quá trình dạy, giáo viên vận dụng vốn kiến thức của mình về kiến thức liên môn trong bài giảng để học sinh hiểu sâu hơn về vấn đề.

- Mức độ vừa:  Học sinh sử dụng kiến thức liên môn để giải quyết vấn đề giáo viên đặt ra. cao hơn đòi hỏi học sinh nhớ lại và vận dụng kiến thức đã học của các môn học khác, và cao nhất đòi hỏi học sinh phải độc lập giải quyết các bài toán nhận thức bằng vốn kiến thức đã biết, huy động các môn có liên quan theo phương pháp nghiên cứu.

- Dạy học vận dụng kiến thức liên môn giúp cho giờ học sẽ trở nên sinh động hơn, vì không chỉ có giáo viên là người trình bày mà học sinh cũng tham gia vào quá trình tiếp nhận kiến thức, từ đó phát huy tính tích cực của học sinh.

- Mức độ cao: Học sinh vận dụng kiến thức để tự giải quyết.

- Dạy học liên môn cũng góp phần phát triển tư duy liên hệ, liên tưởng ở học sinh, tạo cho học sinh một thói quen trong tư duy, lập luận tức là khi xem xét một vấn đề phải đặt chúng trong một hệ quy chiếu, từ đó mới có thể nhận thức vấn đề một cách thấu đáo.

b. Một số nội dung tích hợp cụ thể.

Trong quá trình học tập ở nhà trường, học sinh sẽ được học các môn học bao gồm các môn khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Môn Ngữ văn thuộc bộ môn khoa học xã hội, phạm vi giao thoa kiến thức của nó thường là các môn trong nhóm có quan hệ với nhau như: Lịch sử, Địa lý, GDCD, Mĩ thuật ...

* Tích hợp với môn Lịch sử:

Kiến thức môn Lịch sử sẽ hỗ trợ cho giáo viên và học sinh hiểu thêm về hoàn cảnh ra đời của tác phẩm; đặt nhân vật, hiện tượng trong bối cảnh lịch sử xã hội nhằm lí giải tư tưởng, tình cảm, tính cách của nhân vật gắn với một giai đoạn lịch sử cụ thể của dân tộc ...

* Tích hợp với môn Địa lí: Vận dụng kiến thức địa lí các em sẽ hình dung ra địa danh, khí hậu, thổ nhưỡng, con người mà văn bản văn học đề cập.

       * Tích hợp môn Giáo dục công dân:

Trong văn bản có nhiều nội dung liên quan đến môn GDCD. Nắm chắc kiến thức môn này sẽ giúp học sinh dễ dàng liên hệ, đối chiếu các tình huống và vận dụng vào thực tiễn cuộc sống. Và điểm gặp nhau đó là giáo dục những phẩm chất tốt đẹp trong học sinh.

* Tích hợp với môn Âm nhạc và Mĩ thuật:

Ta vẫn thường nghe nhắc đến cụm từ Thi trung hữu họa hay nhạc tính trong văn chương. Rõ ràng, Âm nhạc và Mĩ thuật là những môn học có kiến thức liên quan đến môn Ngữ văn.

* Tích hợp với các môn khoa học tự nhiên:

Giữa khoa học tự nhiên và khoa học xã hội cũng có quan hệ gắn bó với nhau vì vậy khi giảng một vấn đề có liên quan thì phải vận dụng tất cả kiến thức liên quan đến các bộ môn cần tìm hiểu.

c. Giải pháp cụ thể:

Để thực hiện tiết dạy lần lượt thực hiện các bước sau đây:

Một là:  Tìm lĩnh vực kiến thức  tích hợp:

- Giáo viên cần nghiên cứu bài dạy để tìm kiếm lĩnh vực tích hợp kiến thức liên môn. Nói cách khác là tìm hiểu kiến thức chung giữa các môn và sử dụng để khai thác bài học Ngữ văn.

- Xác định mức độ tích hợp thấp, cao và vận dụng hay chủ động sử dụng để giải quyết vấn đề.

Ví dụ: Trong bài “ Thầy bói xem voi” giáo viên cần xác định kiến thức vận dụng liên môn như: Tích hợp: GDCD và Tiếng Anh qua tiểu phẩm Thầy bói xem voi.

- Thể hiện qua hình thức song ngữ.

- Lời bình: của HS trong hoạt cảnh

Hai là:  Nghiên cứu kiến thức liên môn:

- Sau khi xác định nội dung cần tích hợp, giáo viên cần trao đổi với giáo viên bộ môn để biết chính xác kiến thức cần tích hợp.

Ví dụ: Trong tiểu phẩm “ Thầy bói xem voi” để vận dụng tốt kiến thức GDCD là kỹ năng sống rút ra sau khi học văn bản này.

Hoặc với tiểu phẩm “ Thầy bói xem voi” để vận dụng Tiếng Anh và Tiếng Việt nhằm rèn cho học sinh biết so chiếu ngôn ngữ trong cuộc sống giáo viên cần tham khảo ý kiến của giáo viên Tiếng Anh để có cách phát âm thích hợp.

- Nghiên cứu sách giáo khoa, tài liệu khác và chọn lọc kiến thức cần thiết, đủ để vận dụng vào  khai thác bài học môn mình đảm nhiệm.

         Ba là:  Sử dụng tư liệu về kiến thức liên môn:

        - Việc sử dụng tài liệu liên môn còn giúp người học có thêm cơ sở để hiểu rõ quy luật phát triển của văn học, hình thành củng cố nhiều phương pháp nghiên cứu văn học. Sử dụng tư liệu các tác phẩm nghệ thuật trong việc dạy học môn Ngữ văn như: Hội họa, kiến trúc, sân khấu, điêu khắc, ca nhạc, phim ảnh…là kết quả sáng tạo của xã hội loài người. Một hình ảnh nghệ thuật giúp người học sử dụng trí tưởng tượng của mình tập trung vào những điểm quan trọng.

Với văn bản “ Thầy bói xem voi” với chủ đề là truyện dân gian như: Truyện Cười, truyện Ngụ ngôn ở phần kiểm tra bài cũ, Giáo viên cho học sinh hát bài Thằng Bờm trong đó có sử dụng trang phục, nhạc điệu của dân gian giúp các em sống lại trong không khí dân gian mà các em đã tìm hiểu. Âm nhạc giúp các em cảm nhận rõ hơn về không khí, tâm hồn của con người Việt.

        - Học sinh tiếp nhận kiến thức văn học qua tranh ảnh, đồ dùng trực quan kết hợp với bài viết sách giáo khoa và các tài liệu tham khảo sẽ nhớ lâu và hứng thú hơn.

Để việc khai thác nguồn tư liệu này có hiệu quả, phát huy tính tích cực của học sinh, giáo viên cần nghiên cứu kỹ mục tiêu và nội dung của từng tư liệu trong bài học, tư liệu thuyết minh hình ảnh.

Sử dụng hình ảnh trong giải nghĩa từ ngữ: 

 Bốn là:Thiết kế giáo án giờ học vận dụng kiến thức liên môn

Thiết kế giáo án giờ học vận dụng kiến thức liên môn phải bám chặt vào những kiến thức các bộ môn có liên quan.

Thiết kế giáo án giờ học vận dụng kiến thức liên môn phải bảo đảm nội dung và cấu trúc đặc thù nhưng không gò ép vào một khuôn mẫu cứng nhắc mà cần tạo ra những chân trời mở cho sự tìm tòi sáng tạo trong các phương án tiếp nhận của học sinh, trên cơ sở bảo đảm được chủ đích, yêu cầu chung của giờ học.

Nội dung dạy học của thiết kế giáo án giờ học vận dụng kiến thức liên môn phải làm rõ những tri thức và kĩ năng cần hình thành, tích lũy cho HS qua phân tích, chiếm lĩnh tri thức. Mặt khác, phải chú trọng nội dung tích hợp giữa tri thức bộ môn mình dạy với các bộ môn khác.

Giáo án giờ học vận dụng kiến thức liên môn theo quan điểm tích hợp phải chú trọng thiết kế vận dụng phối hợp các tri thức và kỹ năng của các phân môn vào xử lí các tình huống đặt ra, qua đó chẳng những lĩnh hội được những tri thức và kĩ năng riêng rẽ của từng phân môn mà còn chiếm lĩnh tri thức và phát triển năng lực tích hợp.

Trong bài dạy: “Thầy bói xem voi” GV thiết kế và lựa chọn những chi tiết phù hợp nhất là Tích hợp với GDCD và Tiếng Anh vì nhằm giáo dục cho học sinh những kỹ năng cần thiết sau khi học xong bài học này.

Năm là: Tổ chức giờ học

- Tổ chức giờ học trên lớp là tiến trình phối hợp hữu cơ hoạt động của giáo viên và học sinh theo một cơ cấu sư phạm hợp lí, khoa học, trong đó giáo viên giữ vai trò, chức năng tổ chức, hướng dẫn, định hướng; học sinh được đặt vào vị trí trung tâm của quá trình tiếp nhận, đóng vai trò chủ thể cảm thụ, nhận thức thẩm mĩ, trực tiếp tiến hành hoạt động tiếp cận, khám phá, chiếm lĩnh kiến thức.

- Sử dụng phương pháp, kĩ thuật dạy học phù hợp để tổ chức cho học sinh hoạt động. Chú trọng dạy cách học, dạy tự đọc, tự học không coi nhẹ việc cung cấp tri thức cho học sinh. Vấn đề là phải xử lí đúng đắn mối quan hệ giữa bồi dưỡng kiến thức, rèn luyện kĩ năng và hình thành, phát triển năng lực, tiềm lực cho học sinh.

- Ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học; qua phương tiện hiện đại này, giáo viên có thể giúp các em tiếp cận nhanh chóng những kiến thức thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau.

V. KẾT LUẬN

Dạy học liên môn là một nguyên tắc quan trọng trong dạy học nói chung và trong dạy học Ngữ văn nói riêng. Tuy nhiên để thực hiện tốt và có hiệu quả đòi hỏi sự nỗ lực ở cả thầy và trò. Và việc thực hiện nó không phải bài nào, không phải phần nào cũng thực hiện được. Vấn đề là sự thay đổi nhận thức, quyết tâm của đội ngũ giáo viên, vì mục tiêu giáo dục theo định hướng phát triển năng lực học sinh và giúp các em trở thành con người toàn diện.

Do thời gian thực hiện chưa lâu nên bản báo cáo còn chưa thực sự hoàn chỉnh, mong sự góp ý của anh em đồng nghiệp để sáng kiến được hoàn chỉnh hơn. Xin chân thành cám ơn.

Trên đây là một số nội dung của chuyên đề: Để minh họa những vấn đề đã nêu, chúng tôi áp dụng vào một bài dạy cụ thể đó là tiết 40 " Thầy bói xem voi" môn Ngữ văn lớp 6.

Đông Hà, ngày 19 tháng 10 năm 2019

Người thực hiện:

Tổ Văn – Trường THCS Phan Đình Phùng

Video liên quan

Chủ Đề