Promissory estoppel ngoại lệ của consideration

KỲ 1: ĐIỀU KIỆN HÌNH THÀNH HỢP ĐỒNG? SỰ CÓ QUA CÓ LẠI.

CÁC VẤN ĐỀ VỀ ĐỐI ỨNG [CONSIDERATION]

  1. Khái niệm về consideration [đối ứng]:

Đối ứng là điều kiện hình thành nên hợp đồng ở Anh; là những gì mỗi bên đưa vào một hợp đồng. Nó thường là một sự hứa hẹn cho một hành động hoặc một sự hứa hẹn khác.

Đối ứng được định nghĩa như sau:

Một đối ứng có giá trị trong ngữ cảnh pháp lý có thể bao gồm một số quyền, lợi ích, lợi nhuận hoặc quyền lợi cho một bên, hoặc sự cho khất nợ, sự thiệt hại, tổn thất hoặc trách nhiệm mà bên kia cam kết, nhận hoặc gánh chịu.

Currie v Misa 1875

Từ điển luật Collins:Consideration là sự trao đổi, hứa hẹn theo đó mỗi bên được lợi và chịu thiệt. Trong luậtAnh, yêu cầu có consideration trước khi hợpđồng ràng buộc pháp lí. Các nhà bình luận và lí thuyết gia pháp lí nhấn mạnh điều này dựa trên sự nhìn nhận hợp đồng là một món hời được trao đi đổi lại[1].

Tác giả Phạm Duy nghĩa nhận định consideration là nghĩa vụ đối ứng, theo đó, để hợp đồng được xác lập một cách có hiệu lực, ngoài cam kết của các bên phải tồn tại consideration như là một lời hứa của người được đề nghị giao kết hợp đồng sẽ thực hiện một nghĩa vụ đối ứng và theothông luật, considerationphải được hiểu như là sự trả giá cho một người khi người này hứa thực hiện một hành vi nhất định[2].

Consideration được coi là một cái gì đó có giá trị được đưa ra nhằm đổi lại cho việc thực hiện hoặc hứa hẹn thực hiện với mục đích hình thành một hợp đồng; nói chung là cần thiết để thực hiện một lời hứa ràng buộc và thực hiện thoả thuận của các bên được thi hành như một hợp đồng.Considerationphân biệt hợp đồng với quà tặng[3].

CASE 1: Cô Paula đang điều hành một doanh nghiệp tại Bờ Tây và vui vẻ với cuộc sống đơn thân, cô đồng ý lời đề nghị của mẹ mình, trở lại Bờ Đông để chăm sóc mẹ. Cảm động, người mẹ hứa cho Paula một khoản tiền trong tài khoản ngân hàng. Không văn bản nào được kí kết, và sau khi mẹ Paula mất, các anh chị em khác phản đối việc Paula sở hữu tài khoản ngân hàng trên. Những người này cho rằng không hợp đồng nào được thiết lập giữa mẹ và Paula vì Paula không đưa ra một consideration nào để đổi lại tài khoản ngân hàng đó. Toà án nhìn nhận:

[1] Paula chăm sóc mẹ trên cơ sở đề nghị của mẹ cô và,

[2] Việc cô từ bỏ sự nghiệp kinh doanh đang trên đà phát triển đã cấu thành nên consideration, và theo đó lời hứa phải được thực thi.

Xem xét tình huống trên, bản chất pháp lí của consideration là sự trao đổi hứa hẹn những gì có giá trị giữa các bên. Trên thực tế, Paula đã thực hiện việc chăm sóc mẹ [1] và đổi lại [2], để cảm ơn, mẹ Paula đã hứa cho Paula số tiền trong tài khoản ngân hàng. Căn cứ cả trao đổi, hứa hẹn đều có giá trị [something of value], Toà án công nhận có consideration trong sự trao đổi đó. Và việc để Paula nắm giữ tài khoản ngân hàng của mẹ cô là hợp pháp.

Consideration gồm ba đặc tính[4]:

[1] Hứa hẹn trong suốt quá trình thương thuyết, mặc cả phụ thuộc vào những gì các bên nhận được;

[2] consideration bao gồm một cái gì đó giá trị [something of value];

[3] lợi ích và sự hi sinh của các bên là hợp pháp.

Tóm lại, đó là sự trao đổi có qua có lại. Yếu tố tiên quyết thừa nhận có hình thành hợp đồng theo hệ thống Common Law. Thật ra thì xét về consideration thì phải xét là ở Common Law hay Civil Law. Mặc dù consideration là một trong các yếu tố nhằm xét hợp đồng có hiệu lực ở Common Law; Civil Law lại không áp dụng nguyên tắc này, và consideration không là một trong các yếu tố bắt buộc.

Ví dụ ở pháp luật Việt Nam thì ở khoản 2 điều 402 Bộ Luật Dân sự 2015 có quy định về hợp đồng đơn vụ theo đó chỉ có 1 bên có nghĩa vụ, chẳng hạn như hợp đồng tặng cho tài sản.

Theo Điều 457 Bộ Luật Dân sự 2015 thì Hợp đồng tặng cho tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên tặng cho giao tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù, bên được tặng cho đồng ý nhận.

  1. Đối ứng có giá trị pháp lý

Có hai loại đối ứng có giá trị pháp lý được thực thi có thể thực thi. Nếu đối ứng đã xảy ra, thì nó không được tính là căn cứ hình thành hợp đồng. Một bên không nhất thiết đưa cho bên kia cùng một loại đối ứng miễn là đối ứng được đưa ra có giá trị pháp lý.

2.1 Đối ứng được thực thi [executed consideration]

Executed consideration là một hành động trao đổi cho một sự hứa hẹn. Nếu A đề nghị một phần thưởng để trao đổi cho một tài sản bị mất, thì lời hứa của anh ta sẽ ràng buộc khi B thực hiện hành động hoàn trả tài sản của A cho anh ta. A không bị ràng buộc trả bất kỳ thứ gì cho bất kỳ ai cho đến khi hành động được mô tả được hoàn tất. Hành động của nguyên đơn trong vụ Carlill[5], đáp lại lời hứa thưởng của công ty đạn khói, do đó tạo thành executed consideration [đối ứng được thực thi].

2.2 Đối ứng có thể thực thi [executory consideration]

Executory consideration là một sự hứa hẹn trao đổi cho một sự hứa hẹn. Đối ứng xuất hiện khi lời hứa này đổi lấy lời hứa khác, không phải là một hành động được thực thi. Nếu một khách hàng đặt những món hàng mà người bán hàng cam kết nhận từ nhà sản xuất, người bán hàng hứa hẹn cung cấp những món hàng và khách hàng hứa hẹn nhận và thanh toán cho những món hàng đó. Không có ai đã hoàn thành bất kỳ việc gì, nhưng mỗi bên đã đưa ra lời hứa để nhận được lời hứa của bên còn lại. Vi phạm hợp đồng sẽ xảy ra nếu bất kỳ bên nào rút lại lời hứa mà không được sự đồng ý của bên còn lại.

2.3 Đối ứng trong quá khứ [past consideration]

Bất kỳ việc gì đã được thực hiện trước khi một lời hứa được đưa ra là đối ứng trong quá khứ [past consideration]. Nhìn chung, việc này không đủ để ràng buộc lời hứa.

Past consideration có thể được định nghĩa như sau:

một số việc đã được thực hiện hoàn tất trước khi lời hứa được đưa ra. Ví dụ như một lời hứa thanh toán cho một công việc đã được thực hiện. Trừ khi có một lời hứa ẩn ý sẽ thanh toán một khoản tiền hợp lý trước khi công việc bắt đầu.

CASE 2: Án lệ Re McArdle 1951

Sự kiện: Theo một di chúc, những người con của người để lại di chúc được quyền thừa hưởng một căn nhà sau khi mẹ của họ mất. Trong thời gian người mẹ còn sống, một trong số những người con và vợ của anh ta sống trong ngôi nhà này với người mẹ. Người vợ sửa sang lại ngôi nhà. Những người con sau đó đồng ý bằng văn bản hoàn trả lại cho người vợ để đáp lại việc người vợ thực hiện một số việc sửa sang và cải tạo nhất định. Nhưng khi người mẹ mất, họ từ chối làm như vậy.

Quyết định: Những công việc sửa sang ngôi nhà đã hoàn tất trước khi các văn bản được ký kết. Tại thời điểm của lời hứa, việc sửa sang là past consideration [đối ứng trong quá khứ] và do đó lời hứa không có tính chất ràng buộc.

Tuy nhiên khi đối ứng được ngụ ý tại thời điểm bắt đầu, nó sẽ không được xem là quá khứ.

CASE 3: Án lệ Stewart v Casey 1892

Sự kiện: Bị đơn yêu cầu nguyên đơn quảng cáo bằng sáng chế của họ. Khi công việc hoàn tất, bị đơn hứa sẽ thanh toán cho nguyên đơn.

Quyết định: Công việc quảng cáo thông thường sẽ phải được thanh toán và điều này đã được ngụ ý tại thời điểm bắt đầu. Do đó, có tồn tại một thỏa thuận có hiệu lực. => Có xuất hiện consideration.

Nếu đã có một thỏa thuận hiện hữu. Sau đó chỉ một bên có hứa hẹn xa hơn, thì không có thêm thỏa thuận nào được tạo ra. Ngay cả khi sự hứa hẹn đó liên quan trực tiếp đến việc thương lượng trước đó, nó sẽ được xem là past consideration.

CASE 4: Án lệ Roscorla v Thomas 1842

Sự kiện: Nguyên đơn đồng ý mua một con ngựa của bị đơn theo giá định sẵn. Sau khi kết thúc thương lượng và xác lập hợp đồng, bị đơn nói với nguyên đơn rằng con ngựa không có tật xấu, khiếm khuyết nào. Tuy nhiên sau khi về, con ngựa trở nên hung dữ, và nguyên đơn kiện lời đảm bảo của bị đơn.

Quyết định: Lời hứa được đưa ra sau khi việc mua bán đã kết thúc và không được hỗ trợ bởi đối ứng mới.

2.4 Tính thỏa đáng và tính hiệu lực

Đối ứng không nhất thiết thỏa đáng, nhưng phải có hiệu lực thi hành. Điều này có nghĩa là những gì được xem là đối ứng thì phải phù hợp theo quy định của pháp luật, nhưng không nhất thiết các đối ứng phải có giá trị tương xứng với nhau.

Tòa án sẽ đảm bảo rằng một hành động hoặc một lời hứa cụ thể có thể được xem là đối ứng, dựa trên 2 quy tắc sau:

Đối ứng không nhất thiết thỏa đáng [nghĩa là, không cần phải có giá trị tương đương với đối ứng còn lại]. Đơn giản, một cuộc thương lượng tệ là lỗi của các bên, pháp luật không quan tâm và điều chỉnh, miễn nó hợp lệ.
Đối ứng phải có hiệu lực thi hành. Nó phải hợp pháp.

2.4.1 Tính thỏa đáng

Xem xét kỹ hơn, một bên được giả định là có đủ khả năng biết được lợi ích của anh ta, và tòa án sẽ không cân nhắc giá trị tương đối của lời hứa hoặc hành động được trao đổi.

CASE 5: Án lệ Thomas v Thomas 1842

Sự kiện: Bằng di chúc của mình, chồng của nguyên đơn mong muốn rằng người vợ góa phụ của mình nên có quyền sử dụng ngôi nhà của ông ta trong suốt quãng đời còn lại. Bị đơn, người thực hiện di chúc, cho phép bà ta được ở lại trong ngôi nhà [a] theo như mong muốn của chồng bà ta, và [b] đổi lại bà ta phải cam kết trả tiền thuê 1USD mỗi năm. Sau đó bị đơn lật lọng cho rằng lời hứa cho phép bà ta ở lại ngôi nhà không là đối ứng, vì khoản tiền quá nhỏ không hợp lý.

Quyết định: Số tiền thuê nhà 1 USD không phải là đối ứng có giá trị [không có giá trị kinh tế kèm theo], nhưng tiền thuê danh nghĩa là đối ứng có hiệu lực thi hành.

2.4.2 Tính hiệu lực thi hành

Đối ứng có tính hiệu lực thi hành nếu nó có giá trị có thể nhận biết. Luật pháp chỉ yêu cầu yếu tố thương lượng, không nhất thiết phải là một thương lượng hợp lý.

CASE 6: Chappell & Co v Nestle Co 1960

Sự kiện: Theo kế hoạch xúc tiến việc bán hàng, bị đơn đề nghị cung cấp một đĩa hát cho bất kỳ ai gửi cho họ một khoản tiền nhỏ, và ba giấy gói từ thanh sô cô la của họ. Các nguyên đơn sở hữu bản quyền âm nhạc đã khởi kiện việc vi phạm bản quyền. Trong những tranh cãi tiếp theo về tiền bản quyền, vấn đề chính là liệu các giấy gói kẹo bỏ đi có được xem là một phần của đối ứng cho một lời hứa cung cấp đĩa hát hay không. Bị đơn đề nghị thanh toán tiền bản quyền dựa trên một khoản tiền nhỏ nhận được cho mỗi đĩa hát, nhưng nguyên đơn từ chối, cho rằng các giấy gói cũng là một phần của đối ứng.

Quyết định: Giấy gói là một phần của đối ứng vì nó có giá trị thương mại đối với bị đơn.

2.4.3 Một số loại consideration có thể đưa ra làm trao đổi:

a] Tiền, tài sản và dịch vụ

Tiền là consideration được một bên đề nghị đổi lấy lời hứa hoặc việc thực hiện hợp đồng của bên còn lại. Các bên tự do thương thảo về số tiền làm consderation, trừ trường hợp số tiền này có khung luật định [ví dụ: xăng, dầu, khí ga].

Trước khi tiền trở thành phương tiện trao đổi trung gian, consideration bao gồm tài sản và dịch vụ. Thời hiện đại, đặc biệt trong thời kỳ kinh tế suy thoái và lạm phát, đôi khi các bên nhận thấy có lợi hơn khi thoả thuận trao đổi hàng hoá/dịch vụ, thay vì thanh toán bằng tiền mặt. Toà án Hoa Kỳ công nhận các thoả thuận trao đổi đó có consideration hợp lệ. Ví dụ, việc chuyển giao dịch vụ để đổi lại sử dụng xe của người khác, hoặc hứa trao đổi đồng hồ lấy máy đánh chữ, thể hiện lợi ích và sự có qua có lại thiết lập nên consideration hợp lệ. Từ đó có thể ràng buộc thành hợp đồng.

b] Cam kết làm từ thiện

Vì các tổ chức từ thiện và các tổ chức phi lợi nhuận hoạt động dựa vào sự đóng góp thiện nguyện, nên toà án Hoa Kỳ nhìn nhận các cam kết từ thiện là nghĩa vụ hợp đồng.Khi cam kết tài trợ cho một dự án thiện nguyện cụ thể, người làm từ thiện đã thiết lập một consideration đối với tổ chức thiện nguyện và dự án cụ thể đó. Xét về mặt pháp lí, cam kết từ thiện là một thoả thuận đơn phương có hiệu lực thực thi khi dự án khởi động.

c] Hứa không kiện

Lời hứa không kiện xảy ra khi một bên có tố quyền [quyền khởi kiện]. Các bên thoả thuận điều kiện và điều khoản để bên có tố quyền không thực hiện việc khởi kiện. Đổi lại, bên bị đơn sẽ trả cho bên có tố quyền một khoản tiền. Phương thức này mang tính tập quán trong việc giải quyết các vụ kiện bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng [tai nạn giao thông như ví dụ dưới đây]. Loại hình consideration này thường được thực hiện đối với các vụ kiện tốn kém chi phí và mất thời gian. Dưới đây là một tình huống minh họa cho consideration hứa không kiện: Shaw bị thương khi một chiếc taxi thuộc sở hữu và điều hành bởi Công ty Taxi Andrews & Limo mất kiểm soát và đâm vào Shaw khi cô băng qua Đại lộ số 5 ở Trung Manhattan. Andrews đề nghị trả 250000 $ cho Shaw nếu cô đồng ý không khởi kiện công ty. Shaw đã đồng ý với các điều khoản. Ở đây, đối ứng có giá trị mà Shaw chuyển giao cho Andrews là quyền khởi kiện [tố quyền]. Toà án Hoa Kỳ sẽ tôn trọng thoả thuận này dựa trên lời hứa giữa các bên.

Nếu xem xét ví dụ minh họa nêu trên trong hệ quy chiếu của pháp luật Việt Nam thì sẽ thấy thoả thuận không khởi kiện kể trên là vô hiệu. Bởi lẽ,thứ nhất, tố quyền [quyền khởi kiện] tại Việt Nam không thể giá trị được bằng tiền;thứ hai, thoả thuận của các bên thuộc vào các điều cấm của pháp luật dân sự Việt Nam;thứ ba,trường hợp kể trên được xem xét là bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Trên thực tế, các va chạm giao thông ở Việt Nam dẫn đến thoả thuận tương tự không hiếm. Tuy nhiên, xét về mặt pháp lí, thoả thuận này chỉ có hiệu lực ràng buộc đối với các bên trong va chạm giao thông và không được toà án nào công nhận.

Tóm lại, trên cơ sở xem xét các khái niệm và ví dụ minh họa nêu trên, consideration có bản chất pháp lí là những gì [things] được trao đi đổi lại giữa các bên trong giao kết hợp đồng, cam kết và hứa hẹn trao đổi những cái khác [things] trong quá trình thực hiện hợp đồng trên thực tế. Thông thường, nếu không có consideration thì hợp đồng không có giá trị ràng buộc các bên trong giao kết hợp đồng.

2.5. Các trường hợp không được coi là có đối ứng

2.5.1 Thực hiện nghĩa vụ của HĐ đang tồn tại [Performance of existing contractual duty]

Thực hiện nghĩa vụ hợp đồng đang tồn tại hoặc một nghĩa vụ được quy định trong luật thì không tồn tại sự đối ứng.

CASE 7: Án lệ Collins và Godefroy 1831

Sự kiện: Nguyên đơn được tòa triệu tập để cung cấp bằng chứng cho bị đơn trong một vụ án khác. Anh t6a khai bị đơn đã hứa trả tiền cho mình để xuất hiện tại tòa.

Phán quyết: Không có sự đối ứng cho thỏa thuận này.

Nhưng nếu có thêm điều khoản bổ sung thì thỏa thuận này có thể đối ứng đầy đủ.

CASE 8: Án lệ Glasbrook Bros v Glamorgan CC 1925

Sự kiện: Khi nền công nghiệp biến động, những chủ sở hữu mỏ than phủ nhận quan điểm của cảnh sát khi cho rằng lực lượng cơ động chưa đủ, nên đã đồng ý trả tiền cho hình thức bảo vệ hầm mỏ đặc biệt sát sao hơn. Sau đó họ chối bỏ trách nhiệm pháp lý khi cho rằng cảnh sát không làm gì ngoài việc thi hành công vụ, thực hiện điều đã được giao và không tồn tại sự đối ứng.

Phán quyết: Cảnh sát đã làm nhiều việc hơn là chỉ thi hành công vụ. Những điều khoản được thêm vào, vượt ra ngoài những quyết định cần thiết của cảnh sát thì được xem là đối ứng của thỏa thuận này.

Trong vụ của Glasbook, cả hai bên đều không vi phạm luật và điều khoản trong hợp đồng. Khi hành động của một bên dẫn đến việc yêu cầu cảnh sát phải có mặt thường xuyên và cảnh sát cho rằng việc có mặt là cần thiết thì họ có thể nhận tiền công.

CASE 9: Án lệ Harris v Sheffield United F.C. Ltd 1988

Sự kiện: Các bị cáo [một đội bóng bầu dục] cho rằng họ không cần phải trả tiền để cảnh sát tập trung đông đảo tại sân thi đấu.

Phán quyết: Các bị cáo đã quyết định tổ chức thi đấu vào các chiều thứ Bảy, những lúc đấy khán giả tập trung đông, nguy cơ mất trật tự cao hơn. Vì vậy họ phải trả tiền cho cảnh sát.

2.5.2 Lời hứa thưởng thêm [additional reward]

Nếu tồn tại một hợp đồng giữa A và B, và B thỏa thuận trả thêm thù lao cho A nếu A thực hiện các điều khoản trong hợp đồng thì không có sự đối ứng từ A để thỏa thuận có hiệu lực.

CASE 10: Án lệ Stilk v Myrick 1809

Sự kiện: Hai thành viên của một nhóm thủy thủ bỏ trốn ở cảng ngoại quốc. Chủ tàu không tuyển được người thay thế và đã thỏa thuận với những thủy thủ còn lại rằng họ sẽ nhận tiền lương của những người bỏ trốn nếu hoàn thành chuyến đi trong tình trạng thiếu thành viên. Tuy nhiên, chủ tàu sau đó đã khoái thác thỏa thuận.

Phán quyết: Khi thực hiện điều khoản trong hợp đồng hiện có, nhóm thủy thủ không có đối ứng cho thỏa thuận trả thêm [không bỏ ra gì thêm] và do đó thỏa thuận không có ràng buộc.

Nếu một nguyên đơn thực hiện nhiều hơn điều khoản đã giao trong hợp đồng hiện có thì trường hợp này có thể có đối ứng.

CASE 11: Án lệ Hartley v Ponsonby 1857

Sự kiện: 17 trong 36 người đã bỏ trốn. Những người ở lại được thỏa thuận sẽ nhận thêm 40 bảng Anh/người để đưa thuyền đến Bombay. Nguyên đơn, một trong những thành viên ở lại, đã khoái thác thỏa thuận.

Phán quyết: Nhiều người bỏ trốn khiến chuyến đi đặc biệt nguy hiểm và điều này ảnh hưởng đến việc bãi bỏ hợp đồng cũ. Thỏa thuận của nguyên đơn về việc hoàn thành chuyến đi đã hình thành sự đối ứng cho thỏa thuận trả thêm 40 bảng Anh.

Tòa án ngày nay thực thi theo một hướng khác trong vấn đề trả tiền của đối ứng thêm vào. Nguyên tắc của đối ứng có thể không được áp dụng nếu tranh chấp có thể giải quyết trên cơ sở thay thế.

CASE 12: Án lệ Williams v Roffey Bros & Nicholls [Nhà thầu] Ltd 1990

Sự kiện: Các nguyên đơn đồng ý làm việc chạm khắc gỗ cho các bị đơn, những nhà thầu sẽ tu sửa lại một lô chung cư, với giá cố định là 20.000 bảng Anh. Tiến độ công việc chậm trễ, các bị cáo lo rằng công việc không được hoàn thành đúng thời hạn và họ sẽ phải bồi thường. Họ đồng ý trả cho các nguyên đơn thêm 10.300 bảng Anh để đảm bảo công việc được hoàn thành đúng thời hạn. Sau đó họ từ chối trả thêm thù lao.

Phán quyết: Việc không có thù lao rõ ràng cho thỏa thuận trả thêm tiền này là không quan trọng, theo quan điểm của tòa, cả hai bên đều nhận được lợi ích từ thỏa thuận này. Mấu chốt là thỏa thuận của các bị cáo không bị ép buộc loại bỏ hay có dấu hiệu trục lợi: vì vậy thỏa thuận có hiệu lực.

CASE 13: Án lệ Re Selectmove 1994

Sự kiện: Một công ty bị siết nợ đươc đề nghị trả khoản nợ lớn của mình bằng cách trả góp. Nhà thẩm định của Inland Revenue đồng ý với lời đề nghị. Công ty cố gắng thực hiện đề nghị.

Phán quyết: Tòa cho rằng việc đồng ý trả góp là không thể thực hiện. Cho dù chủ nợ có thể nhận vài lợi ích trước mắt, lời đề nghị này không phải hành động đáp ứng đầy đủ để khiến thỏa thuận có hiệu lực một cách hợp pháp.

Như vậy có thể thấy, đối ứng sẽ không xuất hiện trong trường hợp lời hứa hay thỏa thuận được lập có đối tượng là công việc, mà công việc này là nghĩa vụ bắt buộc thực hiện được quy định trong luật hoặc được thỏa thuận trong hợp đồng. Điều này đảm bảo sự đối ứng giữ nguyên bản chất là sự trả giá cho một người khi người này hứa thực hiện một hành vi nhất định[6], chứ không phải là hứa hẹn cho một nghĩa vụ bắt buộc.

2.6 Các trường hợp được coi là có đối ứng

2.6.1 Thực hiện nghĩa vụ HĐ đối với bên thứ ba

Nếu A thỏa thuận với B về một khoản thù lao cho việc B thực hiện hợp đồng hiện có với C, tồn tại một đối ứng cho thỏa thuận của A vì A nhận được một lợi ích trước đấy không có và bên B đảm nhận nghĩa vụ mới.

Như vậy, đối ứng xuất hiện trong một lời hứa khi bên hứa nhận được một lợi ích trước đấy không có và bên còn lại sẽ xuất hiện một nghĩa vụ mới. Điều này phần nào thể hiện ý chí của các bên khi tham gia vào giao dịch hợp đồng, A mong muốn đạt được lợi ích và B chấp nhận nghĩa vụ phát sinh để nhận được hứa hẹn của A [khoản thù lao].

2.6.2 Từ bỏ quyền đang tồn tại [waiver of existing rights]

Nếu X nợ Y 100 bảng Anh nhưng bên Y đồng ý nhận một số tiền ít hơn, khoảng 80 bảng Anh, cho toàn bộ yêu cầu của Y thì đấy là thỏa thuận thực hiện bởi Y để từ bỏ quyền lợi nhận tiền dư 20 bảng Anh. Thỏa thuận, giống như những thỏa thuận khác, nên được hỗ trợ bởi đối ứng.

CASE 14: Án lệ Foakes v Beer 1884

Sự kiện: Bị đơn đã có được phán xét chống lại nguyên đơn. Nợ phán quyết sinh lãi từ ngày phán quyết. Thông qua một thỏa thuận được soạn thảo, bị đơn đồng ý trả góp, không đề cập đến việc đóng lãi. Sau khi nguyên đơn trả hết nợ, bị đơn đòi tiền lãi, nói rằng thỏa thuận không được hỗ trợ bởi đối ứng.

Phán quyết: Bị đơn được hưởng lãi từ khoản nợ. Không có đối ứng nào được trả bởi nguyên đơn vì từ bỏ bất cứ quyền nào của mình chống lại bị đơn. [Cụ thể bị đơn chỉ từ bỏ quyền nhận tiền một lần, thay vào đó đồng ý trả góp, chứ không từ bỏ quyền hưởng tiền lãi từ khoản nợ, vì thế bị đơn có quyền được hưởng lãi từ khoản nợ]

Tuy nhiên có ngoại lệ là con nợ [X ở trên] phải trả tiền nếu sự từ bỏ có hiệu lực.

2.6.3 Các trường hợp ngoại lệ

Đối ứng thay đổiNếu X đề nghị và Y chấp nhận bất cứ điều gì mà Y chưa được hưởng thì cần có đối ứng đầy đủ cho người từ bỏ [Tức trong trường hợp này, Y chưa có căn cứ để hưởng một thứ gì đó mà X đã đề nghị Y từ bỏ quyền hưởng thứ đó thì đối ứng là chưa đầy đủ].
Mặc cả giữa các chủ nợ [Án lệ Wood và Robarts 1818]Nếu X dàn xếp với các chủ nợ là họ sẽ chấp nhận thanh toán một phần với quyền lợi đầy đủ thì đấy là thỏa thuận giữa các chủ nợ.

X không đưa một đối ứng nhưng có thể giữ chủ nợ tách biệt với những điều khoản đã nhất trí với nhau.

Thanh toán một phần với bên thứ ba [Án lệ Welby và Drake 1825]Nếu một bên thứ ba [Z] đề nghị thanh toán một phần và Y đồng ý để giải phóng X từ yêu cầu nhận tiền dư của Y, Y được nhận một đối ứng từ Z chống lại người mà anh ấy không yêu cầu trước đó.

References:

[1] Stewart, William.J.,Collins Dictionary of Law, Collins, London, The United of Kingdom, 2006, p. 100

[2] Phạm Duy Nghĩa, Pháp luật chung về hợp đồng của Hoa KỳtrongBước đầu tìm hiểu pháp luật thương mại Hoa Kỳ,Đào Trí Úc [chủ biên], Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002, tr. 189 và 190

[3] Gifis, Steven.H.,Dictionary of Legal Terms, Barrons, New York, USA, 2008, p. 107.

[4] Brown, Gordon.W., Sukys Paul. A., Ibid, p. 139

[5] Vụ án Bà Carlill và quả bóng khói hơi Carbolic [chi tiết tại Phụ lục đính kèm]

[6] Phạm Duy Nghĩa, Pháp luật chung về hợp đồng của Hoa Kỳ trong Bước đầu tìm hiểu pháp luật thương mại Hoa Kỳ, Đào Trí Úc [chủ biên], Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002, tr. 189 và 190.

Nhóm tác giả:
Nguyễn Mạnh Trung
Nguyễn Thị Mỹ Linh
Bùi Duy Hưng

Biên tập: Quách Thị Ngọc Thiện

[Kỳ 2: Trường hợp miễn trách thực hiện hợp đồng. Chế định Frustration trong Luật hợp đồng Anh]

Chia sẻ:

  • Twitter
  • Facebook

Thích bài này:

Thích Đang tải...

Video liên quan

Chủ Đề