Phận tích Những mong cá nước sum vầy Bao ngờ đôi ngả nước mây cách vời

AMBIENT

Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:

YOMEDIA

Đang xử lý...

Phân tích tâm trạng của người chinh phụ trong bài thơ “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn1.Mở đầu khúc ngâm, người chinh phụ nhớ lại cảnh chia tay:-Mâu thuẫn cơ bản đạt ra trong suốt tác phẩm là mâu thuẫn giữa phép công và niềm tây [niềm tư], mở đầu tác phẩm mối mâu thuẫn này cũng đã xuất hiện. Ðôi vợ chồng trẻ này đang sống trong hạnh phúc, yên ổn thì chiến tranh xảy ra. Vì tình thế khẩn trương, vì ý thức về nghĩa vụ, vì danh dự của trang nam nhi hào kiệt và đây cũng là dịp lập công danh, đem vinh hiển về cho gia đình, người chinh phu đã “xếp bút nghiên theo việc đao cung”. Người chinh phụ sẽ nói gì cho thực tế tàn nhẫn này. Bên cạnh nỗi buồn, nỗi lưu luyến, sầu muộn chinh phụ cũng đã khẳng khái nói:“Phép công là trọng, niềm tây sá nào”Nàng đã ca ngợi chí khí, hành động của chinh phu:“Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt, Xếp bút nghiên theo việc đao cung Thành liền mong tiến bệ rồng Thước gươm thề quyết chẳng dung giặc trời. Chí làm trai dặm nghìn da ngựa Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao. Giã nhà đeo bức chiến bào Thét roi cầu Vị ào ào gió thu”.Nàng thấy hình ảnh của người chồng rực rỡ, uy nghi như một trang dũng tướng giữa đoàn quân:“Áo chàng đỏ tựa ráng pha Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in”. Ðó là về lí trí còn về mặt tình cảm thì: “Ðưa chàng lòng dặc dặc buồn Bộ khôn bằng ngựa, thủy khôn bằng thuyền”. “Bóng cờ, tiếng trống xa xa Sầu lên ngọn ải, oán ra cửa phòng”2.Sau hồi tiễn biệt người chinh phụ trở về chốn phòng khuê:-Bằng đôi cánh của trí tưởng tượng nàng đã phóng tầm mắt ra chiến trường để theo dõi cuộc sống, vận mệnh của chinh phu nơi chiến địa.+Cảnh chiến trường hiện lên trước mắt nàng thật đen tối. Ở đây không hề có tiếng ngựa hí, tiếng quân reo, hay tiếng va chạm của vũ khí mà chỉ có một luồng tử khí lạnh lẽo bao trùm.Hồn tử sĩ gió ù ù thổi Mặt chinh phu trăng dõi dõi theo+Trong cảnh chiến trường đen tối ấy, chinh phụ cũng đã hình dung ra cuộc sống và vận mệnh của chinh phu. Cuộc sống của chàng thật gian lao, vất vả:Ôm yên gối trống đã chồn Nằm vùng cát trắng, ngủ cồn rêu xanhRồi hành quân di chuyển tưởng như không bao giờ chấm dứt:Nay Hán xuống, Bạch Thành đóng lại+Giữa hoàn cảnh hiểm nghèo, gian lao ấy chinh phu không còn giữ được khí thế hào hùng của buổi đầu xuất quân. Chàng trở nên mệt mỏi, bạc nhược trước cuộc sống chiến tranh:Hơi gió lạnh người rầu mặt dạn Dòng nước sâu ngựa nản chân bon Não người áo giáp bấy lâu Lòng quê qua đó mặt sầu chẳng khuây+Nàng như đã nhìn thấy kết cục bi thảm của chồng mình ở chốn đạn lạc, tên rơi:Chinh phu tử sĩ mấy người Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn? hoặc Phận trai già ruổi chiến trường Chàng Siêu mái tóc điểm sương mới về+Những trang thơ này của tác phẩm đã đưa đến cho người đọc một nhận thức: Chiến tranh phong kiến không có chỗ nào dung hợp với con người, chiến tranh phong kiến là đối lập với cuộc sống con người. Trong quan niệm của nhà thơ những con người tham gia vào cuộc chiến tranh là những con người đi vào cõi chết. Quan niệm này thực chất là một cách phản đối chiến tranh.-Sau khi trải qua những giây phút lo âu cho cuộc sống và vận mệnh của chồng nơi chiến địa chinh phụ trở lại với thực tại của mình. Giờ đây cuộc sống đơn chiếc, lẻ loi gợi lên trong tâm trí nàng bao nhiêu câu hỏi về nguyên nhân của sự xa cách:Trong cửa này đã đành phận thiếp Ngoài mây kia há kiếp chàng vay, Những mong cá nước sum vầy. Bao ngờ đôi ngả nước mây cách vời Thiếp chẳng tưởng ra người chinh phụ, Chàng há từng học lũ vương tôn Cớ sao cách trở nước non Khiến người thôi sớm thôi hôm những sầu Khách phong lưu đương chừng niên thiếu Sánh cùng nhau dan díu chữ duyên Nỡ nào đôi lứa thiếu niên Quan sơn để cách, hàn huyên bao đànhỞ đây cái nhận thức đầu tiên rõ rệt nhất của chinh phụ là cuộc sống hạnh phúc của vợ chồng nàng bị phá vỡ, hai người phải chia lìa đôi ngả là hết sức vô lí, là không thể chấp nhận được.3.Tiếp theo, người chinh phụ sống trong hoàn cảnh vắng biệt tin chồng:-Chinh phụ nhiều lần nhớ lại những lời hẹn của chồng nhưng Người sao mười hẹn chín thường đơn sai, rồi tiếp theo có lúc nàng được tin chồng, dần dần rồi vắng biệt. Vì vậy nàng đã phải sống trong một tâm trạng chờ đợi, hi vọng rồi thất vọng đến chua xót. Ðau khổ vì biệt li, vì chờ đợi, vì thất vọng đã làm cho nàng như khô héo thêm. Chiến tranh đã laòm tàn phai nhan sắc, làm héo hon tấm lòng người vợ trẻ trông chồng.Sự đối lập giữa con người và chiến tranh càng trở nên mạnh mẽ.Trâm cài, xiêm giắt thẹn thùng Lệch vòng tóc rối, lỏng vòng lưng eo.Nỗi sầu muộn như ngày càng chồng chất thêm trong lòng chinh phụ, nó như một sức mạnh vật chất đè nặng lên cuộc sống của nàng:Sầu ôm nặng hãy chồng làm gối Muộn chứa đầy hãy thổi làm cơmChinh phụ đã tìm mọi cách để giải sầu như xem hoa, đánh đàn thậm chí dùng cả biện pháp mạnh nhất là uống rượu, nhưng Sầu làm rượu nhạt, muộn làm hoa ôi.Nỗi sầu muộn vẫn lấn át tất cả, nỗi sầu muộn đã làm cho nàng mất hết mọi cảm giác trước cuộc sống.-Mặt khác sự xa cách như một luồng gió mạnh thổi cháy bùng thêm khát vọng hạnh phúc ở chinh phụ. Vì thế nàng đã nghĩ đến việc được gần chồng và cuối cùng nàng đã tìm đến giấc mộng, trong mộng nàng đã được gặp lại người chồng thân yêu:Duy còn hồn mộng được gần Ðêm đêm thường đếïn Giang Tân tìm người Tìm chàng thưở Dương đài lối cũ Gặp chàng nơi Tương Phố bến xưa.Nhưng mộng quá ngắn ngủi, vả lại mộng vẫn là mộng, thực vẫn là thực không sao thay thế cho nhau được. Trái lại cái đẹp đẽ của hồn mộng càng làm cho cuộc sống của nàng thêm chua xót hơn mà thôi:Sum vầy mấy lúc tình cờ Chẳng qua trên gối một giờ mộng xuân Giận thiếp thân lại không bằng mộng Ðược gần chàng bến Lũng thành quan Khi mơ những tiếc khi tàn Tình trong giấc mộng muôn vàn cũng khôngNgười chinh phụ nhận ra rằng cái hạnh phúc đáng quí nhất đối với nàng vẫn là hạnh phúc trần tục.-Rồi chinh phụ lại tìm cách lên cao để ngóng trông chồng, nhưng lên cao nhìn khắp bốn bề Ðông, Tây, Nam, Bắc phía nào nàng cũng bắt gặp những cảnh buồn hiu hắt, tiêu điều. Chưa hết người chinh phụ lại ao ước có được phép tiên để đi gặp chồng nhưng rồi nàng phải thú nhận với lòng mình là điều đó không bao giờ có được. Người chinh phụ đã khai thác hết mọi khả năng, mong làm cho mình bớt sầu, bớt khổ, mong được gặp lại chồng nhưng đằng nào cũng thấy dựng lên những bức tường cao ngất. Bế tắc đến tuyệt vọng, chinh phụ đã phải thốt lên thật cay đắng:Lòng này hóa đá cũng nên E không lệ ngọc mà lên trông lầuChinh phụ tưởng chừng như không còn đủ sức chịu nổi nỗi đau đớn phải lên lầu một lần nữa. Cơn khủng hoảng tinh thần đã lên tới đỉnh điểm, con người thật trong chinh phụ đã bắt đầu cất tiếng nói, nàng hối hận vì giấc mộng công hầu mà để chồng ra đi chinh chiến để rồi hạnh phúc tuổi xuân bị dang dở:Lúc ngoảnh lại ngắm màu dương liễu, Thà khuyên chàng đừng chịu sắc phongTrong con người chinh phụ giờ đây niềm tây đã chiến thắng phép công. Nàng đã dám phủ nhận lí tưởng công danh, nàng đã hiểu hạnh phúc lứa đôi có ý nghĩa hơn chiếc ấn phong hầu. Ðây cũng là một nét tâm lí phổ biến của con người thời đại lúc bấy giờ, chàng trai trong Chinh phu ngâm khúc cũng đã thú nhận:Lòng ta không muốn mặc áo giáp Bụng nàng há muốn giữ chinh y-Ý nghĩ Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong đặt vào hoàn cảnh lúc bấy giờ nó có ý nghĩa lúc bấy giờ vì nó coi trọng hạnh phúc, coi trọng sinh mệnh của con người. Nó có ý nghĩa phản chiến vì nó đối lập với âm mưu của giai cấp thống trị muốn dùng cái bả công danh để thúc đẩy binh sĩ, tướng tá ra trận để bảo vệ ngai vàng cho chúng, làm bia đỡ đạn cho chúng. Nhưng do điểm xuất phát của chinh phụ chỉ là hạnh phúc cá nhân, cho nên phản ứng của nàng chỉ có thể dừng lại ở mức độ đó.4.Người chinh phụ tìm cách giải quyết mối mâu thuẫn giữa niềm tây và phép công bằng sự cầu nguyện:-Nàng cầu mong cho ông trời phù hộ cho chồng mình trăm trận nên công và trở về trong ánh hào quang của chiến thắng với mọi vinh dự mà chế độ phong kiến có thể đưa lại cho những kẻ đã tận tâm phục vụ nó.Dưới đây là 1 bài viết mẫu tham khảo viết ra từ câu hỏi:Phân tích tâm trạng của người chinh phụ trong bài thơ “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn – bài mẫu 1Các từ khóa trọng tâm " cần nhớ " của bài viết trên hoặc " cách đặt đề bài " khác của bài viết trên:• bài gianbgr điện tử chinh phụ ngâm • phan tich bai tinh canh le loi cua nguoi chinh phu ,

THI247.com giới thiệu đến bạn đọc PDF đề thi + bảng đáp án đề cuối kỳ 2 Ngữ Văn 10 năm 2020 – 2021 trường THPT Đoàn Thượng – Hải Dương.

+ Nêu hiệu quả phép đối được sử dụng trong câu: “Thiếp trong cánh cửa chàng ngoài chân mây”. + Anh/Chị hiểu như thế nào về nội dung hai câu thơ sau? Những mong cá nước sum vầy, Bao ngờ đôi ngả nước mây cách vời.

+ Anh/Chị hãy nhận xét về tình cảm, thái độ của tác giả được thể hiện trong đoạn trích.

[ads1]

[ads2]

Đọc đoạn trích:                                                               Nỗi lòng biết ngỏ cùng ai,                                                Thiếp trong cánh cửa chàng ngoài chân mây                                                         Trong cửa này đã đành phận thiếp,                                                          Ngoài mây kia há kiếp chàng vay                                                            Những mong cá nước sum vầy                                                       Bao ngờ đôi ngả nước mây cách vời.

                                                                     [Trích bản dịch Chinh phụ ngâm khúc, Đặng Trần Côn,


                                                                       Chinh phụ ngâm diễn ca, NXB Văn học, 19876, tr. 20]
Câu 1. [0,5 điểm] Xác định phương thức biểu đạt chính của đoạn trích.
Câu 2. [0,5 điểm] Trong đoạn trích, nhân vật trữ tình là ai?
Câu 3. [0,5 điểm] Chỉ ra những chi tiết diễn tả hoàn cảnh biệt li cách trở trong đoạn trích.
Câu 4. [0,75 điểm] Nêu hiệu quả phép đối được sử dụng trong câu:
                                                  ''Thiếp trong cánh cửa chàng ngoài chân mây''
Câu 5. [0,75 điểm] Anh/Chị hiểu như thế nào về nội dung hai câu thơ sau?
                                                           ''Những mong cá nước sum vầy
                                                       Bao ngờ đôi ngả nước mây cách vời.'' 
Câu 6. [1,0 điểm] Nhận xét về tâm trạng của nhân vật trữ tình trong đoạn trích.

Câu 1: 

PTBD: biểu cảm

Câu 2:

NV trữ tình là chàng trai và cô gái

Câu 3:

Nỗi lòng biết ngỏ cùng ai,

Thiệp trong cánh cửa chàng ngoài chân mây

Trong cửa này đã đành phận thiếp,

Ngoài mấy kia há kiếp chàng vay

Những mong cá nước sum vầy,

Bao ngờ đôi ngả nước mây cách vời 

Câu 4:

Phép đối diễn tả sự xa cách của đôi uyên ương, một người ở xa còn một người mòn mỏi chờ đợi, phép đối diễn tả sự trông ngóng và nhung nhớ của người con gái với người mình yêu

Câu 5:

Những mong cá nước sum vầy,

Bao ngờ đôi ngả nước mây cách vời 

Câu thơ cho thấy sự chia cách bất ngờ khi hạnh phúc đang cận kề, họ bất ngờ phải ''đôi ngả'' khi sắp được gần nhau

Câu 6:

Tâm trạng của nhân vật trữ tình trong đoạn trích là tâm trạng, nỗi lòng của một người chinh phụ hướng đến người chồng nơi trận ải xa xôi bằng tất cả tình cảm, tình thương nỗi nhớ và sự thủy chung. Người vợ mòn mỏi chờ đợi chồng xông pha nơi hòn tên mũi đạn, yêu thương chồng và ở trong tình cảnh chờ đợi, cô đơn, lẻ loi và vô vọng đến đáng thương.

...Xem thêm

Câu hỏi hot cùng chủ đề

  • Đọc văn bản sau: "Ta đã trải sông núi miền Bát Quế, Buông thuyền xem mây trúc chỗn Tam Tươmg. Trông khắp đẩt Sở ở Hoành Dương Ghé nhìn bãi sông nơi Nhạc Lộc, Thủ vui sơn thủy sớm sớm xem Nom, Mà cảnh Vân Mộng chứa trong lòng vẫn thiếu! Chín tuần hạ quang tạnh Mây nước liền đường. Nào thả, nào bơi, Thẳng tới Động Đình. Cưỡi sóng nước mênh mang. Vượt khói mây mờ mịt. Chỉ đảo Quy Sơn để buông chèo, Trông hòn Ba Nhạc mà tiến tới. Bờ bến mênh mông xa vời Trên dưới hòa trộn một mẫu xanh trong suốt. Buông chiếc lá giữa dòng Lòng khách man mác như cánh bèo trôi nổi. Trời mây nghìn dặm, Tựa khoang gõ dầm. Ngoảnh nhìn bốn phia nước non, Chạnh buồn lòng hoài cổ!" [Nguồn: Kim Anh, Bài phú "Buông thuyền trên hồ" của Phan Huy Chú, Tạp chi Hán Nôm, số tháng 1/1992] Thực hiện các yêu cầu sau: Câu 1. Xác định các phương thức biểu đạt được sử dụng trong đoạn trích. Câu 2. Tìm các câu văn thế hiện trực tiếp tâm trạng của nhân vật khách trong đoạn trích. Câu 3. Chỉ ra các địa danh được nhắc đến trong đoạn trích. Câu 4. Việc liệt kê các địa danh trong đoạn trích có tác dụng gì? Câu 5. Đoạn trích trên giúp em hiểu được gì về vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật khách? Câu 6: Nhận xét ngắn gọn về hai yếu tố nghệ thuật đặc sắc được thể hiện trong đoạn trích.

  • Người đàn bà nào dắt đứa nhỏ đi trên đường kia?

    Khuôn mặt trẻ đẹp chìm vào những miền xa nào...

    Đứa bé đang lẫm chẫm muốn chạy lên, hai chân nó cứ ném về phía trước, bàn tay hoa hoa một điệu múa kì lạ.

    Và cái miệng líu lo không thành lời, hát một bài hát chưa từng có.

    Ai biết đâu, đứa bé bước còn chưa vững lại chính là nơi dựa cho người đàn bà kia sống.

    Người chiến sĩ nào đỡ bà cụ trên đường kia?

    Đôi mắt anh có cái ánh riêng của đôi mắt đã nhiều lần nhìn vào cái chết.

    Bà cụ lưng còng tựa trên cánh tay anh, bước từng bước run rẩy.

    Trên khuôn mặt già nua, không biết bao nhiêu nếp nhăn đan vào nhau, mỗi nếp nhăn chứa đựng bao nỗi cực nhọc gắng gỏi một đời.

    Ai biết đâu, bà cụ bước không còn vững lại chính là nơi dựa cho người chiến sĩ kia đi qua những thử thách.

    [Nơi dựa - Nguyễn Đình Thi, Ngữ Văn 10, tập hai, NXB Giáo Dục, 2006, Tr. 121-122]

    Xác định những cặp hình tượng được nhắc đến trong đoạn trích?

  • Người đàn bà nào dắt đứa nhỏ đi trên đường kia?

    Khuôn mặt trẻ đẹp chìm vào những miền xa nào...

    Đứa bé đang lẫm chẫm muốn chạy lên, hai chân nó cứ ném về phía trước, bàn tay hoa hoa một điệu múa kì lạ.

    Và cái miệng líu lo không thành lời, hát một bài hát chưa từng có.

    Ai biết đâu, đứa bé bước còn chưa vững lại chính là nơi dựa cho người đàn bà kia sống.

    Người chiến sĩ nào đỡ bà cụ trên đường kia?

    Đôi mắt anh có cái ánh riêng của đôi mắt đã nhiều lần nhìn vào cái chết.

    Bà cụ lưng còng tựa trên cánh tay anh, bước từng bước run rẩy.

    Trên khuôn mặt già nua, không biết bao nhiêu nếp nhăn đan vào nhau, mỗi nếp nhăn chứa đựng bao nỗi cực nhọc gắng gỏi một đời.

    Ai biết đâu, bà cụ bước không còn vững lại chính là nơi dựa cho người chiến sĩ kia đi qua những thử thách.

    [Nơi dựa - Nguyễn Đình Thi, Ngữ Văn 10, tập hai, NXB Giáo Dục, 2006, Tr. 121-122]

    Có ý kiến cho rằng nơi dựa có cùng ý nghĩa với sống dựa, đúng hay sai? Vì sao?

Video liên quan

Chủ Đề