Một số biện pháp giúp học sinh lớp 6 làm tốt văn miêu tả

MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT VĂN MIÊU TẢ

Nhằm góp phần đổi mới phương pháp và nâng cao chất lượng dạy học trong nhà trường nói chung, dạy cho học sinh lớp Năm học tốt văn miêu tả nói riêng, tôi có một số cách như sau:

1. Điều tra phân loại học sinh

Giáo viên điều tra, phân loại, nắm chắc từng đối tượng học sinh. Từ đó, giáo viên sẽ đề ra được kế hoạch và có những biện pháp dạy học phù hợp với từng đối tượng học sinh. Đồng thời, tạo điều kiện tốt nhất góp phần giúp học sinh chậm tiến bộ biết làm văn miêu tả, có thể vận dụng làm được một bài văn hoàn chỉnh.

2. Rèn cho học sinh kĩ năng quan sát

Quan sát theo trình tự từ xa đến gần, từ trong ra ngoài, từ bao quát đến chi tiết và ngược lại. Ghi chép những điều đã quan sát được. Tổ chức quan sát từng đối tượng cụ thể. Có thể hướng dẫn quan sát theo nhiều hình thức: quan sát trực tiếp đối tượng [buổi chào cờ đầu tuần, quang cảnh trước buổi học, trong giờ ra chơi, thầy giáo, cô giáo, người thân,]; quan sát ở nhà [ngôi nhà em đang ở, buổi sum họp của gia đình, quang cảnh con đường nơi em ở vào buổi sáng, ]; quan sát qua báo, đài [một ca sĩ đang biểu diễn, một danh hài mà em thích].

3. Hướng dẫn học sinh lập dàn ý

Dàn ý được lập trên cơ sở tìm được những ý đúng với đề tài và trọng tâm bài. Muốn việc tìm ý đạt yêu cầu tốt ta phải căn cứ vào thực tế quan sát hoặc hiểu biết đối tượng, căn cứ vào hiểu biết của mình qua thực tiễn sống

Tìm được nhiều ý là tốt, nhưng cần phải lựa chọn ý tiêu biểu để bài làm hướng đúng trọng tâm, tránh được sự rườm rà. Việc tìm ý, chọn ý gắn với lập dàn ý và cả hai công việc này bổ sung, hỗ trợ cho nhau. Cùng với việc lập dàn ý, ta có thể bổ sung những ý khác mà trước đó chưa tìm ra hoặc loại bỏ một vài ý chưa cần, chưa sát trọng tâm của bài

Lập dàn ý là yêu cầu cần thiết nhất phải có. Một dàn ý rõ ràng, cụ thể, hợp lí sẽ góp phần vào kết quả bài làm văn của học sinh. Dàn ý của một bài tập làm văn thường có ba phần: mở bài, thân bài, kết bài.

Đây là một việc làm khó. Giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh lập dàn ý trước khi làm thành một bài văn hoàn chỉnh. Có lập được dàn bài thì mới có thể tìm ý, sắp xếp ý, viết thành một bài văn mạch lạc, bố cục rõ ràng, ý văn trong sáng.

4. Làm giàu vốn từ cho học sinh

Làm giàu vốn từ cho học sinh có nghĩa là giúp cho các em nắm một số từ gợi tả để có thể dùng trong miêu tả. Ví dụ: Giáo viên yêu cầu học sinh tìm các từ ngữ gợi tả mái tóc [vàng hoe, đen nhánh, bạc phơ, cháy nắng, óng ả, xoăn tít,]; khuôn mặt [bầu bĩnh, vuông chữ điền, trái xoan, khắc khổ,]; nước da [ trắng trẻo, trắng hồng, ngăm ngăm, bánh mật, đen sạm,]; dáng người [ nhỏ nhắn, gầy gò, đẫy đà, to khoẻ, cao cao,]; nụ cười [ khanh khách, sằng sặc, mủm mỉm, ha hả,].

Cho học sinh tìm từ bằng các hình thức như: quan sát thực tế [quan sát người bạn], quan sát tranh ảnh, xem phim, đọc sách, nhất là qua các phân môn của Tiếng Việt hoặc các môn học khác và qua hình thức trò chơi,

5. Giúp học sinh luyện viết câu

Trước hết, mọi học sinh phải viết được câu văn đúng ngữ pháp. Đây là yêu cầu cơ bản [vì câu là đơn vị lời nói]. Đối với học sinh giỏi, giáo viên yêu cầu học sinh đặt câu đúng ngữ pháp, giàu hình ảnh, tạo được sắc thái riêng của đối tượng miêu tả. Đối với học sinh trung bình, yếu, giáo viên hướng dẫn học sinh đặt được câu đúng, thể hiện được ý cần nói. Ví dụ: Miêu tả mái tóc của một bạn:

+ Với học sinh yếu: Tóc bạn Loan đen huyền.

+ Với học sinh trung bình: Bạn Loan có mái tóc đen huyền, dài ngang vai.

+ Với học sinh khá, giỏi: Loan có mái tóc đen huyền, óng ả, xoã ngang vai mà không thể lẫn lộn với bất cứ bạn nào trong lớp được.

Biết dùng dấu câu đúng, nhất là dấu chấm và dấu phẩy. Ngắt câu đúng sẽ diễn đạt rõ ràng, người đọc, người nghe dễ dàng tiếp nhận thông tin. Việc dạy cho các em sử dụng đúng dấu câu đã được tiến hành từ các lớp dưới và phải được thường xuyên ôn luyện. Giáo viên đưa ra các trường hợp sử dụng dấu câu chưa đúng để cả lớp nhận xét. Ví dụ:

+ Trong lớp em ai cũng mến bạn Loan.

+ Cột cờ cao chót vót lá cờ đỏ sao vàng phấp phới tung bay.

+ Sân trường mát rượi bởi bóng của những cây bàng cây phượng.

Học sinh trao đổi, sửa chữa:

+ Trong lớp em, ai cũng mến bạn Loan.

+ Cột cờ cao chót vót, lá cờ đỏ sao vàng phấp phới tung bay.

+ Sân trường mát rượi bởi bóng của những cây bàng, cây phượng.

6. Hướng dẫn học sinh tích luỹ vốn kiến thức văn học

Tích luỹ văn học là điều kiện tối thiểu để học tốt môn Tiếng Việt, nhất là phân môn Tập làm văn. Giáo viên đã cho học sinh sử dụng sổ tay chính tả để ghi chép những tiếng khó, ghi những trường hợp mắc lỗi chính tả đã được sửa chữa. Trong môn Tập làm văn, đây cũng là một biện pháp tích cực để giúp học sinh trau dồi vốn kiến thức văn học. Sổ tay văn học dùng cho các em ghi chép các ý hay, các câu, đoạn văn hay. Việc ghi chép này không nhất thiết để cho học sinh khi làm văn sẽ mở ra sử dụng nhưng trước hết, qua mỗi lần ghi chép, các em sẽ được một lần đọc, ghi nhớ, bắt chước, lâu dần thành thói quen. Khi làm bài, những từ ngữ, hình ảnh, ý văn sẽ tự động tái hiện, giúp học sinh có thể vận dụng trong bài làm.

7. Hướng dẫn học sinh tìm hiểu, cảm nhận cái hay, cái đẹp của một đoạn văn

Hướng dẫn học sinh tìm hiểu để cảm nhận cái hay, cái đẹp qua việc đọc một đoạn văn được thầy cô tiến hành qua nhiều tiết học. Cảm nhận được cái hay, cái đẹp, các em sẽ hình thành được những cảm xúc thẩm mĩ, giúp cho việc học tập làm văn tốt hơn, nhất là văn miêu tả.

Để hướng dẫn tìm hiểu cảm nhận cái hay, cái đẹp của đoạn văn, giáo viên hướng dẫn các em hình thành thói quen suy nghĩ, tự đặt và ghi các câu hỏi xoay quanh nội dung đoạn văn. Kết quả học sinh có thể tự đặt các câu hỏi như:

+ Đoạn văn này miêu tả đặc điểm gì của nhân vật ?

+ Đoạn văn đã dùng những từ láy nào để miêu tả hình ảnh của nhân vật ?

+ Có thể dùng những hình ảnh so sánh nào cho đoạn văn ?...

8. Rèn kĩ năng sắp xếp, diễn đạt ý

Đề bài: Hãy miêu tả một người bạn thân của em.

Học sinh quan sát, viết nhanh ra giấy những điều mà mình quan sát được. Ví dụ:

+ Bạn Thu Nga học chung lớp với em.

+ Bạn chơi thân với em từ năm học lớp Một.

+ Chúng em rất thân nhau.

+ Em sẽ cố gắng làm những điều thật tốt để tình bạn của chúng em mãi mãi bền lâu.

+ Những ngày bạn nghỉ học, em cảm thấy rất nhớ.

+ Bạn có nước da ngăm ngăm của một người con gái đồng quê.

+ Bạn hay phát biểu và hiểu bài rất nhanh nên được thầy và các bạn khen ngợi.

+ Bạn rất hay cười.

+ Mái tóc bạn không đen như tóc em nhưng dài hơn.

+ Bằng tuổi với em nhưng cao hơn em một cái đầu.

+ Nga viết chữ rất đẹp. Bạn đã được chọn dự thi viết chữ đẹp vòng trường và đạt giải ba.

+ Mỗi khi bạn cười, hai lúm đồng tiền trên má hiện rõ trên khuôn mặt ngăm đen dễ thương.

+ Bạn không gây gỗ với ai bao giờ.

+ Thầy cô thường lấy bạn để làm gương.

Sau khi tìm ý, cho các em chọn và sắp sếp ý thành các đoạn mở bài, thân bài, kết bài phù hợp. Ví dụ:

* Đoạn mở bài:

Em và bạn Thu Nga chơi thân với nhau từ năm lớp Ba. Chúng em rất thân nhau. Đi học, em thường đi chung với bạn.

* Đoạn thân bài:

Bằng tuổi với em cao hơn em một cái đầu. Bạn có nước da ngăm ngăm của một người con gái đồng quê quen dầm mưa dãi nắng. Bạn rất hay cười, mỗi khi bạn cười, hai lúm đồng tiền trên má hiện rõ trên khuôn mặt ngăm đen dễ thương. Thu Nga có đôi mắt to rất đẹp với hàng lông mi dài, cong. Đôi mắt bạn luôn ánh lên ra vẻ hồn nhiên, chất phác. Mái tóc bạn không đen như tóc em nhưng dài hơn. Nga viết chữ rất đẹp, bạn đã được chọn dự thi viết chữ đẹp vòng trường và đạt giải ba. Thầy thường lấy bạn ra làm gương cho chúng em noi theo để rèn chữ. Ở lớp, thầy thường khen bạn hiểu bài rất nhanh. Em chưa thấy bạn gây gỗ với ai bao giờ.

* Đoạn kết bài:

Mỗi khi vắng Thu Nga, nhất là những ngày bạn nghỉ học, em cảm thấy rất nhớ. Em sẽ cố gắng làm những điều thật tốt để tình bạn của chúng em mãi mãi bền lâu.

Giáo viên cần lưu ý cho học sinh mục đích của từng đoạn văn. Đoạn mở bài có tác dụng giới thiệu cho người đọc, người nghe biết xuất xứ nhân vật. Đoạn thân bài là bức tranh vẽ bằng lời về hình dáng, đường nét, cử chỉ, hoạt động, tính nết của nhân vật. Có chọn được những chi tiết đặc sắc, tiêu biểu thì ta mới nhận ra nhân vật đó mang những cá tính riêng. Bạn học sinh trong bài là một học sinh vùng nông thôn với những đặc điểm riêng, cá tính riêng không lẫn lộn với bất cứ bạn học sinh nào khác. Đoạn kết bài mang đậm dấu ấn cá nhân của người viết. Không thể có đoạn kết bài chung cho mọi học sinh. Giáo viên cần hướng dẫn học sinh nêu được cảm xúc tự nhiên, chân thật.

Đó là những kinh nghiệm tôi đã đúc kết lại trong năm qua. Rất mong mọi người góp ý để tôi có them kinh nghiệm sau này.

Video liên quan

Chủ Đề