Hệ thống chủ đề của các bộ sách giáo khoa Tiếng Việt chương trình 2022 là

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐIỆN BIÊN
--------------------------------------------------------------------------------------
Chịu trách nhiệm nội dung: Ông Nguyễn Văn Đoạt- Phó Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo
Địa chỉ: 
Số 867, đường Võ Nguyên Giáp, phường Mường Thanh, thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên
Điện thoại: 02153 824 980 - 02153 831 439
Email: 

Đào Quốc Vịnh - Hội viên Hội nhà văn Việt Nam, Hiệu trưởng Trường tiểu học Tô Hiến Thành, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội

Một vấn đề tưởng như rất nhỏ như dạy một chữ “p” mà được dư luận xã hội quan tâm, Bộ trưởng kịp thời chỉ đạo xem xét thì đó là điều đáng mừng. Đặc biệt, vấn đề này còn được các nhà khoa học về ngôn ngữ và giáo dục đặc biệt quan tâm. Một xã hội mà các trí thức còn bàn luận, tham gia ý kiến là một xã hội phát triển. Sợ nhất là các trí thức quay lưng lại với các vấn đề của xã hội.

Trong quá trình tranh biện, có một vài nhà khoa học cho rằng, đây là vấn đề học thuật và những lý thuyết chuyên sâu nên một ông Hiệu trưởng tiểu học hay những cô giáo tiểu học không thể hiểu được. Tôi cho rằng quan điểm này không đúng đắn, bởi lẽ sách giáo khoa phổ thông ngoài tư cách là một công trình khoa học, nó còn phải là một sản phẩm có tính ứng dụng rất cao.Nếu sách giáo khoa cao siêu đến mức ngay cả những người trực tiếp giảng dạy và quản lý nhà trường không thể hiểu được thì làm sao có thể đạt được hiệu quả giáo dục?

Ai cũng biết rằng Chân lý là những điều giản đơn. Liệu Chân lí có bí hiểm đến mức rõ ràng sách không dạy âm “p”, chữ “p” ở bài đáng ra phải dạy mà vẫn tìm mọi cách ngụy biện là có dạy không?

Một số nhà chuyên môn còn dựa vào sách dạy “học vần” cách đây từ 20 năm [2002] đến trên 60 năm [1958] không dạy chữ “p” với tư cách là kí tự ghi một phụ âm độc lập mà chỉ dạy chữ “p” ghép với chữ “h” thành “ph” ghi âm “phờ” để biện minh rằng sách giáo khoa “Tiếng Việt 1, tập một”thuộc bộ sách “Kết nối tri thức …” không dạy riêng phụ âm “p” khi nó mở đầu âm tiết là đúng. Lập luận này không dựa trên nhận thức tiếng Việt là một SINH NGỮ và dạy SINH NGỮ khác với dạy “tử ngữ”. Người biên soạn sách không thể không biết rằng, trong sự vận động không ngừng của cuộc sống, sẽ có nhiều từ không còn được sử dụng trong giao tiếp hằng ngày nữa mà chỉ còn lưu lại trong các văn tự ở vào thời kỳ chúng phổ biên; mặt khác, sẽ có hàng loạt các từ mới xuất hiện, trong có có không ít từ vay mượn ngôn ngữ Âu châu được dùng cả một thế kỷ, hay ít nhất cũng vài chục năm, đã được Việt hoá và được đưa vào Từ điển Tiếng Việt phổ thông ngang bằng với những từ thuần Việt hay Hán Việt. Những từ ấy dù có xuất xứ nước ngoài nhưng hằng ngày đã được đa số người Việt sử dụng trong giao tiếp và trong văn tự. Hơn nữa, ngoài dân tộc Kinh, nước Việt Nam thống nhất còn có 53 dân tộc anh em khác. Tên đất, tên sông núi, tên các đơn vị hành chính, tên các dân tộc anh em có âm “p” mở đầu từ lâu đã trở thành vốn từ tiếng Việt với tư cách là ngôn ngữ quốc gia, do đó, âm “p” cũng từ lâu đã đi vào hệ thống ngữ âm tiếng Việt. Dù là vô tình hay hữu ý, người biên soạn sách Tiếng Việt lớp Một không dạy phụ âm đầu “p” thì sẽ là một thiếu sót không thể chấp nhận được và không thể nói nó là sách giáo khoa phổ thông! Với việc không dạy phụ âm đầu “p”đứng trước nguyên âm, vô hình trung tác giả cuốn sách đã loại nhiều địa danh quen thuộc như Sa Pa, Phan Xi Păng, Pác Pó, Pò Hèn, Pò Chài... và tên của nhiều địa danh làng xã khác ở miền núi mà tôi không thể liệt kê hết trong khuôn khổ bài viết này. Cũng như vậy, tên một số dân tộc như Pa Cô, Pà Thèn, Pu Péo mặc nhiên bị tác giả sách giáo khoa Tiếng Việt lớp Một [bộ Kết nối tri thức…] coi là từ ngoại lai, không cần dạy. Ngoài ra, âm “p”, chữ “p” còn có trong tên riêng của người dân tộc mà chúng ta chưa thể thống kê hết được, ngoài tên một số vị có chức sắc trong Hội đồng Dân tộc của Quốc hội qua các thời kỳ mà chúng ta đã biết.

Trong lời giải thích của minh, PGS. TS Bùi Mạnh Hùng, Tổng chủ biên kiêm Chủ biên quyển sách này, có cho rằng ông đã dành một trang để in đầy đủ 29 chữ cái trong đó có chữ ‘p” và coi đó là đã dạy chữ “p”, âm “p”. Tôi không tiện dùng lại hình ảnh “dựng hiện trường giả” mà ai đó đã dùng nhưng điều ông Hùng nói là một nguỵ biện không khoa học, nó chẳng khác nào ta mua thật nhiều sách đặt lên bàn mà nói với mọi người rằng ta đã đọc những cuốn sách đó. Ai cũng biết rằng các em học sinh lớp Một còn quá nhỏ để tự học. Các em cần phải có sự hướng dẫn chi tiết của thầy cô, thậm chí phải cầm tay các em dạy từng nét chữ, đặc biệt là học sinh các dân tộc miền núi lần đầu học tiếng phổ thông. Vì vậy, không dạy âm “p”, chữ “p” với tư cách là phụ âm đầu và kí tự ghi phụ âm đầu này trong tiếng Việt hiện đại sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới việc học của học sinh 53 dân tộc anh em. Tác giả cuốn sách, PGS. TS Bùi Mạnh Hùng, cho rằng học sinh vẫn đọc được những từ có “p” là phụ âm đầu, và cho rằng đó là kết quả của cuốn sách. Đó chỉ là sự nhập nhằng trong giải trình mà thôi, vì trên thực tế, như nhiều thầy cô đã phát biểu với báo chí, để các em học sinh đọc được chữ “p”, các thầy cô đã phải chủ động bổ sung một bài dạy âm “p”, chữ “p” cho các em. Điều này càng chứng minh là sách giáo khoa không có bài dạy âm “p”, chữ “p” là một thiếu sót không thể bào chữa.

Có một số vị có học vị học hàm về ngữ văn còn cho rằng sách giáo khoa bây giờ chỉ là tài liệu, thiếu đâu các thầy cô sẽ tìm tài liệu bổ sung. Nhưng vì sao người viết sách lại không chịu sửa sai mà đẩy cái khó cho các thầy giáo, cô giáo như vậy?

Chưa kể trong tình hình dạy học trực tuyến hiện nay, nhiều phụ huynh học sinh cùng tham gia tham gia dạy học cho con em mình. Hầu hết chỉ biết căn cứ vào sách giáo khoa để dạy, làm sao có thể “chủ động” dạy âm “p”, chữ “p” cho các con?

Cần phải khẳng định rằng chủ trương “Một chương trình nhiều sách giáo khoa” là một chủ trương đúng đắn, tạo điều kiện để phụ huynh học sinh, các cơ sở giáo dục được lựa chọn bộ sách mà mình yêu thích, tránh độc quyền trong xuất bản sách giáo khoa. Nhưng điều đó không có nghĩa là các tác giả viết sách giáo khoa được tự do sáng tác theo cảm tính, mà ngược lại, họ phải tuân thủ các nguyên tắc và các yêu cầu tối thiểu trong mỗi phần học của từng môn học. Ví dụ, với học sinh lớp Một, trong phần ÂM, các sách giáo khoa Tiếng Việt phải dạy học sinh biết đọc âm “p”,biết viết chữ “p”và biết ghép “p” với các nguyên âm thành tiếng. Với quy định này thì rõ ràng sách giáo khoa “Tiếng Việt 1, tập một” của ông Bùi Mạnh Hùng không tuân thủ các quy định trong Chương trình giáo dục phổ thông 2018 ban hành kèm theo Thông tư 32/2017 của BGD& ĐT.

Biên soạn sách giáo khoa, nhất là sách giáo khoa tiểu học, là một việc làm rất khó. Ngoài kiến thức về ngữ văn, người viết còn cần có hiểu biết về giáo dục học, tâm lý học, dân tộc học và nhiều lĩnh vực khoa học xã hội nhân văn khác. Trong quá trình biên soạn có thể có những lỗi nhất định do vô ý, nhưng tuyệt đối không được tự ý xa rời Chương trình giáo dục. Đặc biệt, khi đã có lỗi, có sai sót thì cần phải cầu thị, tiếp tục thực hiện phương châm "Tất cả vì học sinh thân yêu!"

Người viết bài này hy vọng rằng ông Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn là một trong những chuyên gia về khoa học ngữ văn và thấu hiểu những khó khăn trong công tác dạy tiếng phổ thông cho con em đồng bào các dân tộc ít người, sẽ sớm dưa ra các giải pháp kịp thời để thầy và trò ở cấp tiểu học có những cuốn sách giáo khoa đúng theo Chương trình giáo dục phổ thông 2018 mà BGD& ĐT đã ban hành.

Đào Quốc Vịnh

Cuốn sách đảm bảo tính kế thừa

Quyết định số 404/QĐ-TTg quy định “nguyên tắc xây dựng chương trình mới, SGK mới” là: “Chương trình mới, sách giáo khoa mới kế thừa ưu điểm của chương trình, sách giáo khoa hiện hành…”. Tuân thủ nguyên tắc này, Tiếng Việt 3 – Cánh Diều đã kế thừa và tiếp tục thực hiện tư tưởng dạy học tích hợp và tích cực. Đồng thời, Tiếng Việt 3 – Cánh Diều cũng kế thừa cách thiết kế cấu trúc sách theo hệ thống chủ điểm; cấu trúc bài học theo hệ thống hoạt động rèn luyện kĩ năng [đọc, viết, nói và nghe]... Đây được xem là những ưu điểm nổi bật của chương trình và sách giáo khoa cũ, đồng thời phù hợp với các yêu cầu của chương trình GDPT 2018.

Khi cầm Tiếng Việt 3 – Cánh diều trên tay, giáo viên và phụ huynh cảm nhận được sự gần gũi, quen thuộc từ hệ thống ngữ liệu bài đọc, có khoảng 31% tổng số văn bản tập đọc trong Tiếng Việt 3 được lấy lại từ SGK thuộc các chương trình trước đây. Các văn bản này là những bài văn, bài thơ, đoạn trích đã in đậm dấu ấn và gần như trở thành “bất hủ” trong nhiều thế hệ học trò. Có thể kể đến các bài văn, bài thơ, như: Nhớ lại buổi đầu đi học [Thanh Tịnh]; Ngày khai trường [Nguyễn Bùi Vợi]; Ngưỡng cửa [Vũ Quần Phương]; Mùa thu của em [Quang Huy]; Quạt cho bà ngủ [Thạch Quỳ];… Việc sử dụng lại các văn bản này vừa thể hiện sự tuân thủ nguyên tắc kế thừa, vừa đảm bảo quyền lợi cho học sinh được tiếp cận với các văn bản hay, có tính giáo dục cao và phù hợp với lứa tuối.

Ngoài ra, Tiếng Việt 3 - Cánh Diều còn kế thừa hệ thống bài tập viết và bài tập chính tả từ chương trình 2002 với ngữ liệu mới và phong phú, tạo ra sự hứng thú cho người dạy, người học.

Cuốn sách thể hiện rõ nét sự hiện đại

Tiếng Việt 3 – Cánh Diều vừa đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của Chương trình GDPT 2018 về phát triển năng lực phầm chất cho người học vừa là một cuốn sách giáo khoa hiện đại, tiệm cận với sách giáo khoa của các nước phát triển trên thế giới.

Về cấu trúc

Điểm mới dễ nhận thấy nhất ở Tiếng Việt 3 Cánh Diều là hệ thống bài học thiết kế theo hệ thống chủ đề, chủ điểm. Các bài học trong sách TV3 Cánh Diều được chia làm 4 chủ đề lớn, [Măng non, Cộng đồng, Đất nước, Ngôi nhà chung]. Mỗi chủ đề gồm một số chủ điểm. Mỗi chủ điểm là một bài học chính, được học trong 2 tuần. Mỗi bài học chính trong sách là một đơn vị trọn vẹn về nội dung [một chủ điểm], trọn vẹn về các hoạt động học tập [đọc, viết, nói và nghe]. Trong mỗi bài học, các hoạt động đọc, viết, nói và nghe được bố trí xen kẽ, luân phiên cho phù hợp với tâm lí tiếp nhận của HS và điều kiện dạy, học thực tế. Các bài học được thiết kế theo các bước của quy trình hoạt động: Chia sẻ [Khởi động] – Khám phá – Luyện tập – Vận dụng]. Sau mỗi bài học, học sinh được tự đánh giá những điều đã biết, những việc đã làm được bằng các bảng kiểm được thiết kế phù hợp và dễ thực hiện. Phụ huynh học sinh có thể dựa vào bảng kiểm này để nắm bắt yêu cầu của bài học và giúp đỡ con em mình học tập. Các bảng kiểm cũng là chỗ dựa để thầy cô ra đề đánh giá học sinh.

Thiết kế của sách Tiếng Việt 3 - Cánh Diều có phần cứng [các bài tập đọc, viết] và phần mềm [các bài tập nói và nghe, góc sáng tạo, ôn tập] để phù hợp với các đối tượng và thực tế dạy học ở các địa bàn khác nhau. Đây là điểm mới mà không có bộ sách giáo khoa nào có cho đến thời điểm này. Trong quá trình dạy học, tùy thuộc vào khả năng tiếp nhận của người học, tùy thuộc vào điều kiện thực tế địa phương mà giáo viên chủ động lựa chọn dạy một phần hay toàn bộ các tiết thuộc phần mềm hoặc sử dụng thời gian của các tiết này để giúp những học sinh gặp khó khăn trong học tập hoàn thành các yêu cầu bắt buộc [phần cứng].

Sách Tiếng Việt 3 - Cánh Diều không tổ chức tiết Luyện từ và câu riêng như ở SGK trước đây, không dạy các nội dung Luyện từ và câu theo kiểu lí thuyết, hàn lâm mà lồng ghép nội dung luyện từ và câu trong phần luyện tập sau mỗi bài đọc, sử dụng ngữ liệu bài đọc theo hướng tích hợp để học sinh dễ dàng nhận ra hiệu quả sử dụng trong thực tế cũng như học cách vận dụng chúng.

Toàn bộ nội dung rèn luyện các kĩ năng viết và nói - nghe cũng được các tác giả thiết kế lại cho phù hợp với yêu cầu của Chương trình GDPT 2018.

Về ngữ liệu

Ngữ liệu trong SGK Tiểng Việt 3 Cánh diều được lựa chọn một cách kĩ càng. Các bài đọc thường được sử dụng từ những tác phẩm hay và phù hợp với lứa tuổi, với chủ điểm học tập. Ngoài những bài thơ, đoạn văn kế thừa từ sách giáo khoa của các chương trình trước đây, các tác phẩm, tác giả mới được đưa vào tạo nên sự hấp dẫn và thích thú cho người đọc như: Trên hồ Ba Bể [Hoàng Trung Thông]; Cửa sổ [Phan Thị Thanh Nhàn]; Tiếng chim buổi sáng [Định Hải]; Hương làng [Băng Sơn]; Sông quê [Nguyễn Liên Châu]; Bên ô cửa đá [Hoài Khánh]; Trận đánh trên không [Nguyễn Đình Thi]; Chợ nổi Cà Mau [Nguyễn Ngọc Tư]; ...

Sách quan tâm giáo dục về hội nhập và tôn trọng sự khác biệt. Điều này có thể nhận thấy qua các bài văn, bài thơ về đề tài hòa bình, hữu nghị, về văn hóa của một số dân tộc, trước hết là các dân tộc Đông Nam Á mà Việt Nam là một thành viên: Một mái nhà chung [Định Hải]; Em nghĩ về Trái Đất [Nguyễn Lãm Thắng]; Gặp gỡ ở Lúc-xăm-bua [Quỳnh Phương]; Bác sĩ Y-éc-xanh [Cao Linh Quân]; Người hồi sinh di tích [Duy Hiển và An Nhi]; Một kì quan [Ngọc Linh]; Tết Bun-pi-may; Nhập gia tùy tục; …

Từ ngữ được sử dụng trong sách giáo khoa TV3 đảm bảo cho học sinh tất cả các vùng miền, các dân tộc sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam đều có thể hiểu và sử dụng một cách dễ dàng. Cuối sách, còn có các bảng tra cứu từ ngữ và bảng tra cứu tên riêng nước ngoài tạo điều kiện cho học sinh dễ dàng tra cứu và tìm kiếm.

Nhiều văn bản trong Tiếng Việt 3 - Cánh Diều là các văn bản đa phương thức, hiện đại và phù hợp với yêu cầu phát triển năng lực của học sinh thế hệ mới.

Về hình thức

Sách thiết kế hiện đại với khổ 19x26.5, in nhiều màu, với hình ảnh đẹp, rõ nét và phong phú. Bên cạnh kênh chữ, kênh hình có vai trò hỗ trợ và trở thành nội dung dạy, học. Giấy in sách cũng được lựa chọn phù hợp với yêu cầu bảo vệ mắt.

Cuốn sách nằm trong bộ sách được hỗ trợ tốt nhất

Bộ sách Cánh Diều được giáo viên đánh giá là bộ sách gần gũi và hỗ trợ giáo viên, phụ huynh và học sinh tốt nhất cả trong dạy và học. Công ty VEPIC, đơn vị chủ quản của bộ sách đã tạo ra các website và nhóm facebook để hỗ trợ giáo viên, phụ huynh và học sinh. Trong đó đáng kể nhất là Hoc10.vn, và các nhóm facebook:

Nhóm giáo viên Cánh Diều – Tiểu học [www.facebook.com/groups/609652986397748/];

Đồng hành cùng con học sách Cánh Diều [www.facebook.com/groups/429203298525687/].

Ở đây, giáo viên, phụ huynh được đội ngũ chuyên gia sẵn sàng hỗ trợ giải đáp tất cả các vấn đề liên quan đến quá trình dạy học bằng bộ sách Cánh Diều.

Với triết lí “Đem cuộc sống vào bài học, mang bài học vào cuộc sống”, Tiếng Việt 3 - Cánh Diều đảm bảo góp phần thực hiện thành công CT GDPT 2018 và sự nghiệp đổi mới giáo dục trong giai đoạn hiện nay.

Minh An

Video liên quan

Chủ Đề