Để đặt nền móng cho chế độ giáo dục phong kiến nhà Lý đã cho xây dựng

Tác giả bài viết: Phó Giáo sư, Tiến sĩ  TRẦN THỊ THÁI HÀ
[Trường Đại học Sài Gòn]

TÓM TẮT

     Xuất phát từ yêu cầu xây dựng chính thể thống nhất và ổn định, củng cố tiềm lực đất nước về mọi mặt, vương triều Lý nhận thấy sự cần thiết phải dựa vào Nho giáo và Nho học. Và như vậy, sau một thời gian dài du nhập vào Việt Nam, đến những năm 80 của thế kỉ XI, nền giáo dục và khoa cử Nho học đã được thừa nhận một cách chính thức qua các sự kiện như lập Văn miếu thờ Khổng tử và các vị thánh hiền [năm 1070], tổ chức khoa thi [năm 1075], dựng Quốc tử giám [năm 1076]. Giáo dục và khoa cử Nho học được nhà Lý chủ động tiếp nhận là biểu hiện rõ rệt nhãn quan chính trị, kế sách trị nước của các vua đầu triều Lý, đặc biệt là Lý Thánh Tông.

Từ khoá: giáo dục Nho học, khoa cử Nho học, vương triều Lý.

ABSTRACT

     Due to the need to build and consolidate the centralized political monarchy, the Lý dynasty recognized the need to rely on Confucianism. Therefore, after a long time of being introduced to Vietnam, by the 80s of the 11th century, the education and examination of Confucianism was officially recognized through events such as establishing the Temple of Confucius and Sage Saints [in 1070], organizing examinations [in 1075], building Quốc tử giám [in 1076]. The education and examination of Confucianism, actively received by the Lý dynasty, were a clear manifestation of the political vision and the plan to rule the country of the Lý kings, especially Lý Thánh Tông.

Keywords: education of Confucianism, examination of Confucianism, Lý dynasty.

x
x x

1. Mở đầu

     Sau hơn một nghìn năm Bắc thuộc, trải qua các triều Ngô-Đinh-Tiền Lê chính quyền độc lập tự chủ ngày càng được củng cố và phát triển. Tuy nhiên, phải từ thời Lý trở đi thì nhà nước phong kiến dân tộc mới dần được kiện toàn, phát triển về mọi mặt và đạt được nhiều thành tựu trên các lĩnh vực của đời sống đất nước. Góp một phần quan trọng trong quá trình hoàn thiện thể chế chính trị của vương triều Lý phải kể đến vai trò của giáo dục và khoa cử Nho học. Các nguồn tư liệu còn lại đến nay cho phép khẳng định: triều Lý khởi đầu cho nền giáo dục và khoa cử Nho học ở Việt Nam, đặt những viên gạch đầu tiên cho sự phát triển của văn hoá Thăng Long và văn hoá Đại Việt.

2. Nội dung

     2.1. Tầm nhìn của nhà Lý trong việc phát triển nền giáo dục và khoa cử Nho học

     Ngày 2 tháng 11 năm Kỉ Dậu, tức là ngày 21 tháng 11 năm 1009, được thế lực Phật giáo đứng đầu là sư Vạn Hạnh cùng các triều thần ủng hộ, Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế, lập ra vương triều Lý. Là người sớm tiếp nhận sự giáo dưỡng nơi cửa Phật, lại có được ngôi báu nhờ sự hậu thuẫn của Phật giáo, có thể nói vị vua đầu tiên của vương triều Lý – Lý Thái Tổ là người sùng Phật, chịu ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng Phật giáo. Mới lên ngôi, ông đã cho dựng nhiều chùa, thuê thợ đúc chuông lớn đặt ở các chùa, độ hàng ngàn người làm tăng. Lê Văn Hưu ở thế kỉ XIII nhận xét: “Lý Thái Tổ lên ngôi mới được hai năm, tôn miếu chưa dựng, xã tắc chưa lập mà đã đựng 8 chùa ở phủ Thiên Đức, lại trùng tu chùa quán ở các lộ và độ cho làm tăng hơn nghìn người ở Kinh sư” [Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê, 2009, tr. 298].

     Các vua Lý kế nghiệp cũng không ngừng cho xây dựng chùa chiền, đúc chuông, tô tượng, cho người sang nhà Tống xin kinh Phật. Tinh thần mộ Phật lan rộng trong các tầng lớp xã hội, từ quý tộc, quan lại đến giới bình dân. Chùa chiền được xây dựng ở khắp nơi, đến mức như sử cũ miêu tả: “Nhân dân quá nửa làm sư, trong nước chỗ nào cũng có chùa” [Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê, 2009, tr. 306]. Có thể thấy rằng, mọi hoạt động liên quan đến Phật giáo đều được vương triều Lý quan tâm và ủng hộ mạnh mẽ.

     Không chỉ đóng vai trò quan trọng trong đời sống tôn giáo của đất nước, Phật giáo còn thể hiện vị trí của mình trong hệ thống chính trị đương thời. Bộ phận tăng quan trong triều đình có từ thời Đinh, Tiền Lê sang thời Lý, các nhà sư vẫn có tiếng nói và tầm ảnh hưởng đến nhà vua. Sư Vạn Hạnh, người đỡ đầu cho Lý Thái Tổ qua đời năm 1026 [Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê, 2009, tr. 314]. Tuy nhiên, sự kiện “Đặt các cấp bậc của tăng đạo” vào tháng 11 năm Mậu Thìn – 1028 [Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê, 2009, tr. 211] đã cho thấy bộ phận sư sãi, tăng quan trong triều đình Lý khá đông đảo.

     Phật giáo đầu thời Lý phát triển mạnh như vậy, nhưng hơn 60 năm sau kể từ ngày Lý Thái Tổ đăng quang, Lý Thánh Tông và tiếp theo là Lý Nhân Tông lại quyết định lựa chọn và từng bước sử dụng Nho giáo, làm cho Nho học trở nên như một phương tiện để tăng cường hiệu lực của bộ máy quản lí nhà nước. Có thể lí giải hiện tượng này bằng chính hiện thực xã hội Việt Nam đầu thời Lý, cụ thể là:

     Trước hết, sau khi mới lên ngôi, nhà Lý phải mất nhiều thời gian để từng bước ổn định đất nước về mọi mặt. Dần dần, dựa trên chính thực tiễn phát triển của xã hội Việt Nam khi đó, triều Lý đã từng bước nhận thấy cần phải sử dụng một học thuyết chính trị phù hợp để quản lí và phát triển xã hội [Đỗ Hương Thảo, 2009, tr. 603], bởi lẽ Phật giáo không cung cấp cho vương triều những điều cần thiết: bài học để bảo vệ ngai vàng, xây dựng đất nước, kiến lập nền chính trị hành chính, trị quốc an dân” [Nguyễn Hải Kế, 2008, tr. 21] – những điều mà Nho giáo có thể đem lại.

     Nho giáo và Phật giáo đều được truyền vào Việt Nam vào khoảng đầu Công nguyên. Trong suốt thời Bắc thuộc, Nho giáo tuy chưa chiếm được vị trí độc tôn trong xã hội Việt Nam song ngay từ khi đó, văn tự Hán đã được dùng để phục vụ cho các công việc hành chính của chính quyền đô hộ phương Bắc trong quá trình thực hiện công cuộc cai trị, đồng hoá nhân dân ta, là phương tiện chủ yếu để dịch kinh, in sách Phật. Trong bối cảnh đó, dù muốn hay không, người Việt dần tiếp thu chữ Hán bằng nhiều con đường khác nhau, dần hình thành nên một tầng lớp trí thức Nho học người Việt. Sau khi giành nền tự chủ, nhà nước Ngô, Đinh, Tiền Lê rồi đến Lý được thiết lập, tiếp tục coi chữ Hán là văn tự chính thức, sử dụng trong các văn bản hành chính. Việc học chữ Hán trở thành một nhu cầu cấp thiết lúc này nhằm để phục vụ giao tiếp, đối ngoại, soạn thảo công văn, xử lí các vụ việc hành chính, ghi chép sổ sách, thu thuế.v.v.

     Mặc dù Nho giáo đã được các thế hệ phong kiến đô hộ phương Bắc liên tục truyền bá, đưa vào nước ta từ trước, nhưng cho đến thế kỉ X, trật tự, kỉ cương, lễ nghi, tập tục theo khuôn mẫu Nho giáo chưa có tác dụng chi phối, ràng buộc xã hội. Xã hội thời Đinh, Tiền Lê chưa có sự hiện diện của bất kì bộ luật thành văn nào. Tục lệ, tập quán được lưu truyền qua các thế hệ được nhà nước và làng xã thực hiện khá phổ biến. Sang thời Lý, cùng với việc sử dụng quyền lực chính trị, tôn giáo, quân đội, luật tục để điều tiết, chi phối và quản lí các lực lượng trong xã hội, nhu cầu về xây dựng nhà nước quân chủ trung ương tập quyền mạnh trong điều kiện chính trị, xã hội có nhiều thay đổi đòi hỏi những người đứng đầu triều đình nhà Lý phải sớm chế định ra luật pháp để giữ gìn kỉ cương, phép nước. Việt sử lược cho biết: “Vua xuống chiếu cho Trung thư sảnh san định sách luật” [Việt sử lược, 2005, tr. 83]. Năm 1042, bộ luật Hình thư của nhà Lý được hoàn thành, “Sách làm xong, xuống chiếu ban hành, dân lấy làm tiện” [Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê, 2009, tr. 330].

     Trung thư sảnh hay Trung thư tỉnh được khởi lập dưới triều Lý [năm 1028], đứng đầu là viên Trung thư lệnh có nhiệm vụ cùng nhà vua dự bàn các việc chính sự quan trọng. Bên dưới gồm các chức Trung thư Thị lang và Trung thư Xá nhân, Tả hữu Gián nghị đại phu. Trung thư sảnh là một trong các văn thư phòng, có trách nhiệm tham mưu cố vấn và chuyên việc giấy tờ, hành chính cho nhà vua. Cũng do tầm quan trọng và đặc thù công việc, các quan Trung thư sảnh phần đông là những người có trình độ học vấn và am hiểu thuật trị nước. Vào thời điểm biên soạn bộ luật Hình thư, tuy nhà Lý chưa tổ chức khoa thi Nho học, nhưng vai trò và dấu ấn của các trí thức Nho trong bộ luật này là điều không thể phủ nhận [Phạm Đức Anh, 2015, tr. 326]. Đây có lẽ cũng là một trong những nhân tố tác động đến sự lựa chọn Nho học của nhà Lý, khi bộ phận quan chức có học vấn khẳng định vai trò không thể thay thế của họ trong những công việc hệ trọng của quốc gia.

     Những biến đổi về kinh tế – xã hội Việt Nam từ cuối thời Bắc thuộc và trong suốt thế kỉ X, rồi tiếp tục trong thế kỉ XI cũng là một nhân tố cần tính đến khi xem xét bối cảnh xác lập nền giáo dục và thi cử Nho học ở thời Lý. Sử liệu đã gián tiếp đề cập đến sản nghiệp của một tầng lớp thổ hào, cự tộc nổi bật trong xã hội Việt Nam trước và trong thế kỉ X-XI. Đó có thể là tổ tiên của các dòng họ Lý [Lý Bí] [Thái Nguyên], họ Dương [Dương Đình Nghệ] ở vùng Dương Xá [Thanh Hoá], họ Khúc ở Hồng Châu, họ Phạm ở Nam Sách [Hải Dương], họ Hồ ở Nghệ An, họ Đinh ở Ninh Bình, họ Vũ ở Mộ Trạch [Hải Dương], họ Lê ở Đông Sơn [Thanh Hoá], họ Nguyễn ở Bắc Ninh, họ Kiều ở Vĩnh Phúc. Những người này đồng thời là chủ đất, chủ trang trại với cơ ngơi lớn. Theo bia Càn ni sơn Hương Nghiêm tự bi minh và gia phả thì Bộc xạ Lê Lương có hơn 100 lẫm chứa thóc và hàng nghìn người cày, nổi tiếng ở đất Đông Sơn [Thanh Hoá]. Con cháu của ông đến đầu thời Lý đứng ra đòi lại ruộng đất xưa của ông cha [Ban Tuyên giáo tỉnh uỷ Thanh Hoá, 2018, tr. 117]. Hoặc như dòng họ La của La Quý An, người đã từng bỏ tiền của xây dựng hàng loạt chùa chiền ở vùng Tiên Du [Bắc Ninh] [Trương Hữu Quýnh, 1984, tr. 54]; họ Dương ở vùng Dương Xá đã “nuôi ba nghìn tráng sĩ làm nha binh” [Quốc sử quán triều Nguyễn, 1998, tr. 220]. Thêm vào đó, chính sách ban cấp thực ấp được nhà nước Đinh – Tiền Lê học hỏi từ phương Bắc và áp dụng triệt để càng làm gia tăng số lượng và quy mô sở hữu của người được ban cấp. Như vậy, cho đến cuối thế kỉ X – đầu thế kỉ XI, trong xã hội Việt Nam đã hiện diện một tầng lớp đông đảo các chủ đất lớn, chi phối và có ảnh hưởng đến đời sống xã hội của một địa phương nhất định. Thực tế trên cũng cho thấy, lúc này trong xã hội Việt Nam, chế độ sở hữu công cộng về ruộng đất của làng xã cổ truyền không phải là chế độ sở hữu duy nhất, thống trị. Do nhiều nguyên nhân khác nhau mà chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất tiếp tục phát triển. Sang thời Lý, bộ phận ruộng đất tư nhân ngày càng lớn mạnh. Đi cùng với sự phát triển của kinh tế hàng hoá đương thời, các hiện tượng như mua bán, cầm cố ruộng đất, kiện cáo, tranh giành thừa kế… xung quanh vấn đề đất đai xuất hiện ngày một nhiều trong xã hội. Thực tế này đòi hỏi Nhà nước thời Lý phải có biện pháp để điều tiết, quản lí và can thiệp có hiệu quả nhằm bảo vệ nguồn lợi từ tô thuế, ổn định trật tự xã hội, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp. Để làm được điều đó, cần thiết phải xây dựng một thể chế đủ mạnh với các cơ quan chuyên trách cùng đội ngũ quan chức biết chữ Hán, am hiểu rộng và có uy tín xã hội. Có thể phỏng đoán rằng trong xã hội Việt Nam thời bấy giờ số người biết chữ chắc chắn không nhiều. Một thời gian dài trước thế kỉ X và ngay ở thế kỉ XI, Phật giáo đóng vai trò quan trọng trong hoạt động giáo dục, “Bấy giờ nhà chùa là nhà trường, nhà sư là nhà giáo” [Nguyễn Khắc Thuần, 1998, tr. 53]. Vì thế, tuy chữ Hán đã trở thành chữ viết chính thức nhưng số người biết chữ, biết đến Nho học còn chưa nhiều. Các nhà sư thường là lớp trí thức quan trọng trong triều đình Đinh, Tiền Lê và đầu thời Lý.

     Cùng với đó, khi việc xây dựng Nhà nước theo mô hình của phong kiến phương Bắc trở thành tất yếu thì Nho học cũng ngày càng có vai trò quan trọng. Phạm Đức Anh trong Mô hình tổ chức Nhà nước ở Việt Nam thế kỉ X-XIX cho biết, trong quan chế của triều Lý có 28 danh chức, nếu so sánh với Trung Hoa, triều Lý gần như vay mượn toàn bộ từ quan chế nhà Tống với 23/28 chức giống nhau. Trong 23 chức đó, triều Tống sử dụng lại 19 chức từ quan chế thời Đường [Phạm Đức Anh, 2015, tr. 40]. Xây dựng bộ máy chính quyền theo mô hình Đường, Tống, các vua Lý cũng từng bước tiếp nhận phương thức tuyển dụng quan lại qua thi cử của phong kiến Trung Hoa. Nhu cầu về nhân lực cho bộ máy hành chính từ trung ương đến địa phương luôn thường trực, nhất là trong bối cảnh cần khẳng định và củng cố quyền lực của Nhà nước trung ương ở các địa phương của nước Đại Việt. Ngay từ khi mới thành lập, nhà Lý đã có sự ưu ái dành cho những người trong hoàng tộc, những tướng lĩnh có công lao phò tá và hình thức tuyển lựa quan lại chủ yếu được thực hiện bằng con đường bảo cử, tập ấm. Tuy nhiên, các vua Lý cũng sớm nhận ra rằng, để khách quan và lựa chọn rộng rãi được nhiều nhân tài tham gia vào bộ máy chính quyền từ trung ương đến địa phương, không có con đường nào hiệu quả hơn là thông qua khoa cử. Có thể thấy rằng, qua hàng trăm năm thử thách, Phật giáo và giáo dục Phật giáo cũng đã tự bộc lộ những điểm không phù hợp với yêu cầu của xã hội lúc này, “Trong đó nổi bật nhất là việc học mà không thi”, không có hệ thống các kì thi chuẩn mực cũng như học vị “để đánh dấu quá trình dùi mài đèn sách” [Nguyễn Khắc Thuần, 1998, tr. 54]. Đặt trong bối cảnh như vậy, rõ ràng giáo dục và khoa cử Nho học đã tỏ rõ ưu thế trong so sánh với Phật giáo, phù hợp với những thay đổi của thời cuộc, đáp ứng nhu cầu của xã hội Việt Nam đang trên đà phát triển ở thế kỉ XI.

     Trong những yếu tố tác động đến sự chú ý của các vua Lý tới Nho giáo và hình thành trong họ tư tưởng dung hoà giữa Phật giáo, Nho giáo có lẽ cũng cần xem xét đến vai trò của Thiền phái Thảo Đường. Nếu Thiền phái Tì ni đa lưu chi chịu nhiều ảnh hưởng của Mật giáo, có nhiều nhà sư nổi tiếng về pháp thuật, dùng sấm vĩ và phong thuỷ trong hoạt động chính trị, Thiền phái Vô ngôn thông mang nhiều ảnh hưởng của Thiền phái Nam phương ở Trung Quốc và có phần chịu ảnh hưởng của Tịnh Độ tông – chủ trương niệm Phật để đạt đến “nhất tâm bất loạn”, nhấn mạnh “đốn ngộ” và “vô đắc” [Nguyễn Lang, 1993, tr. 184], thì Thiền phái Thảo Đường – một Thiền phái mới xuất hiện ở Việt Nam vào cuối thập niên 70 của thế kỉ XI lại mang khuynh hướng coi trọng trí thức và thi ca, chủ trương dung hoà Phật giáo và Nho giáo [Phan Huy Lê, 2006, tr. 590]. “Thiền phái này không cắm rễ được trong quần chúng mà chỉ ảnh hưởng được tới một số trí thức có khuynh hướng văn học” và “ảnh hưởng của Thiền phái này chỉ đáng kể về mặt học tập” [Nguyễn Lang, 1993, tr. 191]. Thiền uyển tập anh còn ghi phổ hệ 9 đời gồm 19 người thuộc Thiền phái Thảo Đường, đặc biệt phải kể đến thế hệ thứ hai có vua Lý Thánh Tông, thế hệ thứ 4 có vua Lý Anh Tông, thế hệ thứ 6 có vua Lý Cao Tông [Nguyễn Lang, 1993, tr. 190]. Như vậy, rõ ràng những tư tưởng của dòng thiền Thảo Đường không chỉ được các vua Lý tiếp nhận mà bản thân nhà vua còn trở thành những cao tăng, có ảnh hưởng lớn trong xã hội và được lịch sử của Thiền phái ghi nhận. Trong đó, vua Lý Thánh Tông thuộc thế hệ thứ hai của phái Thảo Đường cũng chính là người đã cho xây dựng Văn miếu, tổ chức kì thi đầu tiên năm 1075 và lập ra Quốc Tử Giám vào năm sau đó.

     Tựu trung lại, do yêu cầu xây dựng và củng cố chế độ quân chủ tập quyền mà nhà Lý cần dựa vào Nho giáo và Nho học để xây dựng thiết chế chính trị. Và như vậy, sau một thời gian dài, Nho học đã có cơ hội thuận lợi để thâm nhập vào xã hội Việt Nam, xuất phát từ nhu cầu tồn tại của chính thể đương thời. Giáo dục và khoa cử Nho học được nhà Lý chủ động tiếp nhận là biểu hiện rõ rệt nhãn quan chính trị, kế sách trị nước của các vua triều Lý, đặc biệt là Lý Thánh Tông. Vương triều Lý có lẽ cũng như các triều đại phong kiến sau này vì công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước đã tiếp nhận, khai thác những yếu tố Nho giáo phù hợp với xã hội, tiếp nhận Nho học – Nho giáo như một công cụ tư tưởng để tổ chức xã hội, trước hết ở các phương diện như nhân cách cá nhân, gia đình được củng cố, xã hội và đất nước được ổn định: “Các nhà Nho Việt Nam không bàn nhiều về lí luận phức tạp mà chú trọng vào củng cố nhân luân hiếu đễ, củng cố nền kinh tế nông nghiệp, củng cố khối cộng đồng gia đình – họ tộc – xóm làng, củng cố việc học hành khoa cử” [Phan Đại Doãn, 1999, tr. 10].

     2.2. Thành tựu của giáo dục và khoa cử thời Lý

     Có thể điểm qua những thành tựu tiêu biểu của giáo dục và khoa cử Nho học thời Lý qua hai nội dung chính như sau:

     2.2.1. Văn miếu và Quốc Tử Giám được xây dựng, mở đầu cho nền giáo dục Nho học ở Việt Nam

     Năm 1070, vua Lý Thánh Tông đã chấp thuận việc xây Văn miếu ngay tại kinh thành Thăng Long. Về sự kiện này, sử chép: “Mùa thu, tháng 8, làm Văn miếu, đắp tượng Khổng Tử, Chu Công và tứ phối, vẽ tượng thất thập nhị hiền, bốn mùa cúng tế. Hoàng thái tử đến học ở đây” [Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê, 2009, tr. 348].

     Mặc dù Nho giáo vào Việt Nam từ rất sớm, nhưng cho đến thế kỉ XI, việc xây dựng Văn miếu mới được chính sử lần đầu tiên đề cập tới. Một số nước khác có ảnh hưởng của Nho giáo như Nhật Bản, Hàn Quốc cũng đều có miếu thờ Khổng Tử nhằm tôn vinh ông và nền Nho học do ông sáng lập. Là một dạng kiến trúc của các nước phương Đông chịu ảnh hưởng của văn hoá Nho giáo, Văn miếu vừa là chỗ để thờ các vị thánh hiền của Nho giáo như Khổng Tử, Chu Công, Nhan Tử, Tăng Tử, Tử Tư, Mạnh Tử, đồng thời được sử dụng như một địa điểm để dạy học. Về sau này, Văn miếu còn là nơi bảo tồn những tấm bia đá khắc ghi tên tuổi những người đỗ đại khoa của quốc gia hay địa phương nơi lập Văn miếu.

     Thông tin từ chính sử cho biết, Văn miếu ở kinh thành Thăng Long ngay từ khi được nhà vua cho xây dựng năm 1070 đã đồng thời thực hiện hai chức năng: tôn giáo và văn hoá, vừa là miếu thờ và là nơi học tập của vị vua tương lai. Sự nghèo nàn về tư liệu không cho phép có thể đưa ra bất cứ phác hoạ nào về quy mô, kiến trúc cũng như việc thờ phụng diễn ra tại Văn miếu được dựng năm 1070. Theo ghi chép của Khâm định Việt sử thông giám cương mục, vào năm 1156, vua Lý Anh Tông theo lời của Tô Hiến Thành cho dựng miếu thờ riêng Khổng Tử ở phía Nam thành Thăng Long [Quốc sử quán triều Nguyễn, 1998, tr. 409], năm 1171, cho sửa lại miếu này [Quốc sử quán triều Nguyễn, 1998, tr. 415]. Như vậy phải chăng trong thế kỉ XIXII, ở kinh thành Thăng Long có hai Văn miếu. Văn miếu thứ hai được xây dựng năm 1156 chỉ để thờ riêng một mình Khổng Tử, không phối thờ bất kì nhân vật nào khác và chỉ thực hiện một chức năng duy nhất là nơi thờ Khổng Tử.

     Về thời điểm xuất hiện chính xác của Quốc Tử Giám hiện chưa thể xác định, nhưng căn cứ vào sự kiện năm 1076, vua Lý Nhân Tông“chọn quan viên văn chức, người nào biết chữ cho vào Quốc Tử Giám” [Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê, 2009, tr. 352], cho thấy Quốc Tử Giám rất có thể đã được xây dựng gần với thời điểm của Văn miếu. Quốc Tử Giám đào tạo học trò ở nhiều trình độ cao thấp khác nhau, trong đó cao nhất là bậc tương đương với đại học [Nguyễn Khắc Thuần, 1998, tr. 55]. Do vậy, nhiều nhà nghiên cứu đồng ý với quan điểm: cũng từ Quốc Tử Giám, nền đại học nước ta được khai sinh. Đúng như tên gọi của nó, Quốc Tử Giám là trường chỉ dành riêng cho con em quý tộc, quan viên văn chức biết đôi chữ. Đây là trường do Nhà nước thành lập, thuộc hệ giáo dục công lập. Tuy đối tượng đào tạo có phần hạn hẹp, nhưng bản thân sự hiện diện của Quốc Tử Giám ở ngay chính kinh đô của đất nước là nguồn khích lệ lớn lao đối với nền giáo dục Nho giáo đương thời.

     Thăng Long thời Lý là một đô thị đa chức năng. Với vai trò là trung tâm chính trị, hành chính của đất nước, Thăng Long là nơi tập trung đông đảo tầng lớp quan lại, quý tộc. Nhu cầu học tập để hiểu biết, để phục vụ xử lí các mối quan hệ của cư dân đô thị có lẽ chính là yếu tố thúc đẩy sự ra đời của các trường tư bên cạnh Quốc Tử Giám. Tây Hồ chí cho biết ít nhất là từ đời vua Lý Thái Tông [1028-1054], tức là trước khi Quốc Tử Giám ra đời đã xuất hiện dạng trường tư thục. Khảo cứu về vấn đề này, Bùi Xuân Đính cho rằng: “Trong khi hệ thống trường công quá ít, không đáp ứng được yêu cầu học tập của các tầng lớp cư dân. Vì thế trường tư được mở và xuất hiện đầu tiên ở Thăng Long là một hệ quả tất yếu. Điều này phù hợp với ghi chép trong sách Tây hồ chí về trường của Lý Công Ẩn và đó là một minh chứng” [Bùi Xuân Đính, 2009, tr. 595].

     Lý Công Ẩn sống vào đời vua Lý Thái Tông, người thôn Bái Ân nay thuộc phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội. Ông là tôn thất nhà Lý nhưng không ra làm quan mà ở nhà dạy học. Theo Tây Hồ chí: “Lý Công Ẩn lúc còn trẻ học Nho, nửa chừng giác ngộ bí quyết của sư Vạn Hạnh mà nổi tiếng về đạo học. Khoảng niên hiệu Càn phù hữu đạo đời vua Thái Tông [1039-1041], ông lên tiên. Nơi chứng quả là núi Trung Hàng, châu Đông Ba” [Tây Hồ chí, 1962, tr. 80]. Cũng theo tư liệu này, vị trí dạy học của Lý Công Ẩn ở phía Tây Bắc của Hồ Tây, vào khoảng giữa phường Bái Ân khi đó. Lưu truyền dân gian cho rằng chỗ dạy học ấy nằm ở vị trí cánh đồng thôn Bái Ân sau này, tuy nhiên hiện nay do tốc độ đô thị hoá mạnh mẽ mà toàn bộ khu vực cánh đồng đó đã không còn dấu vết. Cũng theo Tây Hồ chí, ngôi trường này còn là nơi Lý Thường Kiệt từng theo học. Sách chép chuyện về “con đường Việt quốc công Lý Thường Kiệt đi học: “Thuở nhỏ, Ngô Công thờ ông Lý Công Ẩn tiên sinh làm thầy. Mỗi ngày cắp sách đi học ắt men trên bờ sông Tô Lịch đến phường Bái Ân. Ông Phạm Đan Phong cho rằng, con đường Lý Thường Kiệt đi học, nay là con đường nhỏ từ An Ninh đến An Thái” [Tây Hồ chí, 1962, tr. 23].

     Như vậy, mặc dù trước khi Quốc Tử Giám xuất hiện thì đã có cơ sở tự phát giảng dạy Nho học ở kinh thành Thăng Long. Tuy nhiên, sự ra đời của Quốc Tử Giám – trường học do Nhà nước thành lập có thể coi là quyết định chính thức lựa chọn giáo dục Nho học của vương triều Lý. Chính vì thế, Quốc Tử Giám có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của giáo dục Nho học ở Việt Nam. Cùng với công cuộc xây dựng Thăng Long thành một kinh đô – trung tâm quyền lực của vương triều với hệ thống thành quách và đền đài tráng lệ, thì các vua Lý đã thể hiện rõ định hướng phát triển quốc gia tự chủ về mọi mặt, cường thịnh và văn hiến với những bước đi vững chắc, mà sự ra đời của Văn miếu, Quốc Tử Giám là một trong những sự kiện khởi đầu có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Từ nền móng ban đầu của Quốc Tử Giám thời Lý, dần dần Quốc Tử Giám qua các triều đại đã từng bước phát triển và hoàn thiện: Quốc tử viện, Quốc học viện thời Trần, Quốc Tử Giám thời Lê và thời Nguyễn. Nhìn xuyên suốt một chặng đường tồn tại của Quốc Tử Giám và giáo dục, khoa cử Nho học [cho đến những năm đầu thế kỉ XX], vai trò khai mở nền giáo dục Nho học của Quốc Tử Giám dưới thời Lý càng được khẳng định rõ.

     2.2.2. Tổ chức các kì thi Nho học và thi Tam giáo

     Chủ động tiếp nhận Nho học bằng việc cho xây Văn miếu, dựng Quốc Tử Giám, nhà Lý đồng thời mở các kì thi Nho học, tuyển dụng quan lại bằng con đường khoa cử. Trên tinh thần lấy giáo dục để bồi dưỡng hiền tài, nhà Lý từng bước có một đội ngũ quan chức được tuyển lựa qua thi cử. Bằng cách này, vương triều Lý đã xây dựng được một hệ thống quan chức mang phong cách riêng của dòng họ với phương thức tuyển dụng bằng ba con đường chính là tuyển cử, nhiệm tử và khoa cử.

     Theo sử cũ, khoa thi đầu tiên trong lịch sử khoa cử Việt Nam được tổ chức dưới thời vua Lý Nhân Tông, năm 1075. Đại Việt sử kí toàn thư chép về sự kiện này như sau: “Ất Mão, Thái Ninh năm thứ 4 [1075], Tống Hy Ninh năm thứ 8. Mùa Xuân, tháng 2, xuống chiếu tuyển Minh kinh bác học và thi Nho học tam trường. Lê Văn Thịnh trúng tuyển, cho vào hầu vua học” [Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê, 2009, tr. 351].

     Khoa thi đầu tiên năm 1075 cùng với sự ra đời của Văn miếu [năm 1070] và Quốc Tử Giám [1076] có thể coi là những dấu hiệu quan trọng cho thấy sự chuyển biến của vương triều Lý trong lựa chọn hệ tư tưởng làm rường cột cho chính sách nội trị, hướng đến sự phát triển về lâu dài và bền vững của quốc gia Đại Việt. Với những sự kiện này, địa vị của Nho học được chính thức hoá, các vị vua Lý bắt đầu được đào tạo bởi các trí thức Nho học và cũng tạo nên các chuẩn mực để lựa chọn nhân tài cho đất nước. Trần Thị Vinh trong một nghiên cứu về thể chế chính trị của vương triều Lý cũng đưa ra nhận định “Tuyển chọn nhân tài qua con đường học vấn bắt đầu có từ thời Lý. Lần đầu tiên trong lịch sử chế độ phong kiến quân chủ Việt Nam, khoa cử được sử cũ nhắc đến vào năm Ất Mão [1075]. Nho học được coi trọng và đội ngũ Nho sĩ đỗ đạt bắt đầu được gia nhập vào trong thiết chế Nhà nước” [Trần Thị Vinh, 2009, tr. 295].

     Sau khoa thi năm 1075, trong thời gian tồn tại của mình, vương triều Lý còn tổ chức thêm một số khoa thi khác.

     Đại Việt sử kí toàn thư chép lại một số kì thi do nhà Lý tổ chức như sau:

     Bính Dần [Quảng Hựu] năm thứ 2 – 1086 [Tống Triết Hú Nguyên Hựu năm thứ 1]. Mùa thu, tháng 8, thi chọn người có văn học trong nước, sung làm quan ở Hàn lâm viện. Mạc Hiển Tích trúng tuyển, bổ làm Hàn lâm học sĩ [Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê, 2009, tr. 356].

     Nhâm Thân [Đại Định] năm thứ 13 – 1152 [Tống Thiệu Hưng năm thứ 22]. Mùa đông, tháng 10, thi Điện. [Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê, 2009, tr. 406].

     Ất Dậu [Chính Long Bảo Ứng] năm thứ 3 – 1165 [Tống Càn Đạo năm thứ 1]. Mùa thu, tháng 8 thi Thái học sinh [Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê, 2009, tr. 411].

     Ất Tỵ [Trinh Phù] năm thứ 10 – 1185 [Tống Thuần Hy năm thứ 12]. Mùa xuân, tháng giêng, thi sĩ nhân trong nước, người nào từ 15 tuổi mà thông thi thư thì được vào hầu học ở ngự điện. Lấy đỗ bọn Bùi Quốc Khái, Đặng Nghiêm 30 người, còn thì đều ở lại học [Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê, 2009, tr. 418].

     Quý Sửu [Thiên Tư Gia Thuỵ] năm thứ 8 – 1193 [Tống Thiện Hy năm thứ 4]. Khảo khoá các quan văn võ trong ngoài để rõ nên giáng hay thăng. Thi các sĩ nhân trong nước để chọn người vào hầu vua học [Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê, 2009, tr. 420].

     Ất Mão [Thiên Tư Gia Thuỵ] năm thứ 10 – 1195 [Tống Ninh Tông Khuếch, Khánh Nguyên năm thứ 1]. Thi Tam giáo, cho đỗ xuất thân [Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê, 2009, tr. 421].

     Có thể nhận thấy, các khoa thi do nhà Lý tổ chức chưa có định lệ về thời gian tiến hành, quy chế thi cử. Số người dự thi và đỗ đạt qua từng khoa thi được ghi chép không đầy đủ nên khó khảo cứu cụ thể. Phan Huy Chú khi viết về phép thi thời Lý, phần Khoa mục chí đã nhận xét: “Phép thi bấy giờ chưa có cách thức nhất định. Hoặc thỉnh thoảng có chiếu của vua cử học trò trong nước vào thi, nhà vua tự xem thi ở điện đình. Sử chép không rõ nên không khảo được” [Phan Huy Chú, 2006, tr. 7].

     Căn cứ vào tên gọi các kì thi cũng như yêu cầu của triều đình nhà Lý về đối tượng dự thi, nội dung thi, có thể hình dung tài liệu học tập dùng trong giáo dục Nho học thời kì này không nằm ngoài các bộ sách kinh điển của Nho giáo như Ngũ kinh, Tứ thư.

     Theo những ghi chép của Đại Việt sử kí toàn thư và Lịch triều hiến chương loại chí [phần Khoa mục chí], thời Lý mở tổng cộng 7 khoa thi vào các năm 1075, 1086, 1152, 1165, 1185, 1193, 1195 và những người đứng đầu kì thi có Lê Văn Thịnh, Mạc Hiển Tích, Bùi Quốc Khái, Đặng Nghiêm.

     Lê Văn Thịnh đỗ đầu khoa thi năm 1075 [Phan Huy Chú, 2006, tr. 60]. Ông người làng Đông Cứu, huyện Gia Định, nay là huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh. Sau khi thi đỗ ông được cử dạy học cho hoàng tử và giữ chức Thị lang bộ Binh. Thành tích nổi bật của ông được sử sách ghi lại là dẫn đầu sứ bộ của ta đàm phán với sứ bộ nhà Tống vào tháng 6 năm 1084 để đòi lại đất hai động Vật Dương và Vật Ác. Hoàn thành nhiệm vụ trở về nước, ông giữ chức Thái sư trong khoảng thời gian từ năm 1085 đến năm 1096 [Trịnh Mạnh, 2008, tr. 48, 49].

     Mạc Hiển Tích người xã Lũng Động, huyện Chí Linh [Hải Dương]. Ông đỗ đầu khoa thi năm 1086, làm quan đến Thượng thư [Phan Huy Chú, 2006, tr. 60].

     Bùi Quốc Khái người xã Bình Lãng, huyện Cẩm Giàng [Hải Dương]. Theo văn bia từ chỉ Bằng Liệt thì ông đứng thứ hai trong số 3 người đứng đầu trong kì thi Đình, khoa thi năm Ất Tỵ đời vua Lý Anh Tông, làm quan đến chức Đô ngự sử [Đinh Khắc Thuân, 2010, tr. 369].

     Đặng Nghiêm người thôn An Đề, huyện Vũ Thư [Thái Bình]. Ông đỗ khoa thi năm 1185, được chọn vào hầu vua học. Sau này, ông làm quan đến chức Công bộ Thị lang.

     Số lượng Nho sĩ đỗ đạt qua mỗi kì thi cũng như chức vụ họ từng đảm trách trong triều đình nhà Lý hiện vẫn là một khoảng trống nhận thức do thiếu nguồn tư liệu tin cậy, chính xác về học thuật. Mặc dù vậy, qua 4 trường hợp đỗ đạt và thành danh trên quan trường đã trình bày ở trên, cho thấy các Nho sĩ được tuyển lựa qua thi cử được vương triều Lý trọng dụng, cho giữ những chức vụ quan trọng ở triều đình.

     Một hiện tượng đặc biệt trong khoa cử thời Lý, đó là bên cạnh các khoa thi Nho giáo, nhà Lý còn tổ chức cả kì thi Tam giáo, “Thi tam giáo là thi xét những người thông hiểu cả đạo Nho, đạo Lão, đạo Phật thì cho đỗ” [Phan Huy Chú, 2006, tr. 7]. Những người đỗ khoa thi này cũng được trao học vị như các kì thi Nho học. Bùi Xuân Đính cho rằng, “Việc thi Tam giáo xuất phát từ hiện tượng Tam giáo đồng tôn rất phổ biến vào thời Lý, trong đó Nho giáo là hệ tư tưởng thống trị xã hội, Phật giáo là Quốc giáo, còn Đạo giáo là đạo được các tầng lớp nhân dân tin theo, với sự hấp dẫn riêng của nó” [Bùi Xuân Đính, 2009, tr. 598]. Nếu so sánh về số lượng [qua thông tin từ chính sử đã nêu ở trên] thì rõ ràng kì thi Tam giáo được tổ chức ít hơn so với các kì thi Nho giáo. Như vậy, mặc dù coi trọng đạo Phật, cho phép Đạo giáo tồn tại trong xã hội song nhà Lý vẫn lựa chọn Nho giáo làm bệ đỡ tư tưởng cho sự nghiệp cai trị của mình; mong muốn tạo nên những rường cột vững chắc để duy trì ổn định xã hội và phát triển đất nước. Đó là sự lựa chọn hoàn toàn mang tính chủ động của vương triều Lý: tiếp nhận văn hoá Hán để xây dựng và phát triển quốc gia.

     Nhìn chung, nếu so sánh về mọi phương diện, thì nền giáo dục và khoa cử Nho học ở thời Lý không thể ngang bằng các triều Trần, Lê, Nguyễn sau này. Có thể thấy rằng, nhà Lý đã thể hiện sự quan tâm, chú trọng đến Nho học, bộ phận Nho sĩ đỗ đạt bắt đầu tham gia vào trong thiết chế Nhà nước. Nhưng trong thời kì trị vì của vương triều Lý, khoa cử mới bắt đầu, chưa trở thành chế độ thường xuyên, số lượng nho sĩ chưa nhiều và khoa cử cũng chưa chiếm vị trí áp đảo trong phương thức tuyển dụng quan lại của thời Lý [7 kì thi trong 216 năm tồn tại của vương triều, tính trung bình khoảng 30 năm mới có 1 kì thi]. Do vậy mà vai trò của bộ phận Nho sĩ trong triều đình và ở chính quyền địa phương các cấp chắc chắn cũng còn hạn chế.

3. Kết luận

     Có thể thấy rằng, ngay sau khi hoàn thành cơ bản công cuộc định đô ở Thăng Long, ổn định tình hình đất nước, các vua Lý đã triển khai nhiều biện pháp để xây dựng, củng cố quyền lực nhà nước quân chủ trung ương. Trong điều kiện đất nước độc lập, tự chủ, các vua đầu triều Lý từ Lý Thái Tổ đến Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông đều có những việc làm tích cực, góp phần vào sự lớn mạnh của quốc gia Đại Việt, nâng cao lòng tự tôn dân tộc. Quyết định cho xây dựng Văn miếu, Quốc Tử Giám, tổ chức các kì thi Nho học là những đóng góp có giá trị của vương triều Lý cho sự phát triển về lâu dài của đất nước. Sự hiện diện của hai công trình Văn miếu, Quốc Tử Giám ở kinh đô Thăng Long vào những thập niên 80 của thế kỉ XI đã đánh dấu mốc khởi đầu cho nền giáo dục Nho học ở Việt Nam. Hơn thế, đây còn là minh chứng rõ rệt về sự nhạy bén, chủ động của vương triều Lý trong tiếp nhận Nho học và giáo dục khoa cử Nho học, tầm nhìn xa, rộng của các vua Lý về chiến lược xây dựng Đại Việt thành quốc gia cường thịnh, văn hiến. Cùng với việc dạy, học theo sách của Nho gia, những kì thi Nho học đã được nhà nước tổ chức, tuy chưa đều đặn theo định kì và số lượng còn ít so với thời gian tồn tại 216 năm của vương triều. Mặc dù vậy, qua các kì thi, vương triều Lý đã bước đầu chọn lựa và gây dựng được một đội ngũ tri thức, có năng lực và phẩm chất theo chuẩn mực Nho giáo. Những cái tên như Lê Văn Thịnh, Mạc Hiển Tích, Bùi Quốc Khái, Đặng Nghiêm… không chỉ ghi dấu ấn trong những hoạt động chính trị, mà còn trở thành gương mặt văn hoá tiêu biểu, đại diện cho sự phát triển của giáo dục Nho học thời kì vương triều Lý.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

     Phạm Đức Anh. [2010]. Chính trị và pháp luật triều Lý trong bối cảnh Đại Việt thời kì đầu tự chủ. Kỉ yếu Hội thảo 1000 năm vương triều Lý với kinh đô Thăng Long, 326. Hà Nội: NXB Thế giới.

     Phạm Đức Anh. [2015]. Mô hình tổ chức Nhà nước ở Việt Nam thế kỉ X-XIX, 40. Hà Nội: NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

     Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Thanh Hoá. [2018]. Danh xưng Thanh Hoá, 117, 118. Thanh Hoá: NXB Thanh Hoá.

     Phan Huy Chú. [2006]. Lịch triều hiến chương loại chí, tập 2, 6, 7, 60. Hà Nội: NXB Giáo dục.

     Phan Đại Doãn. [Chủ biên] [1999]. Một số vấn đề về Nho giáo Việt Nam [tái bản], 10. Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia.

     Bùi Xuân Đính. [2009]. Tầm nhìn của nhà Lý trong việc đặt nền móng cho nền giáo dục và khoa cử Nho học. Kỉ yếu Hội thảo 1000 năm vương triều Lý với kinh đô Thăng Long, 598. Hà Nội: NXB Thế giới.

     Nguyễn Hải Kế. [2010]. Giáo dục Thăng Long – Hà Nội. Quá trình, kinh nghiệm lịch sử và định hướng phát triển, 27. Hà Nội: NXB Hà Nội.

     Nguyễn Lang. [1993]. Việt Nam Phật giáo sử luận, 184, 191, 193. San Jose – CA USA:
NXB Lá Bối.

     Phan Huy Lê. [2006]. Lịch sử Việt Nam, tập 1 [bộ 4 tập], 590. Hà Nội: NXB Giáo dục.

     Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê. [2009]. Đại Việt sử kí toàn thư, tập 1 [bộ 3 tập], 211, 255, 298, 306, 314, 330, 348, 351, 356, 406, 411, 418, 420, 421. Hà Nội: NXB Khoa
học Xã hội.

     Trịnh Mạnh. [2008]. Gương hiếu học thời xưa, tập 1, 48, 49. Hà Nội: NXB Giáo dục.
Quốc sử quán triều Nguyễn. [1998]. Khâm định Việt sử thông giám cương mục, tập 1, 220, 409, 415. Hà Nội: NXB Giáo dục.

     Trương Hữu Quýnh. [1984]. Thử dựng lên một hình ảnh về chế độ ruộng đất nước ta hồi thế kỉ X. Thế kỉ X – Những vấn đề lịch sử, 54, 55. Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội.

     Tây Hồ chí [1962], Bản dịch, 23, 80, Sài Gòn: Bộ Quốc gia Giáo dục Sài Gòn.

     Đỗ Hương Thảo. [2009]. Quốc Tử Giám thời Lý – Tiền đề cho sự phát triển của giáo dục quốc gia [qua khảo sát vùng Thăng Long – Hà Nội]. Kỉ yếu Hội thảo 1000 năm Vương triều Lý với kinh đô Thăng Long, 603. Hà Nội: NXB Thế giới.

     Đinh Khắc Thuân. [2010]. Văn bia từ chỉ Bằng Liệt và vị khai khoa Thăng Long Bùi Quốc Khái. Thông báo Hán nôm học, 369. Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội.

     Nguyễn Khắc Thuần. [1998]. Đại cương lịch sử văn hoá Việt Nam, 53, 54. Hà Nội: NXB Giáo dục.

     Việt sử lược. [2005]. 83. Hà Nội: NXB Thuận Hoá, Trung tâm Văn hoá ngôn ngữ Đông Tây.

     Trần Thị Vinh. [2009]. Thể chế chính trị Việt Nam thế kỉ XI – XIII dưới triều Lý. Kỉ yếu Hội thảo 1000 năm Vương triều Lý với kinh đô Thăng Long, 295. Hà Nội: NXB Thế giới.

Nguồn: Tạp chí Khoa học Đại học Sài Gòn, No. 70 [04/2020]

Thánh Địa Việt Nam Học
[//thanhdiavietnamhoc.com]

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề