Cảm nhận nhân vật Mị lúc ấy đã khuya

Tô Hoài là một nhà văn lớn, đóng góp nhiều thành tự cho văn học Việt Nam. Nếu như trước năm 1945, ông đánh dấu sự thành công với tập truyện “Dế Mèn phiêu lưu kí” thì sau năm 1945, tập "Truyện Tây Bắc" đã đưa tên tuổi của ông lên một tầm cao mới. Tình cảm thiết tha, gắn bó, sâu sắc của Tô Hoài dành cho đất và con người Tây Bắc đã giúp ông viết nên những trang văn thấm đẫm tình yêu thương như thế. Truyện “Vợ chồng A Phủ” được trích trong tập Tây Bắc là câu chuyện tiêu biểu và mang nhiều giá trị tư tưởng lớn. Trong truyện, tác giả gửi gắm trọn vẹn nhất những tình cảm của mình vào nhân vật Mị, một cô gái đại diện cho vẻ đẹp và phẩm chất con người Tây Bắc.

Mị vốn là một người con gái tuổi đôi mươi của núi rừng Tây Bắc xinh đẹp và có tài thổi lá kèn hay như thổi sáo, được nhiều thanh niên trong làng mến mộ. Sức hấp dẫn của Mị tựa như những bông hoa rừng Tây Bắc đầy mê hoặc. Vào những đêm tình mùa xuân, trai bản đến đứng nhẵn cả vách đầu buồng Mị. Không chỉ xinh đẹp, ở nàng còn hội tụ những phẩm chất đẹp đẽ, đó là người con gái hiếu thảo với cha mẹ lại chăm chỉ trong công việc. Cuốc nương, làm rẫy Mị đều thuần thục.

Một cô gái tài sắc vẹn toàn như Mị xứng đáng được yêu thương, được hạnh phúc, nhưng Mị lại gặp phải hoàn cảnh trớ trêu. Bọn phong kiến tàn bạo đã khiến gia đình Mị lâm vào cảnh nợ nần chồng chất, gánh nặng phải trả nợ đè nặng lên đôi vai cô gái bé nhỏ. Song, chưa bao giờ Mị muốn phải bán mình để trả nợ, nàng cầu xin bố đừng bán cho nhà giàu, cô sẽ chăm chỉ làm nương, cuốc rẫy giúp bố trả nợ. Nhưng xã hội cường quyền lại không cho phép Mị sống cuộc đời tự do ấy. Cuộc đời Mị phải chịu sự quyết định của kẻ khác, cuối cùng cô phải bán mình, bước chân vào nhà tên thống lí Pá Tra tàn ác chịu phận nô lệ trên danh nghĩa làm dâu xoá nợ. Một cô gái sẵn sàng hi sinh bản thân để cứu lấy cha mẹ, cứu lấy gia đình chứng tỏ Mị là cô gái hết mực hiếu thảo, yêu thương cha mẹ mình. Mị khát khao tự do, ý thức được nhân phẩm và giá trị bản thân nhưng cường quyền của chế độ phong kiến thối nát đã trói buộc cuộc đời cô.

Về làm dâu nhà Pá Tra, Mị phải âm thầm chịu đựng bao nỗi bất công, thời gian đầu, đêm nào Mị cũng khóc thương cho số phận, cho cảnh hẩm hiu của đời mình, nàng đã bỏ hết tất thảy để tìm đến cái chết bằng nắm lá ngón để giải thoát những uất ức, khổ đau kìm nén bấy lâu. Nhưng khi nghĩ về cha, thương cha nàng lại không đành lòng, đành phó mặc cuộc sống, chấp nhận cuộc đời cơ cực với kiếp nô lệ đau thương của mình. Trong nhà tên A Sử, Mị chịu bao nỗi đau thể xác và tinh thần, Mị khổ cực hơn cả trâu cả ngựa, công việc làm triền miên ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác chẳng nghỉ ngơi. Mị như một cái máy gắn bó với công việc từ hái thuốc phiện, giặt đay, xe đay đến đi bẻ ngô, gánh nước, kiếm củi,…, không việc nào là không tới tay Mị. Thể xác bị bóc lột, tinh thần Mị cũng không sướng là bao, nàng suốt ngày “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”, tinh thần bị tê liệt đến đau khổ, Mị ngày càng ít nói, câm lặng hơn, chẳng còn nhận thức về thời gian và cuộc sống ngoài kia. “Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ bằng một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”. Dường như tuổi xuân của nàng bị khoá chặt trong ngôi nhà đó. Nàng ngày càng trở nên vô cảm.

Song, ẩn sâu trong con người Mị là một sức sống tiềm tàng không gì có thể ngăn nổi. Khi mùa xuân đến, không khí vui xuân ngày hội nơi bản làng Tây Bắc thật đẹp, thật tươi, khiến Mị bồi hồi nhớ lại những quá khứ tươi đẹp ngày xưa. Rượu và tiếng sáo rủ bạn tình khiến tâm hồn tươi trẻ của Mị như có dịp trỗi dậy, lòng Mị rạo rực sức sống mùa xuân "lòng Mị đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước". Từ niềm rạo rực, phấn chấn ấy đã thôi thúc Mị hành động dứt khoát và quyết liệt vô cùng. Cô lấy ống mỡ bỏ thêm vào đĩa dầu để thắp đèn, thắp lên thứ ánh sáng xua tan đi bóng tối rợn ngợp bao trùm, xua tan màn đêm bấy lâu vây quanh cuộc đời Mị, nhen nhóm ngọn lửa hy vọng cho cuộc đời chính mình. Rồi Mị "quấn tóc lại với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách", Mị muốn được là mình, được là một cô gái đẹp đẽ như bao người con gái khác trong đêm mùa xuân ấy. 

Trong lúc sức trẻ đang trỗi dậy, lòng yêu đời đang sung sức với Mị thì thực tại phũ phàng đã nhẫn tâm vùi dập niềm yêu ấy. A Sử khi biết lòng Mị muốn đi chơi, hắn đã chặn đứng ngay ý định đó. Hắn trói vợ vào cột nhà bằng một thúng sợi đay, quấn lấy mái tóc dài của Mị lên cột khiến cô đau đớn không thể cử động được. Nhưng thể xác dù bị trói buộc, bị hành hạ vẫn không thể trói lấy tâm hồn đang thiết tha cuộc sống của nàng, khát vọng sống vẫn âm ỉ cháy trong con người Mị. Hành động mãnh liệt nhất của cô là cắt dây trói cho A Phủ. Trong cơn đau đớn, Mị xót xa cho phận mình, thương cảm cho phận người, đó là sự đồng cảm với những kiếp người cùng chung số phận. Chính giọt nước mắt của A Phủ đã thức tỉnh Mị, hồi sinh trái tim đầy những vết sẹo đau thương. Mị quyết định cùng A Phủ chạy trốn. Giải thoát cuộc đời mình khỏi những sức mạnh tàn bạo của cường quyền, của bọn thống lí thiếu tình người, đồng thời chấm dứt cuộc đời nô lệ tăm tối, thương đau của chính mình. 

Bằng nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, khắc hoạ tính cách nhân vật qua suy nghĩ và hành động cùng lời văn nhẹ nhàng mà tinh tế, Tô Hoài đã xây dựng nên một hình tượng nhân vật Mị thật tiêu biểu và đặc sắc. Qua nhân vật, tác giả lên tiếng tố cáo chế độ áp bức tàn bạo, hà khắc của tầng lớp thống trị trong xã hội xưa và nói lên tiếng nói thương cảm trước những kiếp người chịu nhiều áp bức, bất công.
 

Giải chi tiết:

A. Giới thiệu tác giả, tác phẩm

- Vị trí: Là nhà văn lớn, có số lượng tác phẩm đạt kỉ lục trong văn học hiện đại VN [gần 200 đầu sách thuộc nhiều thể loại, tiêu biểu là văn xuôi hiện thực]

- Phong cách nghệ thuật:

+ Thiên về diễn tả những sự thật của đời thường

+ Vốn hiểu biết phong phú, sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng

+ Lối trần thuật hóm hỉnh sinh động với vốn từ vựng giàu có

-> Được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 1996.

Quê quán: huyện Thanh Oai- nay thuộc thành phố Hà Nội

-> sinh ra và lớn lên ở quê ngoại nay là quận Cầu Giấy- Hà Nội

Tác phẩm Vợ chồng A Phủ

* Xuất xứ: in trong tập “Truyện Tây Bắc” [1954], được tặng giải Nhất- Giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam 1954-1955

* Hoàn cảnh sáng tác: 1952- tác phẩm là kết quả của chuyến đi cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc năm 1952. Đây là chuyến đi thực tế dài tám tháng sống với đồng bào các dân tộc thiểu số từ khu du kích trên núi cao đến những bản làng mới giải phóng của nhà văn.

B. Phân tích đoạn văn bản

II. Cảm nhận về nhân vật Mị trong đoạn trích

1] Tóm tắt phần đầu của truyện + giới thiệu tình huống để dẫn đến đoạn văn bản

- Sinh ra và lớn lên ở vùng núi cao Hồng Ngài dưới chế độ phong kiến miền núi, Mị là cô gái có nhan sắc rực rỡ, có tài năng thổi sáo và có một tâm hồn đẹp: hiếu thảo, yêu tự do, tự tin vào khả năng lao động của bản thân…

- Vì món nợ truyền kiếp của cha mẹ và vì hủ tục cướp vợ mà Mị đã bị lừa bắt về làm con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra. Suốt mấy tháng trời đêm nào cũng khóc mà không nguôi ngoai được nỗi khổ đau, Mị hái lá ngón định tự tử, nhưng vì thương cha mà không đành

- Những đày đọa về thể xác ở chốn địa ngục trần gian đã khiến Mị tê liệt về tinh thần, “mỗi ngày Mị càng không nói”, và “cũng không nghĩ ngợi nữa”. Mị giống như con rùa lùi lũi nuôi trong xó cửa, kiếp người bị biến thành kiếp vật tăm tối nặng nề.

- Trong đêm tình mùa xuân, ý thức đã hồi sinh, tạo nên một sức sống mãnh liệt ở Mị. Nhưng ý muốn đi chơi của Mị đã bị A Sử vùi dập phũ phàng, A Sử trói đứng Mị vào góc nhà một cách tàn nhẫn, và rất có thể sẽ bị bỏ quên đến chết nếu không có chuyện A Sử bị thương và Mị được cởi trói để đi hái lá thuốc cho chồng…

2] Cảm nhận về nhân vật Mị trong đoạn trích

a] Sự tê liệt:

Sự hồi sinh bị vùi dập phũ phàng trong đêm tình mùa xuân năm trước đã khiến Mị lại rơi vào trạng thái chết tinh thần, thậm chí còn nặng nề và đau đớn hơn trước:

+ “Những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn… “Mỗi đêm, Mị đã dậy thổi lửa hơ tay hơ lưng không biết bao nhiêu lần”, Mị chìm vào trạng thái vô tri, vô cảm “chỉ biết, chỉ còn ở với ngọn lửa”. Cô chỉ quan tâm đến ngọn lửa, để xua đi cái lạnh lẽo cô đơn của đời mình. Có đêm A Sử chợt về, thấy Mị ngồi đấy, đã đánh Mị ngã ngay xuống cửa bếp, “nhưng đêm sau Mị vẫn ra sưởi như đêm trước” bởi “nếu không có bếp lửa sưởi kia thì Mị cũng đến chết héo”.

+ A Phủ vốn là người ở gạt nợ nhà thống lí Pá Tra, được giao việc “đốt rừng, cày nương, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một thân một mình bôn ba rong ruổi ở ngoài gò ngoài rừng”. Khi đó, đang đói rừng, hổ gấu từng đàn ra phá nương, bắt bò ngựa. A Phủ trong lúc trông bò ngựa vì mải mê bẫy nhím đã để hổ bắt mất một con bò. Anh bị thống lí Pá Tra bắt trói đứng vào một cây cột trong góc nhà, chờ khi nào bắn được hổ mới tha, nhưng dấu vết hổ không tìm thấy, A Phủ có thể sẽ bị trói đến chết… Trong những ngày A Phủ bị trói, mỗi đêm ra bếp sưởi, phù phù thổi lửa, A Phủ lại mở mắt nhìn, Mị thấy “mắt A Phủ trừng trừng” mới biết là anh ta còn sống. Nhưng Mị hoàn toàn dửng dưng, vẫn “thản nhiên thổi lửa, hơ tay”, thậm chí “nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi”. Một phần vì cái cảnh trói người đến chết ở nhà thống lí vẫn thường xảy ra. Một phần vì sự tê dại của tâm hồn Mị đã lên đến đỉnh điểm.

b] Sự thức tỉnh

* Nguyên nhân

  Đêm nay, cũng như bao đêm khác, khi trong nhà đã ngủ yên thì Mị trở dậy thổi lửa. Ngọn lửa bập bùng sáng lên, Mị lé mắt trông sang, bắt gặp đôi mắt A Phủ cũng vừa mở. Nhưng hôm nay, Mị chợt thấy “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Một con người vốn can trường là thế, trong đêm tình mùa xuân năm xưa, dù bị đám trai làng xô vào đánh, vẫn quỳ chịu đòn “chỉ im như cái tượng đá”, thế mà lúc này vẫn phải chảy tràn những giọt nước mắt đau đớn, bất lực, uất hận. Dòng nước mắt ấy đã vô tình làm hồi sinh tâm hồn đóng băng của Mị. Nói như nhà văn Nam Cao “nước mắt là miếng kính biến hình vũ trụ”- sức mạnh của nó còn lớn hơn nhiều so với những tác nhân hơi rượu và tiếng sáo của lần hồi sinh năm trước. Nó khiến Mị từ cõi quên đã trở về với cõi nhớ, từ cõi vô thức đã sống lại ý thức.

* Diễn biến tâm trạng

-1 “Dòng nước mắt lấp lánh” của A Phủ đã khơi gợi một trường liên tưởng khiến kí ức đau khổ sống lại “Mị chợt nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được”. Mị thấy A Phủ sao giống mình đến thế!

+ Mị và A Phủ cùng là nạn nhân của gia đình Pá Tra, là những chàng trai cô gái ưu tú của núi rừng Tây Bắc và lần lượt bị biến thành người lao động không công- một là con dâu gạt nợ, một là người ở gạt nợ.

+ Cả hai cùng bị bố con Pá Tra đày đọa về thể xác, cùng bị trói đứng trên cây cột trong góc nhà. Chỉ khác là Mị bị trói bằng dây đay- sợi dây do chính tay Mị tước, còn A Phủ bị trói bằng dây mây- cũng là những sợi dây cho chính tay anh chuẩn bị; Mị chỉ bị trói có một đêm- là đêm tình mùa xuân, còn A Phủ đã trải qua nhiều đêm- những đêm đông buốt lạnh.

+ Cả hai cùng mang nỗi đau đớn về tinh thần, cùng phải chảy tràn những giọt nước mắt tủi khổ bất lực, mà không lau đi được

-> Mị từ chỗ xót xa cho mình, từ nỗi thương thân mà thương cho người trong sự đồng cảnh và đồng cảm…

-2 “Hai hõm má đã xám đen lại” của A Phủ là dấu hiệu của cái chết đang đến rất gần [liên hệ người vợ nhặt]. Thần Chết đã bắt đầu những nét vẽ ghê rợn trên mặt anh, chỉ còn đôi mắt và dòng nước mắt đau đớn bất lực kia là dấu hiệu của sự sống. Mị nhớ đến người đàn bà ngày trước ở nhà này cũng bị bắt trói đến chết. Rồi Mị phán đoán “cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”. Câu văn ngắn mà lặp lại đến 5 lần từ “chết” như một nỗi ám ảnh về cái chết vô cùng đau đớn, tội nghiệp. Và Mị bừng tỉnh “Chúng nó thật độc ác”.

-3 Từ sự liên tưởng tương đồng, những so sánh tương phản giữa bản thân Mị và A Phủ chợt xuất hiện một cách tự nhiên:

+ Về bản thân:

. “Ta là thân đàn bà”- Mị tự nhận thức về sự thua thiệt do ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng nam quyền ăn sâu trong tiềm thức

. Lại đã bị bắt về trình ma- là thân phận con dâu gạt nợ, linh hồn đã bị con ma của gia đình thống lí cai quản nên không có cơ hội giải thoát -> kết cục tất yếu là “chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi”. Nhận thức này lại là sự ăn sâu của tư tưởng thần quyền do giai cấp thống trị gieo rắc

-> Mị đang sống những chuỗi ngày không đáng sống nên cái chết thậm chí còn là sự giải thoát.

+ Còn A Phủ là một chàng trai khỏe mạnh và ưu tú, chỉ là người ở gạt nợ nên vẫn còn cơ hội được tự do

-> cái chết của A Phủ, với Mị, là phi lí và đáng tiếc “Người kia việc gì mà phải chết thế”. Đến đây, tình thương người đã lớn hơn cả nỗi thương thân. Mị cứ mải nghĩ ngợi đến mức “đám than đã vạc hẳn lửa”, Mị cũng không hay biết.

-4 Mị đã tự trải nghiệm qua một tình huống tưởng tượng “có thể một lúc nào, biết đâu A Phủ chẳng trốn được rồi, lúc ấy  bố con Pá Tra sẽ bảo là Mị đã cởi trói cho nó, Mị liền phải trói thay vào đấy, Mị phải chết trên cái cọc ấy”. Đó sẽ là cái chết đến từ từ trong tận cùng đau đớn- chết đau- nỗi đau thể xác trong những vòng dây trói siết lại như dứt từng mảnh thịt, chết đói và chết rét. Nhưng ngay cả khi nghĩ đến kết cục ấy, Mị cũng không thấy sợ…

-5 Tình thương đã đã thôi thúc Mị quyết định hành động táo bạo. Vì đám than đã vạc hẳn lửa nên trong nhà tối bưng, bóng tối trở thành đồng minh hậu thuẫn Mị. Mị “rón rén” bước lại, “rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây”… Khi Mị cắt đi sợi dây trói A Phủ cũng là lúc cô dám dũng cảm cắt đi sợi dây ràng buộc cuộc đời mình với nhà thống lí, cùng lúc chống lại các thế lực cường quyền và thần quyền.

-6 Nhưng khi “gỡ được hết dây trói ở người A Phủ thì Mị cũng hốt hoảng”. Tình thương người đã được giải tỏa, chỉ còn lại nỗi thương thân, nó trở thành nỗi sợ hãi cứ lớn dần lên…  A Phủ vùng chạy đi rồi, Mị đứng lặng trong bóng tối. Chỉ một câu văn ngắn mà đứng độc lập thành một đoạn văn, cho thấy sự dồn chứa trong đó rất lớn. Đó là khoảnh khắc mà trong Mị diễn ra sự đấu tranh gay gắt. Ở lại là chờ đợi cái chết khủng khiếp đang đến rất gần. Còn ra đi là sự liều lĩnh dám đối mặt với cường quyền và thần quyền. Nỗi sợ hãi ở Mị lúc này không phải là hèn yếu, mà trái lại, nó thúc đẩy bản năng tự vệ tích cực, tiếp cho Mị sức mạnh để vùng thoát, chạy theo A Phủ, thay đổi số phận của mình.

-6 Nhưng khi “gỡ được hết dây trói ở người A Phủ thì Mị cũng hốt hoảng”. Tình thương người đã được giải tỏa, chỉ còn lại nỗi thương thân, nó trở thành nỗi sợ hãi cứ lớn dần lên…  A Phủ vùng chạy đi rồi, Mị đứng lặng trong bóng tối. Chỉ một câu văn ngắn mà đứng độc lập thành một đoạn văn, cho thấy sự dồn chứa trong đó rất lớn. Đó là khoảnh khắc mà trong Mị diễn ra sự đấu tranh gay gắt. Ở lại là chờ đợi cái chết khủng khiếp đang đến rất gần. Còn ra đi là sự liều lĩnh dám đối mặt với cường quyền và thần quyền. Nỗi sợ hãi ở Mị lúc này không phải là hèn yếu, mà trái lại, nó thúc đẩy bản năng tự vệ tích cực, tiếp cho Mị sức mạnh để vùng thoát, chạy theo A Phủ, thay đổi số phận của mình.

-8 A Phủ dù ở tình trạng kiệt sức, không biết có đi nổi không, và cũng không biết sẽ đi đâu vì anh được giải cứu một cách bị động, nhưng vẫn đáp lời bằng một câu nói gọn chắc, đầy tự tin và mạnh mẽ “Đi với tôi”, đã truyền thêm sức mạnh và niềm tin cho Mị. “Và hai người lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi” như chấp chới những cánh bay mở đầu, như hối hả những dòng chảy tung phá để người con dâu gạt nợ đi từ thung lũng đau thương ra cánh đồng vui… Một người có sức mạnh thể chất, một người chỉ có sức mạnh tinh thần đã nương tựa vào nhau trong thời khắc đặc biệt nhất của số phận.

-> Sau đây, Mị và A Phủ đã tới Phiềng Sa, nên vợ nên chồng cùng nhau xây dựng tổ ấm hạnh phúc, họ còn tham gia du kích để giải phóng hoàn toàn cuộc đời mình, và quay về giải phóng bản làng quê hương.

3] Tổng hợp đánh giá

a] Nhân vật Mị

  Đoạn trích đã cho thấy số phận khổ đau và đặc biệt là vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật- sự trỗi dậy, hồi sinh của sức sống tiềm tàng. Dù là chỉ là tự phát, thì hành động Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ và cùng chạy trốn cũng có ý nghĩa của sự tháo cũi sổ lồng, vỡ bờ vì quá tức nước. Hành động đó còn có ý nghĩa thức tỉnh những thân phận khổ đau trong xã hội cũ

   Mị có điểm tương đồng với Chí Phèo của NC, trong hoàn cảnh bị vùi dập cả về thể xác lẫn tinh thần, vẫn không đánh mất đi hoàn toàn bản chất người tốt đẹp. Khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc vẫn tiềm ẩn trong sâu thẳm tâm hồn nhân vật, như ngọn lửa âm ỉ cháy dưới lớp tro tàn nguội lạnh, chỉ cần một trận gió là nó có thể bùng cháy mãnh liệt. Những tác động của ngoại cảnh là không nhỏ, nhưng cái sức mạnh bên trong con người mới là yếu tố quyết định sức sống của Mị

b] Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật đặc sắc

- Nhà văn ít tả hành động mà chủ yếu khắc họa tâm tư, nhiều khi mới chỉ là các ý nghĩ chập chờn trong tiềm thức nhân vật. Thế giới nội tâm ấy được Tô Hoài khám phá, miêu tả một cách tự nhiên, sinh động rất hợp với qui luật tâm lý, quy luật đời sống tình cảm của con người. 

- Giọng kể của nhà văn có lúc hòa vào dòng tâm tư nhân vật, vẽ lên đủ loại cung bậc tình cảm của nhân vật. Có thể thấy Tô Hoài miêu tả và khám phá đời sống nội tâm của nhân vật không chỉ bằng cảm quan nghệ sĩ mà còn bằng cả tấm lòng mình.

III. Tấm lòng nhân đạo của nhà văn gửi gắm qua nhân vật

- Nhà văn đã thể hiện lòng yêu thương, sự đồng cảm sâu sắc với thân phận đau khổ của người lao động nghèo miền núi và thái độ căm phẫn mãnh liệt trước các thế lực tàn bạo, chà đạp lên quyền sống của con người

- Tác giả cũng khẳng định niềm tin vào vẻ đẹp tâm hồn, sức sống mãnh liệt và khát vọng hạnh phúc cháy bỏng của con người. Dù trong hoàn cảnh khắc nghiệt đến đâu, con người cũng không mất đi khát vọng tự do và sống hạnh phúc

- TH đã chỉ ra con đường giải phóng thực sự của người lao động đi từ tự phát [vỡ bờ vì quá tức nước, tự cứu mình khi bị đẩy đến bờ vực của cái chết] sang tự giác [đến với cách mạng], từ tăm tối đau thương vươn ra ánh sáng. Khám phá ra con đường ấy bởi Tô Hoài đã thấy được khát vọng đấu tranh với định mệnh, số phận khiến những người dân nghèo từ “cam chịu” trở thành “thức tỉnh”, từ “tồn tại” họ đã “sống” với phẩm chất tốt đẹp và khát vọng mãnh liệt nhất.

Video liên quan

Chủ Đề