Cách phát hiện học sinh có năng khiếu

Trên cơ sở bé có năng khiếu thiên bẩm về mặt nào đó, nếu được phát hiện sớm và được bồi dưỡng đúng cách thì năng khiếu bẩm sinh ở bé sẽ phát triển rất nhanh.

Cần phải thừa nhận rằng, tài năng về mặt âm nhạc, mỹ thuật, múa, thể thao, văn học… đều ít nhiều chịu ảnh hưởng của yếu tố bẩm sinh. Trên cơ sở bé có năng khiếu thiên bẩm về mặt nào đó, nếu được phát hiện sớm và được bồi dưỡng đúng cách thì năng khiếu bẩm sinh ở bé sẽ phát triển rất nhanh

Có nhiều đứa trẻ ngay từ nhỏ đã có những dấu hiệu tài năng ở một số lĩnh vực nhưng do cha mẹ không để ý thấy, hoặc có thấy, nhưng không chú ý bồi dưỡng, nên bé phát huy tiềm năng của mình.

Cách phát hiện sớm năng khiếu bẩm sinh ở bé?

Muốn phát hiện sớm năng khiếu bẩm sinh ở bé, các bậc cha mẹ, nhất là cha mẹ trẻ, phải luôn luôn để ý, quan sát kỹ lưỡng những cử chỉ hành động ngay từ khi trẻ mới lọt lòng, để có sự phán đoán chính xác.

Sau đây là một số dấu hiệu chứng tỏ trẻ có năng khiếu ở lĩnh vực nào đó. Ba mẹ chú ý xe, con mình có dấu hiệu nào trong đây không nhé.

Trẻ có năng khiếu âm nhạc: chỉ sau một tháng tuổi đã rất thích thú với các loại âm thanh của các nhạc khí. Khi tiếng nhạc cất lên lập tức thôi quấy khóc, ngón tay tương đối dài, đặc biệt là ngón tay trỏ và út. Sau 3 tháng, trẻ biết phát âm 5 nguyên âm: a, i, u, e, ô; trên dưới 1 tuổi có thể tập trung tinh thần nghe ca khúc và có thể phản ứng với những ca khúc vui, buồn…

Trẻ có năng khiếu thể thao, múa: thường hoạt bát, phản ứng nhanh nhạy, hiếu động, sớm biết lẫy, biết đứng, biết đi, cơ thể khoẻ mạnh, dẻo dai, linh hoạt hơn so với trẻ khác cùng lứa tuổi.

Đặc biệt, trẻ có năng khiếu về múa thường có cổ, đùi, cánh tay tương đối dài, hay bắt chước những động tác có tiết tấu.

Trẻ có năng khiếu bẩm sinh về hội hoạ: rất sớm hứng thú với mầu sắc và tranh ảnh; thường có thể chú ý rất lâu đến những đồ chơi có màu sắc khác nhau; có sức quan sát và bắt chước tương đối nhanh.

Riêng năng khiếu bẩm sinh về văn học và toán học thì phải đợi trẻ biết đi, biết Nói mới biểu hiện. Chẳng hạn, trẻ có năng khiếu về văn học rất thích nghe hát ru ngủ, sớm biết lạ, biết theo; sớm biết nói, phát âm chính xác, tương đối đúng ngữ pháp, trí nhớ tốt hơn hẳn trẻ cùng lứa tuổi.

Ví dụ, ở lớp mẫu giáo hoặc ở gia đình nghe cô giáo hoặc cha mẹ kể chuyện tương đối dài, sau đó có thể kể lại tương đối rành mạch, diễn cảm một cách thích thú, say sưa.

Khi chưa biết chữ, đã biết làm thơ đơn giản hoặc học truyền khẩu có thể thuộc hàng chục bài thơ, hay mấy trăm câu thơ lục bát trong truyện kiều

Về tài năng toán học bẩm sinh ở trẻ, chủ yếu biểu hiện: Khi mới tập nói đã có thể đếm tới hàng trăm không nhầm lẫn, ở tuổi mẫu giáo, chưa biết chữ, có thể tính nhẩm, cộng trừ nhân chia số nguyên tới hàng trăm, trên dưới một tuổi đã biết phân biệt sơ đẳng lớn nhỏ, dài ngắn, nhiều ít [có thể cả vài loại màu sắc tương phản rõ rệt như xanh đỏ, đen trắng] đối với đồ chơi hoặc vật thể khác. Đặc biệt, có trẻ chưa biết chữ đã biết chơi cờ vua, chơi ô ăn quan, giải câu đố…

Tóm lại, năng khiếu bẩm sinh ở trẻ là một thứ của cải vô cùng quý báu, cần được các bậc cha mẹ phát hiện sớm một cách chính xác và ra sức bồi dưỡng, vun đắp để những tố chất đó phát triển thành những viên ngọc quý.

Một số nghiên cứu khoa học cho rằng, cười là một dấu hiệu quan trọng để đánh giá trí tuệ và sự phát triển tình cảm của trẻ. Trẻ hay cười rất có thể là trẻ thông minh. Tháng tuổi phát ra nụ cười của trẻ thông minh sớm hơn so với trẻ bình thường và số lần cười cũng nhiều hơn.

Trẻ thông minh có những đặc điểm:

  • Một là, phát triển ngôn ngữ tương đối sớm và tận dụng từ ngữ tạp không tương xứng với tháng tuổi của nó. Khi trẻ bình thường mới có thể chỉ con chó và nói: “chó” thì đứa trẻ thông minh đã có thể nói: “chó chạy rồi!”
  • Hai là, trí nhớ tốt, có thể nhớ rất nhanh đồ vật và sự vật đã tiếp xúc, âm nhạc đã nghe, tranh vẽ đã xem, chữ đã biết đều lướt qua là nhớ, ấn tượng rất sâu.
  • Ba là, rất ham hiểu biết, có lòng hiếu kỳ [trí tò mò] rất mãnh liệt và lòng ham hiểu biết rất phát triển, hứng thú rộng rãi. Rất nhạy cảm với sự vật xảy ra ở xung quanh, giỏi quan sát, có sức chú ý tập trung, thường thường tập trung tinh thần chăm chú nhìn một sự vật nào đó, đi sâu nghiên cứu đặc điểm của nó.
  • Bốn là, có thể vượt trước trong việc lý giải mối quan hệ giữa các sự vật, có sức phán đoán, sức phân biệt và năng lực khái quát sự vật tương đối mạnh.
  • Năm là, đối với sắc thái, hình dạng, khung cảnh, tiết tấu, giai điệu biểu hiện hứng thú cực lớn và năng lực vượt trước.

Điều đáng chú ý là, trí tuệ con người không phải chỉ hoàn toàn do di truyền của cha mẹ, mà còn quyết định bởi sự giáo dục được tiếp nhận từ buổi ấu thơ. Trẻ thông minh, có năng khiếu về một lĩnh vực nào đó, nhưng nếu năng khiếu của trẻ không được phát hiện và bồi đắp, rèn luyện thì trẻ cũng không thể nào phát huy tối đa tiềm năng của mình được. Nếu trẻ không có năng khiếu nhưng chăm rèn luyện, cũng như nhận được chế độ dinh dưỡng và giáo dục một cách khoa học, thì chắc hẳn trẻ sẽ phát triển tốt ở lĩnh vực đó.

Muốn trẻ thông minh hơn, cha mẹ nên chú ý làm tốt mấy việc sau đây:

  • Chú ý chất dinh dưỡng trong nuôi trẻ nên tận dụng nguồn sữa mẹ. Thời kỳ trẻ thơ là giai đoạn đại não sinh trưởng và phát dục nhanh chóng nhất, nếu thành phần dinh dưỡng không đủ hoặc do nguyên nhân bệnh tật gây nên dinh dưỡng không tốt thì sẽ ảnh hưởng đến đại não phát dục, trở ngại trí tuệ phát triển
  • Chú ý bồi dưỡng và rèn luyện năng lực tư duy cho trẻ, từng bước huấn luyện và nâng cao năng lực quan sát, năng lực lý giải cho trẻ.
  • Bồi dưỡng và bảo vệ lòng hiếu kỳ của trẻ, chú ý khai thác hứng thú về phương diện của trẻ, kích thích tính ham hiểu biết, nhiệt tình học tập của trẻ.
  • Thường xuyên đưa trẻ đi chơi khiến cho chúng được mở rộng tầm mắt, tăng cường kiến thức. Khuyến khích trẻ mở rộng giao lưu với các bạn, phát triển nhu cầu xã hội của trẻ.
  • Chú ý bồi dưỡng thói quen sinh hoạt và những hành vi cư xử đúng đắn.

Trong công tác giáo dục, với cùng một lứa tuổi có những trẻ có khả năng vượt trội các trẻ khác như thông minh hơn, lanh lợi hơn, tư duy phát triển hơn mà ta gọi đó là học sinh năng khiếu. Vậy làm thế nào để phát hiện ra học sinh năng khiếu để từ đó người giáo viên giảng dạy có những phương pháp phù hợp trong giảng dạy bồi dưỡng để kích thích năng khiếu bẩm sinh của trẻ phát triển một cách tốt nhất? Đó là một trong những định hướng của giáo dục cần được coi trọng. Vấn đề này nếu các cơ sở giáo dục quan tâm và đầu tư thoả đáng thì chắc chắn rằng chất lượng giáo dục sẽ được nâng lên.

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Phát Hiện Và Bồi Dưỡng Học Sinh Năng Khiếu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút TẢI VỀ ở trên

Nâng cao chất lượng dạy họcHội thảoChuyên đề:Phát hiện và bồi dưỡng học sinh năng khiếuNgười thực hiện:Trường PTDT Nội TrúGiáo viênG DLê Xuân CườngHuyện Na HangTỉnh Tuyên QuangNâng cao chất lượng dạy họcHội thảoChuyên đề:Phát hiện và bồi dưỡng học sinh năng khiếuNgười thực hiện:Trường PTDT Nội TrúGiáo viênG DLê Xuân CườngHuyện Na HangTỉnh Tuyên QuangLời nói đầu: Trong công tác giáo dục, với cùng một lứa tuổi có những trẻ có khả năng vượt trội các trẻ khác như thông minh hơn, lanh lợi hơn, tư duy phát triển hơn mà ta gọi đó là học sinh năng khiếu. Vậy làm thế nào để phát hiện ra học sinh năng khiếu để từ đó người giáo viên giảng dạy có những phương pháp phù hợp trong giảng dạy bồi dưỡng để kích thích năng khiếu bẩm sinh của trẻ phát triển một cách tốt nhất? Đó là một trong những định hướng của giáo dục cần được coi trọng. Vấn đề này nếu các cơ sở giáo dục quan tâm và đầu tư thoả đáng thì chắc chắn rằng chất lượng giáo dục sẽ được nâng lên.1. Thế nào là học sinh năng khiếu? Một số biểu hiện của học sinh năng khiếu về các mặt nhận thức, tình cảm và năng lực sáng tạo:- Tò mò ham hiểu biết- Tự giác học tập, ham thích học toán và giải bài tập toán- Có trí nhớ tốt kể cả trí nhớ lôgic và trí nhớ máy móc.- Hiểu bài nhanh, tương đối đầy đủ và chắc chắn, có thể vận dụng ngay để giải bài tập.- Đứng trước một bài toán nhanh chóng nhận thức được vấn đề và xác định được kế hoạch hợp lý để đi tới lời giải. Biết liên hệ bài toán mới và các kiến thức có trước.- Biết đánh giá đúng lời giải đã tìm ra.- Linh lợi, hoạt bát.- Biết học hỏi từ những sai lầm của chính mình.- Biết hợp tác học hỏi lẫn nhau.- Có thể đặt các câu hỏi thông minh, có óc sáng tạo, có sáng kiến.- Chấp nhận sự thách thức của những ý tưởng mới.- Trong hoạt động giải toán có xu hướng tìm tòi những lời giải gọn hơn, hay hơn, khái quát hơn./.2. Bồi dưỡng học sinh năng khiếu như thế nào? Công tác bồi dưỡng học sinh năng khiếu trong các trường phải được tiến hành thường xuyên, liên tục và có hệ thống. Thầy và trò phải được chuẩn bị kỹ càng, chu đáo trước khi học tập, bồi dưỡng thì công tác bồi dưỡng mới đạt hiệu quả cao. Thứ nhất, thầy phải giỏi. Muốn có trò giỏi thì thầy phải giỏi. Một thầy giáo giỏi là người phải: + Vững về kiến thức + Có kĩ năng sư phạm tốt + Luôn có nhiều sáng tạo trong hoạt động sư phạm + Tâm huyết với nghề nghiệp. Thứ hai, học sinh phải có ý thức ham muốn học tập nghiên cứu tìm hiểu những kiến thức mới. - Trước hết người thầy phải biết xuất phát điểm [về kiến thức] của từng em để có biện pháp giảng dạy phù hợp. - Trong giảng dạy luôn tạo không khí thoải mái để các em tự phát biểu và đưa ra chính kiến của mình. - Phương tiện dạy học là một trong những yếu tố tích cực, lôi cuốn và thu hút học sinh tham gia bài giảng một cách tích cực và tự giác. - Một sân chơi cho các em để các em “học mà chơi, chơi mà học” là cần thiết. Chính vì vậy nên thành lập các câu lạc bộ các bộ môn. Một số biện pháp sư phạm trong công tác dạy và bồi dưỡng học sinh năng khiếu:+ Tập cho học sinh thói quen dự đoán, mò mẫm, phân tích, tổng hợp + Tập cho học sinh biết giải quyết vấn đề bằng nhiều phương pháp khác nhau và lựa chọn cách giải quyết tối ưu. + Tập cho học sinh biết vận dụng các thao tác: Khái quát hoá, đặc biệt hoá, tương tự. + Tập cho học sinh biết hệ thống hoá kiến thức. + Tập cho học sinh biết vận dụng kiến thức toán học vào thực tiễn. + Quan tâm đến những sai lầm của học sinh, tìm nguyên nhân và cách khắc phục. + Chú trọng câu hỏi gợi ý học sinh phát hiện và giải quyết vấn đề.  Đứng trước một bài toán, học sinh đọc hiểu nội dung yêu cầu của bài, từ đó nắm được đặc điểm của dạng toán và phân tích mối quan hệ giữa các đại lượng trong bài. Học sinh có thể chưa biết thuật giải, nhưng có thể đưa ra các dự đoán giải bài toán dựa vào các kiến thức hay thuật giải của các bài toán đã biết. Ví dụ: Cho A = 1 + 21 + 22 + 23 + 24 + 25 + .......+ 22006+ 22007 B = 22008So sánh A và BVí dụ: Cho A = 1 + 21 + 22 + 23 + 24 + 25 + .......+ 22006+ 22007 B = 22008So sánh A và BGiảiTa có: A = 1 + 21 + 22 + 23 + 24 + ..........+ 22006 + 22007 => 2A = 21 + 22 + 23 + 24 + 25 + ..........+ 22007 + 22008 => 2A - A = 22008 - 1 => A = 22008 - 1 hay A = B - 1Vậy: B > A  Với sự phân tích, dự đoán các phương pháp giải và những nhận định sơ bộ về bài toán, giáo viên khuyến khích học sinh tìm nhiều phương pháp giải khác nhau, càng nhiều càng tốt. Với mỗi góc độ nhìn nhận bài toán xây dựng một phương pháp giải rồi từ đó sẽ lựa chọn phương pháp giải tối ưu nhất của bài toán. Cách 2: A = a5 - a = a[a4 - 1] = a[a2 – 1].[a2 + 1] = a[a2 – 1].[a2 – 4 + 5] = a[a2 – 1].[a2 – 4] + 5a[a2 – 1] = [a – 2].[ a – 1]a[ a + 1] [a + 2] + 5a[a2 – 1]Ta thấy: [a – 2].[ a – 1]a[ a + 1] [a + 2] là tích của 5 số nguyên liên tiếp nên 55a[a2 – 1] 5 Vậy A 5 Cách 1: A = a5 - a = a[a4 - 1] = a[a2 + 1].[a2 - 1] + Nếu a = 5k [k Z] thì a 5=> A 5 + Nếu a = 5k 1 [k Z] thì a2 + 1 5 => A 5 + Nếu a = 5k 2 [k Z] thì a2 - 1 5 => A 5 Vậy A chia hết cho 5 với mọi a ZVí dụ: Chứng minh A = a5 - a chia hết cho 5 với mọi a Z Cách 4: Xét hiệu A - [a – 2].[ a – 1]a[ a + 1] [a + 2] = a5 - a - [a – 2].[ a – 1]a[ a + 1] [a + 2] = a5 - a - a[a2 – 1].[a2 – 4]= a5 - a – [a3 – a].[a2 – 4] = a5 - a – [a5 – 5a3 + 4a]= a5 - a + a5 + 5a3 - 4a = 5a3 – 5a = 5a[a2 – 1]Nhận xét: 5a[a2 – 1] 5 => A - [a – 2].[ a – 1]a[ a + 1] [a + 2] 5 Mà [a – 2].[ a – 1]a[ a + 1] [a + 2] 5 => A 5Cách 3: Xét tích của 5 số nguyên liên tiếp:[a – 2].[ a – 1]a[ a + 1] [a + 2]= [ a2 – 1]a[ a2 - 4] = [ a3 – a].[ a2 - 4] = a5 – 5a3 + 4a = a5 – a – 5a3 + 5a= a5 – a – 5[a3 - a]Nhận xét: [a – 2].[ a – 1]a[ a + 1] [a + 2] 5 5[a3 - a] 5 => a5 – a 5. Vậy A 5  Sau khi đã hoàn thành bài toán, cho học sinh xây dựng bài toán cho trường hợp tổng quát, hoặc xét bài toán trong trường hợp đặc biệt, cho học sinh giải các bài toán tương tự. Có như vậy học sinh sẽ ghi nhớ được lâu và sâu sắc về từng dạng toán được học và bồi dưỡng.  Sau từng phần hoặc từng chương tập cho học sinh biết hệ thống hoá kiến thức đã học, sâu chuỗi lại các kiến thức để thấy mối quan hệ giữa chúng. Đặc biệt luyện cho học sinh biết phát triển kiến thức mới từ kiến thức cũ, hơn nữa khả năng hệ thống hoá kiến thức giúp học sinh dễ dàng phát hiện ra thuật giải của các dạng toán đã gặp trong quá trình học và ôn luyện. Ví dụ: Môn Hình học 8, sau khi kết thúc chương I: Tứ giác, GV hướng dẫn học sinh ôn tập thông qua sơ đồ hệ thống các loại tứ giácTứ giácHình thangHình thang cânHình thang vuôngHình bình hànhHình chữ nhậtHình thoiHình vuông2 cạnh đối song song2 góc kề một đáy bằng nhau2 đường chéo bằng nhaucó 1 góc vuôngHai cạnh bên song songHai cạnh bên song song 1 góc vuông 1 góc vuông2 đường chéo bằng nhau 1 góc vuông2 đường chéo bằng nhau- 2 cạnh kề bằng nhau- 2 đường chéo vuông góc- 1 đường chéo là đường phân giác của 1 góc- 2 cạnh kề bằng nhau- 2 đường chéo vuông góc- 1 đường chéo là đường phân giác của 1 góccó 3 góc vuôngcó 4 cạnh bằng nhau- Các cạnh đối song song - Các cạnh đối bằng nhau - 2 cạnh đối song song và bằng nhau - Các góc đối bằng nhau - 2 đường chéo cắt nhau tại trung điểm mỗi đường Điều này rất quan trọng. Học đi đôi với hành, lý thuyết gắn liền với thực tiễn. Có như vậy học sinh mới thấy cái hay của bộ môn và làm nảy sinh ý thức tò mò muốn tìm hiểu cái mới và ngày càng yêu thích bộ môn hơn. Ví dụ 1: Đo chiều rộng AB của một khúc sôngVí dụ 2: Đo chiều cao ngôi nhà hoặc chiều cao của cây.Ví dụ 3: Tính diện tích của một khu vườn có hình dạng bất kỳ* Phương án 1:Từ A kẻ AC vuông góc với AB Từ C kẻ Cx vuông góc với AC Gọi O là trung điểm của AC Trên Cx lấy D sao cho D, O, B thẳng hàng. Khi đó AB = CD.* Phương án 2:Từ A kẻ AC bất kỳ Từ C kẻ Cx sao cho cho ACx = BAC Gọi O là trung điểm của AC Trên Cx lấy D sao cho D, O, B thẳng hàng. Khi đó AB = CD. Có nhiều bài toán dễ gây cho học sinh sai lầm trong phương pháp giải hoặc học sinh đưa ra các phương pháp giải sai lầm. Khi đó giáo viên phải chỉ cho học sinh thấy rõ sai ở chỗ nào, vì sao sai và tìm cách khắc phục. Như vậy những sai lầm đó học sinh sẽ luôn ghi nhớ và tránh không mắc phải trong quá trình học tập sau này. [1]Vậy: [1]  Ta có:Ví dụ: giải phương trình Trong giảng dạy giáo viên nên đưa các bài toán rèn trí thông minh cho học sinh. Chẳng hạn: Về số học: 1] Tính nhanh:2] “Một giỏ đựng 5 quả cam, hãy chia cho 5 em sao cho em nào cũng được 1 quả mà trong giỏ vẫn còn một quả”. Hoặc: “Một số người cùng ngồi ăn cơm, có họ hàng liên quan đến nhau, trong đó có 2 cha, 2 con, 2 chú, 2 cháu, 1 ông, 1 anh, 1 em. Hỏi có mấy người và quan hệ họ hàng của họ?” Về đại số: Sau khi học hằng đẳng thức [x + y]3 thì có thể cho học sinh giải bài toán: “Chứng minh hệ thức: x3 + y3+ z3 = 3xyz biết rằng x + y +z = 0”.Hoặc: Chuyển vị trí 1 đoạn thẳng để được phép tính đúng: Về hình học: Sau khi học xong tứ giác, đưa ra các câu hỏi: - Hình thoi và hình vuông có chu vi bằng nhau thì hình nào có diện tích lớn nhất? - Đa giác nào có tổng các góc trong bằng tổng các góc ngoài? - Đa giác nào có số đường chéo bằng số cạnh?Xin Cảm ơn các đồng chí

Video liên quan

Chủ Đề