Cách lùa heo

3. Kết cấu chuồng và trang thiết bị trong chuồng

3.1. Nền chuồng:

Phải được đầm nén kỹ và cao hơn mặt đất khoảng 30-45cm, có độ dốc phù hợp [3%] để tránh ẩm ướt, ngập úng. Nền nên láng bằng xi măng để dễ vệ sinh, nền chuồng nhanh khô, nhưng phải tạo độ nhám để tránh trơn trượt cho heo.

Trong khi sử dụng nếu nền chuồng chỗ nào hư hỏng thì phải sửa ngay không để lâu ngày vì không an toàn cho heo và khó sửa chửa cho sau này.

Nền xi măng: thường dùng xỉ than trộn với đất sét rồi đầm chặt, sau đó phủ lên một lớp hồ khô [xi măng trộn với cát nhưng không trộn nước] rồi tiếp tục dầm chặt. Tiếp đó đổ lên một lớp vữa ướt dày khoảng 3cm. Cuối cùng rắc lên một ít xi măng mỏng rồi dùng bàn xoa gỗ tạo mặt phẳng

Kiểu nền này chi phí thấp, thi công dễ dàng. Tuy nhiên kiểu nền này dễ bị ngấm nước và heo ủi phá gây hư hỏng. Khi nền hư hỏng rất khó sửa chửa nên phải đập bỏ làm mới.

Nền bê tông: là loại nền chắc chắn nhưng đầu tư khá nhiều tiền. Nền bê tông được kết cấu bởi nhiều lớp:

Lớp đất nện: ở dưới cùng,có độ dốc 1 3% để làm mặt thoát nước. Lớp đá xanh kích thước đá 4 x 6 cm, dày khoảng 10-15cm được đầm chặt. Lớp đá xanh kích thước 3 x 4 cm, dày khoảng 7-10cm, đầm chặt rồi đổ vữa khô lấp kín các lỗ hổng của đá. Nếu không dùng vữa khô thì có thể dùng cát lấp các lỗ hổng rồi đầm chặt, cũng có thể phun nước cho cát trôi vào các khe hở của viên đá.

Lớp trên cùng: là hỗn hợp bê tông gồm: Đá xanh kích thước 1 x 2cm hoặc 3 x

4cm, vữa xi măng tỷ lệ 1 xi măng 2 cát, lớp hỗn hợp bê tông này dày khoảng 3-5cm.

Độ dày của lớp bê tông tuỳ thuộc vào độ tuổi và từng loại heo khác nhau để

cho việc đầu tư bớt tốn kém. Đối với heo cái sinh sản thì độ dày lớp bê tông khoảng

5cm, heo con sau cai sữa khoảng 3cm và heo thịt khoảng 4 cm.

Nền sàn bằng nhựa: Đối với những trại chăn nuôi heo có quy mô lớn, heo nái nuôi con và heo con trong thời gian theo mẹ được nuôi trên nền sàn bằng nhựa. Loại nền sàn này có ưu điểm là sạch sẽ khô ráo, ấm áp và độ bền tốt nhưng giá thành khá đắt.

3.2. Tường

Tường là bộ phận cơ cấu nên chuồng trại nuôi heo, có ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả chăn nuôi. Khi xây dựng cần chú ý:

Móng tường: Trước khi xây tường phải xử lý móng chu đáo, móng vững thì tường mới bền. Nếu đất làm chuồng yếu thì móng phải dày, chắc để tránh sụt nứt. Móng có đá hoặc tận dụng gạch vỡ để xây sẽ làm giảm chi phí trong xây dựng chuồng nuôi.

Thân tường: thân tường chuồng heo phải kiên cố vì những heo nái khi hưng phấn sinh dục sẽ phá phách rất dữ dội. Tường đảm bảo độ cao phù hợp với từng loại heo để heo không nhảy ra ngoài được, không quá cao vì sẽ gây khó khăn cho người chăn nuôi khi muốn can thiệp trong chuồng.

Tường chuồng nên có những lỗ thông thoáng. Nếu chuồng ở đầu hồi thì tường phải xây kín, còn tường ngăn phía trong chuồng xây lửng để tăng thông thoáng, tường thường được xây bằng gạch ống và xi măng.

3.3. Hành lang và cửa chuồng nuôi

Cửa chuồng nuôi: cửa chuồng heo có chiều rộng khoảng 60cm, cao bằng tường vách. Cửa cao hơn mặt nền 1-2cm để dễ thoát nước từ hành lang chăm sóc, nhưng không cao hơn vì heo có thể dúi mõm vào đáy cửa để hất, gặm phá cửa.

Vật liệu làm cửa có thể bằng gỗ ván, sắt hay song sắt. Mỗi loại vật liệu đều có ưu điểm và hạn chế, vì vậy tuỳ điều kiện thực tế mà người chăn nuôi chọn loại vật liệu làm cửa.

Bản lề cửa bắt ăn sâu vào góc 2 tường, sức chịu lực tốt hơn gắn vào tường đơn. Hướng cửa mở vào trong heo khó ủi phá cửa, tránh hỏng chốt gài cửa, tránh nguy hiểm cho người khi đóng mở cửa.

Chốt gài cửa bố trí bên ngoài. Không nên bố trí bất kỳ chướng ngại vật gì ngoài cửa chuồng [như rãnh đường mương sâu hoặc máng ăn] sẽ làm cho heo sợ hãi khó lùa qua cửa chuồng.

Hành lang: là lối đi dành cho người chăn nuôi đi lại cho ăn và chăm sóc heo. Hành lang cũng là đường vận chuyển heo từ ô chuồng này đến ô chuồng khác, hoặc chuyển heo đi cân xuất bán. Khi xây dựng cần phải đáp ứng những yêu cầu: Rộng khoảng 1,2m; có độ dốc để nước không đọng, đảm bảo độ ma sát tránh trơn trợt, hướng thoát nước về phía cuối chuồng.

3.4. Mái chuồng:

Có thể làm bằng nhiều loại vật liệu khác nhau. Mái chuồng ngoài tác dụng che mưa nắng còn có tác dụng điều hoà nhiệt độ trong chuồng nuôi thông qua các vật liệu làm mái khác nhau. Mái chuồng cao vừa phải để đảm bảo thông thoáng và tránh mưa tạt vào.

Mái lá: dùng phổ biến ở vùng nông thôn, trong những quy mô chăn nuôi nhỏ. Có thể dùng lá cọ hay lá dừa làm mái chuồng. Mái lá rất nhẹ nên không đòi hỏi phải xây chuồng trại chắc chắn. Chuồng lợp mái lá rất mát vào mùa hè và ấm áp vào mùa đông, tuy nhiên mái lá rất mau mục nát gây dột nước vì vậy tuổi thọ mái lá không cao; thông thường khoảng 1-3 năm phải thay mới.

Mái tôn: mái có độ bền cao, thời gian sử dụng dài, giá thành cao hơn mái lá. Mái tôn dễ hấp thu nhiệt nên vào mùa hè chuồng heo rất nóng, vào mùa đông lại rất lạnh. Vì vậy nếu làm mái tôn cần phải làm cao và thông thoáng và phải có biện pháp chống nóng vào mùa hè cho heo.

Mái Phi brô xi măng: thường sử dụng rộng rãi trong xây dựng chuồng do giá thành rẻ hơn mái tôn, nhưng do chất liệu tạo mái là xi măng nên rất nặng, vì vậy chuồng cần xây dựng chắc chắn, dễ ngấm nước gây gãy mục, ngoài ra mái này cũng hấp thu nhiệt lớn như mái tôn nên cần có biện pháp chống nóng cho heo vào mùa hè.

Các kiểu mái chuồng: Mái chuồng heo có thể xây dựng kiểu 1 mái, kiểu mái lỡ hay 2 mái đơn, 2 mái đôi [trại chăn nuôi quy mô lớn].

Kiểu một mái: thoáng khí, mát nhưng dễ bị mưa tạt, gió lùa, nắng dọi vào chuồng.

Kiểu mái lỡ: thoáng, mát, hạn chế mưa tạt, gió lùa nhưng tốn thêm chi phí lợp mái lỡ.

Kiểu 2 mái đơn: tiết kiệm được diện tích so với chuồng mái lỡ, nhưng hơi nóng và ẩm độ trong chuồng khó thoát ra khỏi 2 mái, có thể bố trí thêm quạt hút.

3.5. Máng ăn và máng uống

+ Máng ăn: có nhiều loại tuỳ theo kiểu chuồng và độ tuổi của heo

Máng đúc cố định vào chuồng: thức ăn dư thừa khó cọ rữa, vệ sinh.

Máng tự động bằng inox hay bằng gang, thường đặt trên mặt nền chuồng nên luôn khô ráo, sạch, độ bền cao; giá thành cao.

+ Máng uống: hiện nay dùng hệ thống cung cấp nước là núm uống tự động. nước được dẫn từ bể cao áp đến bể điều áp nên kiểm tra được vệ sinh nguồn nước. Chi phí đầu tư ban đầu khá cao.

3.6. Bể chứa nước: Trung bình nhu cầu nước cho tắm rửa, ăn uống một heo khoảng 50 lít nước/con/ngày. Lượng nước này tăng vào mùa nóng và giảm vào ngày mưa dầm. Vì vậy dự trù số lượng heo nuôi mà xây bể chứa. Để giảm chi phí nên xây thành nhiều bể, các bể thông nhau bằng các van. Các bể xây nổi trên mặt đất, có lỗ thoát nước để dễ cọ rữa và loại bỏ rác, cặn bã phù sa. Bể có nắp đậy bên trên tránh tạp chất rơi vào.

3.7. Diện tích chuồng nuôi: Phù hợp với từng giai đoạn sản xuất và độ tuổi của heo

Bảng 2.2. Mật độ heo nuôi

Giai đoạnSố con nuôi

/chuồng [con]

Diện tích [m2/con]
Chuồng nềnChuồng sàn
Heo hậu bị

Heo nái nuôi con và heo con

Heo nái khô, chửa

Heo sau cai sữa

1

2-3 hoặc 1

Chủ Đề