Các tác phẩm văn học dân gian mầm non

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

Phan Xuân Phồn

GIÁO TRÌNH
VĂN HỌC TRẺ EM
[Dùng cho ngành GD Mầm non  hệ đào tạo từ xa]

Vinh, 2011

LỜI GIỚI THIỆU

Văn học trẻ em là bộ phận trọng yếu trong chương trình giáo dục của sinh
viên ngành GD Mầm non. Cuốn sách được biên soạn với nguyên tắc vừa là giáo
trình, vừa được mở rộng dưới hình thức tài liệu tham khảo. Hy vọng cuốn sách
sẽ giúp ích phần nào cho học viên trong việc học tập môn học này.
Do trình độ của người biên soạn còn hạn chế, cuốn tài liệu này không
tránh khỏi những thiếu sót. Chúng tôi rất mong được sự góp ý của các bạn đồng
nghiệp và anh chị em học viên.

Các tác giả.

MỞ ĐẦU
KHÁI QUÁT VỀ VĂN HỌC TRẺ EM
I- Đại cương về văn học trẻ em.
1. Khái niệm: Văn học trẻ em là những sáng tác do các em viết và do các
nhà văn chuyên nghiệp viết cho các em, bao gồm những tác phẩm có mặt trong
văn học truyền miệng của dân tộc cho tới những tác phẩm hiện đại, gồm cả
những tác phẩm trong nước và ngoài nước.
2. Các bộ phận cấu thành:
Văn học trẻ em gồm hai bộ phận lớn:
- Văn học dân gian trẻ em.
- Văn học viết trẻ em
Trong mỗi bộ phận lại có 2 loại tác phẩm:
+ Những sáng tác cho trẻ em.
+ Những sáng tác của trẻ em.
3. Đặc trưng thơ văn cho trẻ em
a] Văn học trẻ em đáp ứng yêu cầu giáo dục
Những nhà văn, nhà hoạt động văn hoá lớn của Liên Xô [cũ] như
M.Gorki; C.X.Mikhancôp, M.K.Gupxcaia đều cho rằng sách cho trẻ em về bản
chất là phương pháp và biện pháp giáo dục.
Giáo dục ở đây được hiểu theo nghĩa rộng: là công cụ giúp trẻ nhận thức
cuộc sống, giúp trẻ cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên, xã hội, tâm hồn con người.
Những nội dung giáo dục trong văn học dành cho trẻ cần phải được thể hiện rõ
ràng. Tính cách, nhân vật phải được thể hiện rõ cái tốt và cái xấu. Thái độ yêu,
ghét của tác giả cũng cần phải phân minh.
b] Văn học trẻ em phải đảm bảo tính nghệ thuật của thơ, truyện cho trẻ
Trẻ sẽ chán và không chấp nhận những câu chuyện khô khan như những
bài giảng về đạo đức. Nhiều nhà văn, nhà sư phạm đã khẳng định văn học cho
trẻ cần được viết một cách có nghệ thuật trong ý nghĩa đặc biệt của nó. Tác
phẩm cho trẻ em không phải là hoàn toàn lặp lại tiếng nói của trẻ em mà phải
làm giàu thêm vốn hiểu biết và tiếng nói của trẻ. Nó phải được viết một cách rực
rỡ, trong sáng, nhí nhảnh... [Dế mèn phiêu lưu ký- Tô Hoài].
Cái quan trọng không phải kể về những cái gì mà ở chỗ kể như thế nào.
Chính vì vậy những tác phẩm hay được trẻ yêu thích không phải là nhiều. Con
lợn qua cách miêu tả của Võ Quảng:

Lưng mày múp míp
Mắt mày húp híp
Đuôi mày ngúc ngoắc
Miệng thì nhóp nhép
Gà mái đẻ nhảy ổ thì thật ngộ nghĩnh:
Bỗng mái hoa đổi nết
Cái đầu nó nghếch nghếch
Cái cổ nó thót thót
Nó kêu tót tót tót.
Hồn nhiên, giàu trí tưởng tượng trong cách tư duy của Trần Đăng Khoa:
Cánh diều no gió
Tiếng nó trong ngần
Diều hay chiếc thuyền
Trôi trên sông ngân
[Thả Diều - Trần Đăng Khoa]
Quả dừa đàn lợn con nằm trên cao
Đêm hè hoa nở cùng sao
Tàu dừa chiếc lược chải vào mây xanh
[Cây dừa - Trần Đăng Khoa]
- Tác phẩm cho trẻ khi đạt yêu cầu về giáo dục về nghệ thuật chính là
đảm bảo được tính thống nhất giữa nội dung và hình thức văn học.
c] Văn học cho trẻ em phải đảm bảo về tính vừa sức :
Văn học cho trẻ em cần phải tính đến khả năng tâm lý của lứa tuổi, cụ thể
là khả năng ngôn ngữ, sức tập trung chú ý, đặc điểm tư duy.Trẻ lớp 1: Đọc
truyện tranh .Trẻ lớp 2 + 3: Không nhất thiết phải là truyện tranh nhưng dung
lượng bài văn, bài thơ phải vừa phải. Một bài thơ chỉ giới hạn từ 10 - 20 câu.
Chuyện kể đơn giản, cốt truyện rõ ràng, số lượng nhân vật ít, có thể là thần
thoại. Trẻ lớp 4 + 5: Tư duy phát triển, có nhận thức cao hơn có thể kể những
chuyện cổ tích dài hơn: Tấm Cám, truyện ngụ ngôn... có mâu thuẫn, xung đột,
nhân vật có tính cách..; thơ gợi sự suy nghĩ, yêu cầu nhận xét. VD: Thầy bói
xem voi, Đeo lục lặc cho mèo, Dế mèn phiêu lưu ký, Đất rừng Phương Nam, Mẹ
ốm
hay :

Mái tranh ơi hỡi mái tranh
Ngấm bao nhiêu nắng mà thành quê hương

[Trần Đăng Khoa]
Nắng mưa từ những ngày xưa
Lặn trong đời mẹ đến giờ chưa tan
Sáng nay trời đổ mưa rào
Nắng trong trái chín ngọt ngào bay hương
Cả đời đi gió về sương
Bây giờ mẹ lại lần giường tập đi...
[ Trần Đăng Khoa]
4] Ý nghĩa nhiệm vụ
- Ý nghĩa của văn học đối với trẻ em được quy định từ chính ý nghĩa của
văn học từ bản chất nhận thức, thẩm mỹ, giáo dục của văn học.
- Qua bài thơ, câu chuyện trẻ được biết thêm về thế giới xung quanh, về
tự nhiên, xã hội. Đó là thế giới của các loài vật, của con người và thiên nhiên:
qua truyện cổ tích, thần thoại...
Trẻ biết được phong tục tập quán của dân tộc là gói bánh chưng, bánh dày
để lễ tết, tưởng nhớ đến tổ tiên qua chuyện Bánh chưng, bánh dày.
- Giúp trẻ nhận thức được những mối quan hệ vốn có của nó: Quan hệ
trong gia đình, ngoài xã hội, giáo dục trẻ về lẽ sống, về đối nhân xử thế: Cây
khế, Tấm Cám
- Nhiều bài thơ ca ngợi thiên nhiên thông qua sự ca ngợi đó là giáo dục
lòng yêu thiên nhiên, yêu con người, giúp trẻ cảm nhận được vẻ đẹp của quê
hương đất nước, yêu quý lao động: Hạt gạo làng ta [Trần Đăng Khoa].
- Nhiều bài thơ có giá trị thẩm mỹ độc đáo văn học ngoài ý nghĩa tiếp tục
với môn học, còn có ý nghĩa tiếp xúc với nghệ thuật ngôn từ: E.U.Tri khê-ê-va,
nhà giáo dục học Liên Xô khẳng định rằng trẻ em học được rất nhiều tiếng mẹ
đẻ qua văn học, đặc biệt là văn học dân gian.
* Nhiệm vụ cụ thể:
1 Văn học trẻ em giúp trẻ hình thành khả năng cảm thụ văn học
- Sự cảm thụ và khả năng bộc lộ cảm xúc trước các câu chuyện bài thơ
xuất phát từ chính nội dung nghệ thuật của thơ, chuyện. Ngay từ bé việc nghe
việc nghe chuyện thơ là đã là một nhu cầu nội tại của trẻ.
- Văn học trẻ em giúp trẻ hình thành lòng yêu thích văn học, bồi dưỡng tri
thức văn học cho trẻ cũng như khả năng cảm thụ thơ văn của trẻ. Từ đó trí tưởng

tượng của trẻ phát triển, sức sáng tạo văn thơ có thể nảy nở, hình thành ở trẻ em
có năng lực, tư chất văn học: Buổi sáng nhà em, Cây dừa[Trần Đăng Khoa].
2 - Văn học trẻ em góp phần giáo dục đạo đức cho trẻ
Chuyện, thơ như là phương tiện hữu hiệu giáo dục trẻ lòng yêu quê
hương, yêu bố mẹ, ông bà, yêu những việc làm tốt, phê phán những việc làm
xấu, kính yêu Bác Hồ, chăm làm, thật thà...
Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa...
Công cha như núi Thái Sơn...
... Ảnh Bác, khi mẹ vắng nhà...
Ở lứa tuổi này trẻ đặc biệt nhảy cảm trước những vấn đề thuộc về tình
cảm. Bởi vậy tư tưởng của nhiều bài thơ, câu chuyện đem đến cho trẻ là lòng
yêu thương, giáo dục lòng nhân ái cho trẻ: Ảnh Bác, khi mẹ vắng nhà...[Trần
Đăng Khoa]; ca ngợi tình bạn, tình người: Con chim cu gáy, Con gái người chăn
cừu, tục ngữ về đạo đức của nhân dân ta, Nàng Bạch Tuyết và Bảy chú lùn, Cô
bé lọ lem, Sự tích chim Quốc...
3  Văn học trẻ em rèn luyện kĩ năng đọc và kể cho trẻ
Dạy văn học cho thiếu nhi không phải là đọc, kể thơ văn cho trẻ mà còn
bao gồm cả việc tập cho trẻ kể lại chuyện, đọc thuộc thơ một cách diễn cảm,
đóng các vai trong truyện thơ... Qua đó rèn luyện kỹ năng đọc, kể truyện thơ cho
trẻ. Từ đó phát triển vốn ngôn ngữ của trẻ, hoàn thiện dần ngữ âm, ngữ điệu của
giọng đọc, lời nói, nắm vững dần các cấu trúc ngữ pháp.
Câu hỏi ôn tập
Câu 1: Ý nghĩa của tác phẩm văn học đối với đời sống trẻ em.
Câu 2: Nêu đặc trưng của văn học trẻ em.
Câu 3: Vì sao nói: tác phẩm văn học rèn luyện kĩ năng đọc, kể diễn cảm cho trẻ.
Câu 4: Các bộ phận cấu thành của văn học trẻ em?

CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ VĂN HỌC DÂN GIAN
I. KHÁI NIỆM VĂN HỌC DÂN GIAN
Từ thủa tạo sinh và qua quá trình phát triển, có lúc con người ta đứng
trước không gian bao la mà ngơ ngác hỏi nhau:
Trời sinh ra từ đâu?
... Đất sinh ra từ đâu?
... Người sinh ra từ bao giờ?
[Dân ca Lô Lô]
Núi kia ai đắp mà cao
Sông kia ai bới ai đào mà sâu
[Ca dao Việt Nam]
Cho đến hôm nay và cả mai sau con người đã có thể chinh phục thiên
nhiên, bay vào vũ trụ làm việc với tốc độ ngày dài hơn thế kỷ nhưng suốt cả
tiến trình ấy luôn có một dòng văn học như mạch nước ngầm chảy liên tục và
bám sát lịch sử một cách độc đáo [Gorki], đó là văn học dân gian.
Vậy văn học dân gian là gì: - Thuật ngữ văn học dân gian gồm hai vế:
1. Văn học: Chỉ bộ phận sáng tạo nghệ thuật bằng chất liệu ngôn từ.
2. Dân gian:
- Lưu hành trong nhân dân bằng cách truyền miệng.
- Đóng vai trò như tính từ chỉ tính chất, vai trò, đặc trưng loại biệt của
dòng văn học này.
Trước đây có rất nhiều tên gọi khác nhau để chỉ dòng văn học này: Văn
chương bình dân [phân biệt văn chương bác học ] - Thanh Lãng, Văn chương
truyền khẩu - Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam do nhóm Văn Tân biên soạn.
Đến những năm 50 của thế kỷ XX thuật ngữ văn học dân gian mới xuất
hiện. Năm 1960 thành lập Hội văn nghệ dân gian Việt Nam và năm 1983 Viện
văn hoá dân gian Việt Nam ra đời tạo điều kiện cho văn học dân gian trở về với
cội nguồn phát sinh và phát triển của nó. Vấn đề ở đây là mối quan hệ giữa nghệ
thuật ngôn từ và các loại hình nghệ thuật khác: Liên quan đến thuật ngữ folklore
[- Folk: nhân dân, - Lore: Sự hiểu biết, khoa học] do nhà nhân chủng học người
Anh là Uyliam Tôm Giôn [bút danh Mectơn] đưa ra lần đầu tiên năm 1846.
Chung quy có hai quan điểm hiểu và sử dụng thuật ngữ này.
1- Folklore là tất cả các hiện tượng của nền văn hoá tinh thần và văn hoá vật chất.

2 - Folklore chỉ giới hạn trong khuôn khổ những sáng tác ngôn từ truyền
miệng [sáng tác văn học] của nhân dân.
Như vậy thuật ngữ folklore khi chuyển dịch sang tiếng Việt có những tên
gọi: Văn hoá dân gian, Văn nghệ dân gian, Văn học dân gian. Có thể phân
biệt ba khái niệm:

Văn hoá dân gian

Văn hoá
vât chất
Văn hoá
Tinh thần

Văn nghệ
dân gian

Văn [văn học
dân gian]
Nghệ

Phong tục
tập quán

Định nghĩa:
Văn học dân gian là thành phần nghệ thuật ngôn từ trong sáng tác có tính
chất tổng hợp của nhân dân lao động, hay: văn học dân gian là những thể loại
sáng tác dân gian trong đó thành phần nghệ thuật ngôn từ [tức thành phần văn
học] chiếm vị trí quan trọng, song bao giờ nó cũng có mối quan hệ hữu cơ với
các thành phần nghệ thuật và phi nghệ thuật khác [lời, nhạc điệu - vũ điệu]
Định nghĩa này chỉ ra được tác giả của nó là nhân dân lao động và chỉ ra
được phương tiện vật chất là nghệ thuật ngôn từ. [Khác văn học viết ngôn từ
mang tính chất thuần tuý, còn ở đây ngôn từ mang tính chất tổng hợp].
II. ĐẶC TRƯNG CỦA VĂN HỌC DÂN GIAN
1. Thời điểm phát sinh
So với văn học viết thì văn học dân gian ra đời trước và rất sớm, còn văn
học viết ra đời khi có chữ viết xuất hiện [thế kỷ X].
Thời điểm phát sinh của văn học dân gian gắn liền với nguồn gốc của văn
học nghệ thuật. Văn học dân gian ra đời từ thời kỳ công xã nguyên thuỷ kho con
người còn chưa có sự phân công lao động [chân tay, trí óc] hoặc chỉ là sự phân
công lao động ở trình độ thấp. Đặc tính chung bao trùm của văn học dân gian là
tính nguyên hợp [syncretique].
2. Chức năng

- Cũng như văn học nói chung, văn học dân gian có đầy đủ các chức năng:
Nhận thức, giáo dục, thẩm mỹ, giao tiếp, giải trí, thông báo.
Ngoài ra văn học dân gian còn có chức năng riêng biệt: chức năng thực
hành [sinh hoạt]. Văn học dân gian nảy sinh từ những hoạt động thực hành [sản
xuất, chiến đấu, nghi lễ, trao đổi tâm tình...], đến lượt nó văn học dân gian lại
phục vụ các hoạt động thực hành một cách đắc lực.
Nói cách khác, văn học dân gian hình thành nhằm đáp ứng những nhu cầu
khác nhau của con người. VD: đáp ứng nhu cầu nhận thức, lý giải thiên nhiên, tự
nhiên thần thoại ra đời, đúc kết kinh nghiệm sản xuất có tục ngữ, nhu cầu tình
cảm có ca dao. Do chức năng thực hành chi phối văn học dân gian gắn chặt với
đời sống. VD: từ trong lao động xuất hiện các điệu hò [hò giã gạo, hò kéo lưới,
kéo gỗ...], từ trong sinh hoạt gia đình xuất hiện các điệu ru con, ru cháu...
- Là một loại hình có tính nguyên hợp văn học dân gian đảm nhiệm, nhiều
chức năng khác ngoài chức năng của văn học như: Sử học, tâm lý học, giáo dục
học, xã hội học, dân tộc học, y học...
Văn học dân gian như cái túi vạn năng đáp ứng nhiều nhu cầu khác nhau
của cuộc sống con người. Tính nhiều chức năng của văn học dân gian tạo cho nó
đặc điểm nặng về khái quát hoá lại nhẹ về cá thể hoá [nhân vật không có cá
tính...]
3. Các thuộc tính cơ bản
a] Truyền miệng và biểu diễn:
- Truyền miệng là một thuộc tính dễ nhận thất và được nhận thức sớm
nhất của văn học dân gian. Truyền miệng là phương thức tồn tại của văn học dân
gian. Từ việc sáng tác đến lưu truyền và phổ biến đều bằng phương tiện truyền
miệng.
Truyền miệng là phương thức sản xuất của văn học dân gian, cùng song
song tồn tại với phương thức văn bản của văn học viết. Hai phương thức này
không hề loại trừ nhau và thay thế nhau mà nó bổ sung và quan hệ với nhau.
- Tính biểu diễn: [diễn xướng] của văn học dân gian là một thuộc tính mới
được nhận thức khi nghiên cứu nótg mối quan hệ văn nghệ dân gian. Văn học dân

gian được truyền miệng thông qua sự biểu diễn của nhân dân. Với tư cách là một
nghệ thuật biểu diễn hơn là của một nghệ thuật sân khấu.
Trên thực tế nhân dân kể chuyện cổ tích chứ không phải đọc, hát cao dao
chứ không phải đọc ca dao, diễn chèo chứ không kể chèo. Sự biểu diễn của văn
học dân gian khác với biểu diễn mang tính chất chuyên nghiệp. Văn học dân
gian tồn tại và phát triển trước hết là vì nhu cầu được sáng tác [trong lĩnh vực
sản xuất tinh thần chưa chuyên môn hoá] của chính những người sáng tác và
diễn xướng của chính nhân dân lao động sau đó mới đến nhu cầu thưởng thức
văn nghệ. Đối với văn học dân gian người biểu diễn và người thưởng thức có khi
chỉ là một văn học dân gian đáp ứng nhu cầu tự bộc lộ [biểu hiện] ở mỗi người.
Văn học dân gian chỉ tồn tại một cách sinh động và thực sự đầy đu trong sự biểu
diễn của nhân dân trong cuộc sống.
Văn học dân gian tồn tại một cách sinh động trong cuộc sống, trong dạng
thức biểu diễn gọi là: folklore sống động. Văn học dân gian tồn tại trên sách vở :
Folklore tĩnh tại.
b] Tính tập thể và vô danh
- Nói đến tính tập thể là chúng ta vừa nói đến một hình thức đặc trưng
của sự sản xuất nghệ thuật, lại nói cả về phương diện là một phạm trù thẩm mỹ
của văn học dân gian.
- Về phương thức sáng tác: Mỗi tác phẩm văn học dân gian là sự gia
công của nhiều người qua nhiều thế hệ khác nhau. Tuy nhiên, sự sáng tạo tập thể
ở đây không hề đối lập với vai trò cá nhân.
Những bộ sử thi lớn của thế giới như Iliat - Ôđixê [Hy Lạp] Ramayana,
Mahabharata [Ấn Độ], Đẻ đất đẻ nước, Đam San [Việt Nam] thường là kết quả
sáng tác của nhiều người qua nhiều thế hệ, nhiều vùng quê khác nhau nhưng
không loại trừ vai trò của những người có học vấn. Có thể ban đầu là sáng tác
của một người nhưng do quá trình lưu truyền phù hợp với tâm lý của nhân dân
quần chúng, được nhiều người chấp nhận, nhiều người gia công, lưu truyền, sửa
chữa trở thành tác phẩm tập thể và người sáng tác ban đầu bị lãng quên.

Do quá trình sáng tạo như thế gọi là tính vô danh [không có tên tác giả].
Tính vô danh là hệ quả của tính tập thể [khác với tính khuyết danh của một số
tác phẩm].
Tại sao văn học dân gian mới có một số tác phẩm lại có tác giả?
c] Tính dị bản
Trong quá trình lưu truyền bằng miệng, có hai yếu tố thường được sử
dụng: truyền thống và ứng tác.
- Truyền thống là những bài, những câu đã có sẵn, nghệ nhân chỉ việc học
thuộc và biểu diễn lại.
- Ứng tác: Tuy nhiên trong lúc truyền lại tác phẩm của người xưa các
nghệ nhân dân gian tuỳ theo hoàn cảnh và mục đích sáng tạo nên những tác
phẩm hoặc phiến đoạn mới đó là phần ứng tác.
Như vậy ứng tác nảy sinh ngay kịp thời trong một hoàn cảnh văn hoá văn
nghệ dân gian nào đó. Nếu ứng tác nào hay được nhân dân thừa nhận thì sẽ bổ
sung vào phần truyền thống. Từ đó phần ứng tác trong văn học dân gian nảy
sinh một thuật ngữ khác là tính dị bản.
[?] Vậy văn học viết có dị bản không? Vì sao ? Dị bản văn học dân gian
khác gì dị bản của văn học viết?
d] Tính địa phương và tính quốc tế:
- Văn học dân gian thường là sản phẩm của từng vùng, từng miền mang
tình cảm tự cung tự cấp nên nó mang dấu ấn địa phương rất rõ, nó biểu hiện ở
ngôn ngữ, điều kiện sống, phong tục tập quán, tính cách con người.
- Văn học dân gian rất giàu tính địa phương nhưng cũng rất đậm tính quốc tế
. Văn học dân gian các nước trên thế giới rất gần gũi nhau vể thể loại, hình thức
biểu hiện cũng như nội dung tư tưởng- Thể hiện qua các típ, mô típ...
Sự trùng hợp có quy luật chữ không phải ngẫu nhiên vì đều là sáng tạo
của nhân dân lao động, gần gũi nhau về tâm tư, tình cảm, ước vọng...
III- VẤN ĐỀ PHÂN LOẠI VĂN HỌC DÂN GIAN
1. Mục đích

- Phân loại để tách bộ phận ra khỏi chỉng thể nhằm nghiên cứu sâu hơn và
chính xác hơn.
- Một sự phân loại đúng sẽ góp phần quan trọng trong việc nhận thức bản
chất của đối tượng đang được nghiên cứu.
2. Tiêu chí của sự phân loại
Có thể được định ra bởi mục đích nghiên cứu, cần phải có sự thống nhất.
Có nhiều cách phân loại do dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau.
3. Tình hình phân loại: 3 loại chính.
[1] Phân loại theo truyền thống dân tộc [tâm lý dân tộc] chia văn học dân
gian thành nhiều thể loại nhỏ: truyền thuyết, cổ tích...
[2] Phân loại theo tiêu chuẩn quốc tế: Chia văn học dân gian thành các
loại hình: Tự sự, trữ tình; từ đó chia ra các thể loại nhưng có những thể loại
không xếp được vào loại hình nào cho phù hợp [tục ngữ, câu đố].
[3] Phân loại theo phương thức biểu diễn của văn học dân gian: Hiện taị
phân thành bốn phương thức: kể, nói, hát, diễn. Trong từng phương thức lại chia
thành các loại: kể: thần thoại, cổ tích; nói: tục ngữ, câu đố... [khác phân loại 2].
Cho đến nay việc phân loại văn học dân gian đang là vấn đề có tính thời
sự cần tiếp tục nghiên cứu. Tựu trưng có thể chia ra ba cấp độ trong phân loại:
A: Loai hình: Tự sự, trữ tình, kịch.
a: Thể loại: Tự sự: thần thoại, truyền thuyết...
a : Tiểu loại: Cổ tích - thần kỳ
- Thế sự
- Loài vật.
IV - VAI TRÒ VÀ TÁC DỤNG CỦA VĂN HỌC DÂN GIAN
1. Đối với văn học nghệ thuật
- Văn học dân gian bao giờ cũng là cơ sở văn học và nghệ thuật của bất
kỳ dân tộc nào trên thế giới. Văn học dân gian là tiền đề, cảm hứng, ảnh hưởng
lớn đến văn học viết.
- Đối với văn học Việt Nam từ khi chưa có chữ viết văn học dân gian là
duy nhất nhưng khi có chữ viết [thế kỷ X] nó vẫn song song tồn tại, phát triển.

Các tác giả văn học lớn như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du... đều chịu ảnh hưởng sâu
sắc của văn học dân gian. Đối với các ngành nghệ thuật khác, văn học dân gian
đóng vai trò là nền tảng.

2. Đối với đời sống con người
- Nhìn chung văn học dân gian góp phần to lớn trong việc hình thành bản
sắc, bản lĩnh dân tộc.
Với tư cách là một phương tiện giao tiếp độc đoá của nhân dân, văn học
dân gian đã hoàn thành các chức năng xã hội của nó. Góp phần thống nhất tư
tưởng của mọi người, cổ vũ giai cấp đấu tranh chống lực lượng thù địch: thiên
tai, bão lụt, thúc đẩy quá trình hình thành thế giới quan, nhân sinh quan, bồi
dưỡng tinh thần dân chủ, lạc quan.
Văn học dân gian như cuốn bách khoa toàn thư dạy khôn cho con người.
- Khi xã hội chưa phân chia giai cấp, văn học dân gian là vũ khí đấu tranh
giai cấp sắc bén. Bác gọi những sáng tác ấy là những hòn ngọc quý. Nếu
không học văn học dân gian đến một lúc nào đó chúng ta sẽ giàu của cải nhưng
nghèo về tình thương.
Câu hỏi:
1 - Văn học dân gian là gì ? Phân tích và giải thích định nghĩa.
2- Phân biệt văn học dân gian, văn nghệ dân gian, văn hoá dân gian
3- Thế nào là tính nguyên hợp của văn học dân gian? Cho ví dụ.
4- Trong các thuộc tính của văn học dân gian, thuộc tính nào là cơ bản
nhất? Vì sao?

VĂN HỌC DÂN GIAN CHO TRẺ EM
CHƯƠNG 2: CÁC THỂ LOẠI CỦA VĂN HỌC DÂN GIAN
I- THẦN THOẠI VÀ TRUYỀN THUYẾT LÀ GÌ ?
1. Vấn đề phân chia thần thoại và truyền thuyết
Có nên chia thần thoại và truyền thuyết ra hai thể loại của văn học dân
gian hay không? Đây là một vấn đề được một số học giả đề cập và có những ý
kiến không thống nhất.
- Một số học giả cho rằng không nên chia thần thoại và truyền thuyết
thành hai thể loại - chỉ gọi là thần thoại chứ không có truyền thuyết. Quan niệm
này được lý giải trong sách Văn học dân gian của Đinh Gia Khánh và Chu Xuân
Diên [ĐHTH]. Theo hai ông truyền thuyết là danh từ thuộc về dã sử, nó không
bao hàm giới thuyết và một thể loại văn học nhất định.
- Một số học giả khác quan niệm rằng thần thoại và truyền thuyết là hai
thể loại của văn học dân gian [giáo trình ĐHSP]
Nhìn chung cả hai quan niệm trên đều có lý, song quan niệm thứ hai vẫn
có sức thuyết phục và được nhiều người chấp nhận hơn.
2. Định nghĩa
a] Thần thoại: Là những truyện kể về thần, xuất hiện vào giai đoạn sau
của thời kỳ cuộc sống nguyên thuỷ, nhằm lý giải các hiện tượng tự nhiên và một
số vấn đề xã hội, đồng thời thể hiện khát vọng chinh phục thiên nhiên của người
nguyên thuỷ. Truyện có tính chất hoang đường kỳ ảo, được xây dựng trên sự
tưởng tượng mang tính chất ấu trĩ, ngây thơ.
- Thần thoại là tập hợp những truyện kể dân gian về các vị thần, các nhân
vật anh hùng thần linh, các nhân vật sáng tạo văn hoá thần linh, phản ánh quan
niệm của người thời cổ về thế giới tự nhiên và đời sống xã hội của con người [Lê
Chí Quế]
b] Truyền thuyết: Là những truyện có tính chất hoang đường kỳ diệu, xuất
hiện vào buổi bình minh của lịch sử [gần sử thi]. Nó nhằm phản ánh quá trình
dựng nước và giữ nước, đồng thời biểu dương ca ngợi sức mạnh của những anh
hùng yêu nước.
- Truyền thuyết là một thể loại trong loại hình tự sự dân gian phản ánh
những sự kiện, nhân vật lịch sử hay di tích cảnh vật địa phương thông qua hư
cấu nghệ thuật thần kỳ [Lê Chí Quế].

Những truyền thuyết dân gian thường có một cái lõi là sự thật lịch sử mà
nhân dân qua nhiều thế hệ đã lý tưởng hoá gửi gắm vào đó tâm tình thiết tha của
mình cùng với thơ và mộng, chắp đối cánh của sức tưởng tượng và nghệ thuật
dân gian làm nên những tác phẩm văn hoá mà đời đời con cháu ưa thích [Phạm
Văn Đồng: nhân ngày giỗ tổ vua Hùng. Báo Nhân dân ra ngày 29/4/1969].
c] Phân biệt
- Thời điểm xuất hiện: Thần thoại ra đời trước truyền thuyết vào thời đại
dã man. Truyền thuyết nảy sinh trên cơ sở thần thoại khi con người bước vào
ngưỡng cửa của thời đại văn minh, thời kỳ chiếm hữu nô lệ. Tuy nhiên có một
số truyện như Họ Hồng Bàng nhập nhằng giữa thần thoại và truyền thuyết.
- Chức năng
Thần thoại nhằm nhận thức và lý giải tự nhiên. Nó thể hiện mối quan hệ
giữa con người với tự nhiên trong đó con người là bản thể.
Truyền thuyết nhằm nhận thức và lý giải lịch sử. Nó phản ánh những biến
cố trọng đại có ý nghĩa toàn dân, phản ánh mối quan hệ giữa con người và lịch sử.
- Nhân vật
Thần thoại: Thần hay bán thần. Thần trong thần thoại là những lực lượng tự
nhiên được đồ chiếu theo dạng người.
Truyền thuyết: Nhân vật thường là những anh hùng lịch sử được thần thánh
hoá. Con người trong truyền thuyết là những người khác thường không phải những
người đời thường như trong cổ tích.
II. NGUỒN GỐC VÀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN.
1. Thần thoại
a] Nguồn gốc của thần thoại
- Chủ nghĩa duy tâm cổ điển [Heghen] cho rằng: thần thoại có nguồn gốc từ
tôn giáo tự nhiên.
- Chủ nghĩa duy vật [Mác - Angghen] khẳng định thần thoại bắt nguồn từ cuộc
sống và lao động chiến đấu của người nguyên thuỷ.
Vậy tại sao người nguyên thuỷ khi phản ánh cuộc sống lao động chiến đấu lại
tuởng tượng đến các vị thần?
Người nguyên thuỷ sống trong thời đại dã man, trình độ hiểu biết rất thấp kém
và dường như hoàn toàn lệ thuộc vào tự nhiên. Giống như đứa trẻ mới ra đời và bắt
đầu biết nhận thức. Con người lúc đó mới hiểu biết tất cả thế giới xung quanh mình để
dần dần chiếm lĩnh nó. Đối tượng nhận thức rất rộng lớn, khát vọng rất cao xa nhưng

trình độ hiểu biết lại thấp kém, do đó họ phải dùng tưởng tượng và mượn tưởng tượng
để thoả mãn những yêu cầu đó và dẫn tới sự giải thích sai lầm Bất cứ thần thoại nào
cũng dùng tưởng tượng và mượn tưởng tượng để chinh phục sức tự nhiên [Mác] Thần thoại là nghệ thuật vô ý thức. Người nguyên thủy chưa có ý thức làm nghệ thuật,
họ chỉ mượn tưởng tượng để khám phá những bí ẩn của vạn vật - gắn liền với mục
đích rất thực dụng.
Người nguyên thuỷ do sống phụ thuộc vào tự nhiên chui rúc trong hang đá,
cuộc sống tối tăm sinh ra tâm lý sùng bái tự nhiên. Những hình thức tín ngưỡng của
người nguyên thuỷ: tô tem giáo [thờ vật tổ] và bái vật giáo [thờ núi, sông, cỏ, cây].
Tất cả những điều đó đã hình thành trong con người nguyên thuỷ thế giới
quan đặc biệt: Thần linh chủ nghĩa .Chính thế giới quan đó là cơ sở về mặt ý
thức để người nguyên thuỷ tưởng tượng ra thế giới thần linh trong thần thoại.
b] Quá trình phát triển của thần thoại
Những lớp đầu tiên của của thần thoại có thể xuất hiện rất sớm vào
khoảng cuối thời đại đồ đá giữa hoặc đầu thời đại đồ đá mới nhưng thời kỳ phát
triển rực rỡ nhất của nó là vào giai đoạn cuối cùng, giai đoạn phát triển cao nhất
của thời kỳ công xã nguyên thuỷ - đó là thời kỳ quá độ chuyển tiếp từ thời đại
đồ đá mới sang thời đại đồ đồng tương ứng với bước chuyển từ thị tộc mẫu hệ
và bộ lạc riêng lẻ sang hình thức liên minh bộ lạc, bộ tộc theo chế độ phụ hệ.
Khi tư duy con người phát triển, sự hiểu biết ngày càng nâng cao, thế giới quan
thần linh bị phá vỡ thì thần thoại cũng bị tiêu vong - thần thoại là thể loại một
đi không trở lại trong lịch sử. Vì vậy, ngày nay không còn thần thoại mà chỉ có
tác phẩm mang tính chất thần thoại.
2. Truyền thuyết
a] Nguồn gốc: Truyền thuyết ra đời trên cơ sở của thần thoại và gắn với
nhu cầu nhằm nhận thức lịch sử của con người khi bước vào thời kỳ văn minh.
Do vậy những dấu tích của thể loại vẫn tồn tại ở một số truyền thuyết, cụ thể ở
những yếu tố kỳ diệu [Họ Hồng Bàng, Lạc Long Quân - Âu Cơ...].
Truyền thuyết đã kế thừa thần thoại và đổi mới cho phù hợp với nhu cầu
nhận thức và lý giải lịch sử. Đến truyền thuyết con người đã có ý thức làm nghệ
thuật.
b] Quá trình phát triển

Truyền thuyết phát triển theo tiến trình lịch sử của từng dân tộc. Do ý
thức về lịch sử là vấn đề luôn được đặt ra trong các thời đại cho nên hiện tại
truyền thuyết vẫn có thể xuất hiện.
Truyền thuyết với ý nghĩa chân chính của nó được thể hiện tập trung và rõ
nét nhất ở thời kỳ Văn lang - Âu Lạc. Bộ phận truyền thuyết này mang tính cổ
điển mẫu mực nhất. Vì vậy khi tìm hiểu truyền thuyết dân tộc Việt chủ yếu xem
xét ở giai đoạn này.
III- NỘI DUNG VÀ Ý NGHĨA CỦA THẦN THOẠI VÀ TRUYỀN THUYẾT
1. Thần thoại
a] Giá trị hiện thực
- Thần thoại tuy mang đậm tích chất hoang đường kỳ ảo nhưng không
phải vì thế mà không mang tính hiện thực. Nếu xẻ bỏ bức màn thần linh chủ
nghĩa phủ dày lên thần thoại thì hiện ra thấp thoáng cuộc sống lao động và chiến
đấu của người xưa. Đó chính là cuộc sống phải chiến đấu với kẻ thù bốn chân
và hai chân để bảo tồn cuộc sống.
Ẩn sau hình bóng các vị thần do người nguyên thuỷ tưởng tượng ra vẫn là
bóng dáng của con người. VD: Thần trụ trời để làm công việc xây dựng kiến
thiết cột trụ trời thì cũng phải lao động như con người. Truyện này nhằm giải
thích tại sao trời đất phân hai, tại sao có núi non, sông hồ trên biển cả. Truyện
Thần trụ trời có thể xem là một bài ca về lao động của người Việt cổ. Tiếp sau
Thần trụ trời có hàng loạt các vị thần khác xuất hiện. Ông đếm cát... những vị
thần này đều có tầm vóc vũ trụ với những hành động siêu nhiên nhưng đều được
chế tác từ chính bản thân con người. Vì thế trong tay thần phải có công cụ mới
làm việc được. Công cụ của thần xây rú là đôi quang gánh nhưng gióng được
bện bằng tóc của thần, đòn gánh nhổ bằng cây cổ thụ. Thần sét: trong tay có lưỡi
tấm sét, thần mưa: vòi phun, thần gió có quạt.
Tuy là thần linh nhưng cũng có những nhầm lẫn, ngộ nghĩnh như con
người. Thần mưa hút nước linh tinh, thần gió vô ý gây nên bão gió bất ngờ. Vị
sứ thần nghễnh ngãng đảng trí gây ra hiện tượng cỏ nhiều hơn lúa.
Rõ ràng, nếu không có cuộc sống con người thì không có thế giới thần
linh trong thần thoại. Thế giới thần linh trong thần thoại chính là hình bóng của
tự nhiên và xã hội mà con người sinh sống vào buổi sơ khai.
Giá trị phản ánh hiện thực của thần thoại còn được thể hiện ở trạng thái
sinh hoạt có tính nguyên thuỷ của con người thời đó. Đó là một xã hội chưa có

giai cấp nên quan hệ giữa các thần là bình đẳng. Dần dần từ nhất thần tiến tới đa
thần đã phản ánh sự tiến hoá của xã hội nguyên thuỷ từ bình đẳng phân ra đẳng
cấp, từ bộ lạc sang bộ tộc.
Trong một số truyện thần thoại nó đã thể hiện tính chất duy vật và tư
tưởng dân chủ thô sơ mộc mạc. Hai truyện Cuộc tu bổ các loài vật và Việc
làm ra lúa ra bông cho thấy người xưa quan niệm rằng vật chất thì phải sinh ra
từ vật chất. Cuộc thảo luận bàn bạc giữa các loài vật trong truyện Việc làm ra
lúa ra bông thể hiện tính dân chủ của người xưa. Tạo ra ý nghĩa lớn lao về mặt
triết học đưa đến cho chúng ta bài học bổ ích và lý thú về tình yêu cuộc sống,
niềm lạc quan yêu đời, thái độ tôn trọng lao động.
Thần thoại rõ ràng có giá trị phản ánh hiện thực nhưng còn mờ mạt ở tư
tưởng con người đã tự đánh rơi mất mình nhường chỗ cho thế giới thần linh.
b] Tính chất lãng mạn
Khát vọng chinh phục thiên nhiên, khám phá những bí ẩn vũ trị và mơ
ước muốn có một cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn đã tạo nên tính chất lãng
mạn và bay bổng của thần thoại. Chính khát vọng và ước mơ là nguồn động lực
thôi thúc người nguyên thuỷ sáng tạo ra các vị thần lãng mạn là nguồn gốc của
thần thoại. So với giá trị phản ánh hiện thực tính chất lãng mạn của thần thoại
đậm nét hơn, nổi bật hơn. Tuy nhiên, lãng mạn trong thần thoại vẫn bắt nguồn từ
đời sống hiện thực.
+ Khát vọng chinh phục thiên nhiên : Đây là khát vọng vô cùng tạo bạo,
nó xuất phát từ trình độ hiểu biết hết sức thấp kém của người nguyên thuỷ.
Muốn chế ngữ và giải thích hiện tượng lũ lụt thì hình tượng Sơn Tinh - Thuỷ
Tinh ra đời.
Chính việc người nguyên thuỷ trong điều kiện trình độ thấp kém, muốn
khám phá nguồn gốc muôn loài, muôn vật đã tạo ra tính lãng mạn cho thần
thoại. Loại truyện giải thích nguồn gốc muôn loài, muôn vật gọi là thần thoại
suy nguyên.
+ Ước mơ có cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn : tác giả dân gian tưởng
tượng ra nữ thần nghề mộc dạy dân làm nhà cửa, hạt lúa bằng cái đầu, củ khoai
nằm trên đất và nứa chỉ là một cái ống đầy nước ngọt...
+ Ước mơ cuộc sống bất tử: Muốn làm thằng Cuội, Rắn già rắn lột...
Tính chất lãng mạn trong thần thoại tuy cao xa nhưng không viễn vông.
Nó có ý nghĩa tích cực và cách mạng. Như Goócki nói đó là một thứ lãng mạn

rất quý vì nó góp phần thức tỉnh tinh thần cách mạng đối với thực tế và xây
dựng thái độ thiết thực đối với vũ trụ. Những ước mơ khát vọng trong thần thoại
đến thời đại ngày nay trở thành hiện thực.
2. Truyền thuyết
Truyền thuyết thực chất là sự nhìn nhận đánh giá của nhân dân đối với các
sự kiện và các nhân vật lịch sử.
a] Tiếng vọng xa xưa của lịch sử về nguồn gốc dân tộc và sự hình
thành Nhà nước:
Họ Hồng Bàng là truyền thuyết gồm nhiều truyện xâu chuỗi, liên kết
thành, trong đó có Con rồng cháu tiên, Sự tích bọc trăm trứng... trung tâm là
Lạc Long Quân - Âu Cơ. Nó phản ánh cách giải thích của nhân dân về nguồn
gốc dân tộc ta.
- Truyện Con rồng cháu tiên cho thấy dân tộc ta có nguồn gốc kì lạ: từ
sự hôn phối bố rồng mẹ tiên. Cách giải thích ấy tuy hoang đường nhưng mang giá
trị hiện thực phản ánh sâu sắc ý thức lòng tự hào dân tộc của người Việt cổ.
Đ.G.Khánh: Dân tộc ta không sinh ra từ bọc trăm trứng nhưng truyện Bọc trăm
trứng nhất thiết sinh ra từ lịch sử dân tộc ta. Tiếp đó tác giả giải thích nguồn gốc tên
gọi đất nước Văn Lang, phản ánh ý thức về chủ quyền dân tộc.
- Ba mẩu truyện còn lại của Họ Hồng Bàng: Lạc Long Quân diệt Ngư
tinh, Hồ tinh, Mộc tinh nhằm cơ ngợi chiến công của Lạc Long Quân trên ba
vùng biển, núi, đồng bằng. Đây là sự phản ánh cuộc chiến đấu để ổn định địa
bàn cư trú của ta.
b] Truyền thuyết phản ánh công cuộc dựng nước, giữ nước, biểu
dương sức mạnh của dân tộc và ca ngợi những anh hùng có công với nước.
- Tháng Gióng là truyện có tính chất mẫu mực nhất trong bộ phận
truyền thuyết chống ngoại xâm. Thánh Gióng là khúc tráng ca ca ngợi sức mạnh
của cuộc chiến tranh nhân dân - biểu tượng của người chiến sĩ xuất trận.
- An Dương Vương cách Thánh Gióng 2000 năm - An Dương Vương ra
đời vào cuối xã hội Âu Lạc. Chủ đề An Dương Vương rất phức tạp.
Tóm lại, từ trong truyền thuyết dân gian chúng ta luôn tìm thấy cội nguồn
sức mạnh làm nên chiến thắng của dân tộc ta. Những hình tượng trong truyền
thuyết như Thánh Gióng, Lạc Long Quân, Lê Lợi thường có sức khái quát rộng
lớn, vừa có tác dụng phục vụ hiện tại, vừa có ý nghĩa phục vụ lâu dài. Vì vậy

mỗi khi cần động viên, biểu dương sức mạnh dân tộc thì chúng ta lại trở về với
cội nguồn truyền thuyết.

IV - THI PHÁP THẦN THOẠI VÀ TRUYỀN THUYẾT
- Thi pháp là gì? Bắt nguồn từ thuật ngữ poeticque nghệ thuật thơ của
Arixtốt là một phạm trù vừa là hình thức vừa là nội dung. Thi pháp là hình thức
mang tính quan niệm.
1. Thần thoại
Trong thần thoại tác giả dân gian đã quan niệm về thế giới như thế nào thì
sẽ có một hình thức biểu đạt như thế ấy.
* Hình tượng:
- Các vị thần trong thần thoại được đồ chiếu theo dạng người và biện pháp
chủ yếu là người cách hoá.
- Các nhân vật trong thần thoại nhìn chung đều vô tư, chất phác chưa có
nội tâm, chỉ là nhân vật hành động. Đây là kiểu nhân vật chức năng chứ không
phải nhân vật tính cách.
* Cốt truyện: Đơn giản, ít tình tiết, không có mâu thuẫn trực tiếp
* Thời gian nghệ thuật: Buổi hồng hoang của lịch sử loài người
* Không gian nghệ thuật :
2. Truyền thuyết
Đến truyền thuyết nhân dân có ý thức làm nghệ thuật thực sự.
* Cốt truyện: Phức tạp hơn nhiều, chi tiết hơn thần thoại.
An Dương Vương giống như caí mạng nhện xoay quanh một nhân vật
trung tâm là vua chủ
* Kết cấu: Thường có kết cấu chuỗi chùm một truyền thuyết hoàn chỉnh
do nhiều mẫu truyện xâu lại.
* Thời gian nghệ thuật: Thường là thời gian có tính xác định gắn liền
với mốc sự kiện lịch sử Vào thời Hùng Vương thứ....
* Không gian nghệ thuật : Gắn với tên đất tên làng cụ thể có tính xác
định: núi Mộ Dạ, thành Cổ Loa...Xuất phát từ đặc điểm này người ta chia truyền
thuyết thành 2 loại:
+ Sự kiện có thật nhưng nhân vật hư cấu: Thành Gióng.
+ Sự kiện và nhân vật đều có thật : An Dương Vương.

Chủ Đề