Các ngân hàng tăng vốn năm 2022

SeABank vừa chốt danh sách cổ đông để trả cổ tức bằng cổ phiếu và phát hành cổ phiếu để tăng vốn từ nguồn vốn chủ sở hữu. Tỷ lệ thực hiện quyền nhận cổ tức là 12,73%; tỷ lệ thực hiện quyền nhận cổ phiếu phát hành để tăng vốn từ nguồn vốn chủ sở hữu là 6,6%. NHNN đã chấp thuận cho OCB tăng vốn điều lệ thêm gần 59 tỷ đồng. Trong đó, tăng vốn điều lệ thêm 50 tỷ đồng thông qua phát hành cổ phiếu theo chương trình lựa chọn cho người lao động [ESOP] và thêm 8,82 tỷ đồng thông qua phát hành cổ phiếu riêng lẻ cho nhà đầu tư nước ngoài [ngân hàng Aozora – Nhật Bản] theo phương án tăng vốn điều lệ đã được ĐHĐCĐ thường niên 2022 thông qua. VietCapitalBank cũng dự kiến tăng vốn thêm tối đa hơn 1.618 tỷ đồng, nâng vốn điều lệ đạt khoảng 5.289 tỷ đồng. Phía các NHTM có vốn nhà nước cũng lên kế hoạch tăng vốn khủng trong năm 2022. Trong đó, BIDV có kế hoạch tăng vốn điều lệ thêm tới 10.623 tỷ đồng lên mức 61.208 tỷ đồng, tương đương tăng 21%. Vietcombank có kế hoạch tăng vốn điều lệ thêm gần 8.566 tỷ đồng, để đưa vốn điều lệ từ 47.325 tỷ đồng lên 55.891 tỷ đồng…

Các ngân hàng vẫn còn nhiều dư địa để nâng vốn, cải thiện chỉ số CAR

Thống kê sơ bộ có tới hơn 20 nhà băng lên kế hoạch tăng vốn trong 2022, nhưng mới chỉ ít ngân hàng hoàn thành xong như VIB, ACB... Như vậy, từ nay đến cuối năm sẽ chứng kiến cuộc đua tăng vốn diễn ra dồn dập. Việc các ngân hàng liên tục thực hiện tăng vốn, theo chia sẻ của Tổng giám đốc OCB Nguyễn Đình Tùng nhằm bổ sung vốn cho hoạt động kinh doanh, giúp ngân hàng nâng cao năng lực tài chính, tăng hệ số an toàn vốn [CAR]. Vốn ngân hàng như gối đệm giữ chỉ số CAR luôn ở mức an toàn. Nhất là trong bối cảnh thị trường có nhiều biến động ngân hàng càng cần củng cố hệ số CAR để có thể vững vàng trước sóng gió thị trường.

Theo số liệu từ NHNN, tính đến cuối tháng 3/2022, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu áp dụng theo Thông tư 41/2016/TT-NHNN đạt khoảng 11,52%. Vốn hoá các ngân hàng Việt Nam được cải thiện đáng kể những năm gần đây. Tuy nhiên, nếu so với các ngân hàng quốc tế và mức trung bình của khu vực thì tỷ lệ này của ngân hàng Việt vẫn ở mức thấp. Hơn nữa trong thời gian tới, khi cầu tín dụng tăng theo đà phục hồi của nền kinh tế sẽ dẫn đến khả năng tỷ lệ CAR của các ngân hàng trong hai, ba năm tới giảm, nếu ngân hàng không có lộ trình tăng vốn phù hợp.

Đánh giá về nhu cầu vốn của các ngân hàng Việt Nam, ông Mohammad Mudasser - Giám đốc dịch vụ tư vấn, PwC Việt Nam cho biết, vốn ngân hàng vẫn mỏng, có khả năng làm ảnh hưởng đến việc hiện thực hóa các mục tiêu tăng trưởng tín dụng và gắn với hỗ trợ tăng GDP. Theo ước tính của Fitch, nhu cầu vốn bổ sung của hệ thống ngân hàng tại Việt Nam sẽ tăng lên 10,7 tỷ USD [2,9% GDP] nếu các ngân hàng tăng mức dự phòng rủi ro cho vay để bù đắp các khoản thất thoát tiềm ẩn. Ông Tamma Febrian - Giám đốc hợp danh, các định chế tài chính, ngân hàng của Fitch Ratings nhận định, tăng trưởng tín dụng tại Việt Nam những năm gần đây rất nhanh đòi hỏi quy mô vốn của các ngân hàng cũng phải mở rộng, đảm bảo các tỷ lệ về an toàn. Hơn thế, Việt Nam là một nền kinh tế đang phát triển, các ngân hàng vẫn còn nhiều dư địa để nâng vốn, cải thiện chỉ số CAR.

Tại Đề án Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021 – 2025 cũng đặt ra yêu cầu các TCTD phải có biện pháp bảo đảm có số vốn điều lệ tương ứng với từng quy mô đến năm 2025. Cụ thể, theo Đề án, nhóm NHTM trong nước có tiềm lực tài chính, năng lực cạnh tranh, quy mô lớn có vốn điều lệ tối thiểu đạt 15.000 tỷ đồng; nhóm NHTM trong nước có tiềm lực tài chính, năng lực cạnh tranh, quy mô nhỏ và trung bình, vốn điều lệ tối thiểu đạt 5.000 tỷ đồng... Như vậy, tăng đủ vốn không chỉ là yêu cầu bắt buộc đối với các ngân hàng trong ngắn hạn mà cả trong trung, dài hạn. Nhưng việc các ngân hàng có thực hiện tăng vốn được như kế hoạch đặt ra trong năm 2022 hay không, theo giới chuyên môn phụ thuộc vào nhiều biến số từ kinh tế vĩ mô, thị trường chứng khoán...

Theo một chuyên gia ngân hàng, mức độ tăng vốn năm 2022 có thể sẽ thấp hơn so với năm 2021. Vì hoạt động kinh doanh ngân hàng năm nay có thể không bằng năm trước do NIM giảm nhẹ, ngân hàng tăng cường trích lập dự phòng cho các khoản nợ cơ cấu nên nguồn lợi nhuận giữ lại tăng vốn không được nhiều. Hiện tại giải pháp tăng vốn được các ngân hàng thực hiện chủ yếu là chia cổ tức bằng cổ phiếu. Đây cũng là yêu cầu của cơ quan quản lý. Tuy nhiên, thị trường chứng khoán đang trong giai đoạn điều chỉnh, giá cổ phiếu ngân hàng cũng như cổ phiếu nhiều ngành, lĩnh vực khác chịu áp lực giảm điểm cũng phần nào ảnh hưởng đến lộ trình tăng vốn của ngân hàng. Vì ngân hàng chia cổ tức bằng cổ phiếu thì sẽ bị pha loãng, tạo áp lực giảm giá lên cổ phiếu.

“Vẫn biết là sức ép lên thị giá cổ phiếu, nhưng chia cổ tức bằng cổ phiếu là giải pháp khả dĩ nhất để các ngân hàng tăng vốn được thành công trong giai đoạn này”, vị chuyên gia này nhìn nhận.

Ngoài trả cổ tức bằng cổ phiếu, các ngân hàng còn lựa chọn thêm nhiều giải pháp tăng vốn điều lệ, như qua phát hành cổ phiếu theo Chương trình lựa chọn dành cho CBNV, phát hành cổ phiếu riêng lẻ... Song để có nguồn lực tài chính vững vàng phục vụ cho nhu cầu dài hơi hơn, một chuyên gia ngân hàng khuyến nghị, các ngân hàng tích cực gọi vốn ngoại, lấp đầy room ngoại. Trong thời gian vừa qua, hoạt động ngân hàng Việt Nam khá vững trước những biến động, củng cố niềm tin nhà đầu tư. Minh chứng là các tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc tế vẫn đánh giá tích cực các ngân hàng Việt. Đơn cử, mới đây Vietcombank được S&P nâng xếp hạng tín nhiệm từ mức “BB-” lên mức “BB”. Trên thị trường chứng khoán các NĐT ngoại tích cực gom cổ phiếu ngân hàng, việc này cho thấy nhóm ngành này vẫn giữ được sức hấp dẫn. “Đây là cơ hội thuận lợi để các ngân hàng gọi vốn ngoại”, vị này nhấn mạnh.

Phát hành cổ phiếu để chia cổ tức, chào bán riêng lẻ, phát hành cổ phiếu cho nhà đầu tư chiến lược nước ngoài… là những kịch bản tăng vốn đã được thông qua trong mùa đại hội cổ đông. Lý giải nguyên nhân việc các nhà băng dồn dập tăng vốn, các chuyên gia ngân hàng cho biết động lực chính là các ngân hàng phải đáp ứng yêu cầu an toàn vốn theo tiêu chuẩn Basel II, xa hơn là Basel III.

Theo nghiên cứu của tổ chức xếp hạng tín nhiệm Fitch Ratings, trước đợt tăng vốn này tỷ lệ an toàn vốn CAR của các ngân hàng quốc doanh ở mức 9,2%, còn khối ngân hàng cổ phần là 11,4%. Theo tổ chức này, quy mô vốn của các ngân hàng Việt có thể tăng thêm khoảng 10,7 tỷ USD trong 2 - 3 năm tới để đạt các tỷ lệ an toàn hoạt động theo quy định.

Ông Tamma Febrian - Giám đốc hợp danh - Các định chế tài chính, ngân hàng - Fitch Ratings cho biết: "Tăng trưởng tín dụng tại Việt Nam rất nhanh những năm gần đây đòi hỏi quy mô vốn của các ngân hàng cũng phải mở rộng, đảm bảo các tỷ lệ về an toàn. Quan điểm của chúng tôi là Việt Nam là một nền kinh tế đang phát triển, các ngân hàng vẫn còn nhiều dư địa để nâng vốn, cải thiện chỉ số CAR".

Hiện nay, theo chuẩn mực Basel II được các hệ thống ngân hàng trên thế giới áp dụng phổ biến thì hệ số an toàn vốn [CAR] là 8%. Ở Việt Nam, theo thông tư 36/2014/TT – NHNN, tỷ lệ này được quy định là 9%. Đến cuối năm 2016, NHNN ban hành thông tư số 41/2016/TT – NHNN giảm tỷ lệ tối thiểu xuống 8% như quy định của Basel II.

Với Basel III, hệ số CAR tính theo Basel III so với Basel II mặc dù vẫn yêu cầu ở mức độ 8%, tuy nhiên tỷ lệ của loại vốn có chất lượng cao được tăng lên: Tỷ lệ vốn cấp 1 tăng từ 4% trong Basel II lên 6% trong Basel III, đồng thời tỷ lệ vốn của cổ đông thường được tăng từ 2% lên 4%. Những tài sản “Có” vốn có vấn đề được loại trừ khỏi Vốn tự có như khoản đầu tư vượt quá giới hạn 15% vào các tổ chức tài chính.

Ngoài ra, Basel III còn đưa ra tiêu chuẩn thanh khoản đối với các ngân hàng. Quy định này yêu cầu ngân hàng nắm giữ các tài sản có tính thanh khoản cao và có chất lượng cao để đáp ứng nhu cầu chi trả trong những trường hợp khó khăn.

Thứ tự về quy mô vốn của các ngân hàng trên thị trường nhiều xáo trộn

Theo thống kê, trong số 27 ngân hàng trên sàn, có tới 17 ngân hàng trình kế hoạch tăng vốn, với tổng lượng tăng thêm khoảng 2,8 tỷ USD.

Nếu việc tăng vốn được thực hiện đúng kế hoạch, thứ tự về quy mô vốn của các ngân hàng trên thị trường sẽ có sự xáo trộn và vị trí dẫn đầu sẽ thuộc về VPBank sau rất nhiều năm các ngân hàng thương mại cổ phần quốc doanh nắm giữ. Bức tranh hoạt động của các ngân hàng vì thế cũng sẽ có nhiều thay đổi.

Cụ thể, ngân hàng Thương mại cổ phần Việt Nam Thịnh vượng - VPBank là ngân hàng có phương án tăng vốn điều lệ lớn nhất hệ thống lên tới 79.000 tỷ đồng, tăng 76% so với năm trước. Kế hoạch tăng vốn sẽ được thực hiện thông qua hoạt động phát hành cổ phiếu cho cán bộ nhân viên [ESOP], chia cổ tức bằng cổ phiếu từ nguồn lợi nhuận chưa phân phối và chào bán riêng lẻ cho nhà đầu tư nước ngoài. Năm ngoái, ngân hàng này đã tăng vốn điều lệ từ hơn 25.000 tỷ đồng lên 45.000 tỷ đồng. Như vậy, 2022 sẽ là năm thứ 2 liên tiếp VPBank đẩy mạnh hoạt động tăng vốn điều lệ.

Tiếp đến, 3 ngân hàng thương mại có vốn Nhà nước cũng thông báo tăng vốn điều lệ trong năm nay. Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam - BIDV đã trình cổ đông kế hoạch tăng vốn điều lệ thêm 10.623 tỷ đồng để lên mức 61.208 tỷ đồng, tương đương với mức tăng 21% trong năm 2022 bằng việc phát hành cổ phiếu để trả cổ tức năm 2021 với tỷ lệ chia cổ tức là 12% và phát hành cổ phiếu riêng lẻ.

Cùng với đó, Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam - Vietcombank tăng vốn điều lệ năm 2022 thông qua phát hành cổ phiếu trả cổ tức năm 2019 và 2020 với gần 856,6 triệu cổ phiếu theo tỷ lệ 18,1%. Dự kiến sau khi hoàn tất phát hành, vốn điều lệ của ngân hàng sẽ tăng thêm gần 8.566 tỷ đồng, từ 47.325 tỷ đồng lên 55.891 tỷ đồng.

Trong khi đó, VietinBank đã được cổ đông thông qua phương án tăng vốn điều lệ từ 48.057 tỷ đồng lên 53.751 tỷ đồng với việc phát hành hơn 569 triệu cổ phiếu để chia cổ tức, tương đương tỷ lệ 11,85%.

Đối với các ngân hàng tầm trung, hầu hết cũng đều có kế hoạch tăng vốn điều lệ trong năm nay. Đơn cử như Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân đội - MB năm nay có kế hoạch tăng vốn điều lệ từ 37.783 tỷ đồng lên 46.882 tỷ đồng với tỷ lệ chia cổ phiếu ở mức 20%. Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn - Hà Nội SHB tăng từ 26.673 tỷ đồng lên 36.007 tỷ đồng.

Ngân hàng Thương mại cổ phần Đông Nam Á - SeABank tăng từ 16.598 tỷ đồng lên 22.690 tỷ đồng. Ngân hàng Thương mại cổ phần Phát triển TP HCM - HDBank đã đưa ra phương án tăng vốn điều lệ thêm gần 5.231 tỷ đồng thông qua hai đợt phát hành cổ phiếu để chia cổ tức năm 2021 theo tỷ lệ 25% và nâng tổng vốn điều lệ lên 25.503 tỷ đồng, tăng 27% so với hiện tại.

Ngân hàng Thương mại cổ phần Tiên Phong - TPBank tăng mạnh vốn điều lệ thêm hơn 5.300 tỷ đồng lên mức 21.143 tỷ đồng. Ngân hàng Thương mại cổ phần Hàng Hải - MSB cũng dự kiến chia cổ phiếu thưởng cho cổ đông là 30% nhằm tăng vốn điều lệ lên 20.000 tỷ đồng.

Video liên quan

Chủ Đề