Vượt đèn đỏ là lỗi có ý hay vô ý

Lỗi vô ý và lỗi cố ý trong Bộ luật hình sự như thế nào ? Phân biệt làm rõ yếu tố lỗi là vô ý hay cố ý là một trong những vấn đề quan trọng nhất trong hình sự.

Các khái niệm 

Trước khi phân biệt lỗi vô ý hay lỗi cố ý, trước tiên chúng ta cần xem khái niệm của các loại lỗi.

Lỗi vô ý

Lỗi vô ý là lỗi của một người trong đó chủ thể không lựa chọn hành vi phạm tội nhưng trên thực tế đã gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội

Lỗi cố ý

Lỗi cố ý là lỗi mà trong đó chủ  thể lựa chọn hành vi phạm tội và thực hiện hành vi đó.

Quy định trong bộ luật hình sự

– Lỗi vô ý theo quy định tại Điều 10 Bộ luật hình sự 2015

Cố ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp sau đây:

1. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội; thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra;

2. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội; thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra; tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.

– Lỗi cố ý theo quy định tại Điều 11 Bộ luật hình sự 2015

Vô ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp sau đây:

1. Người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được.

2. Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội; mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.

Phân loại lỗi 

– Lỗi vô ý: Có 2 dạng lỗi vô ý: Lỗi vô ý vì quá tự tin và Lỗi vô ý vì cẩu thả

+ Vô ý phạm tội vì quá tự tin: là lỗi của người trong trường hợp thấy trước hành vi của mình có thể gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được; vì vậy đã thực hiện hành vi và gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội

Về lý trí: người phạm tội thấy trước hành vi của mình có thể gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội tức là chủ thể nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội từ chính hành vi mà mình thực hiện.

Về ý chí: người phạm tội không mong muốn hành vi của mình gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội

+ Vô ý phạm tội vì cẩu thả: là lỗi của 1 người trong trường hợp gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội vì cẩu thả đã không thấy trước hậu quả đó mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước được

– Lỗi cố ý: Có 2 dạng lỗi cố ý:  Lỗi cố ý trực tiếp và Lỗi cố ý gián tiếp

+ Lỗi cố ý trực tiếp là lỗi của 1 người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội; nhận thức rõ hành vi của mình là có tính nguy hiểm cho xã hội; thấy trước hậu quả của hành vi đó

Về lý trí: đối với lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội nhận thức rõ; đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi cũng như thấy trước hậu quả sẽ xảy ra nếu thực hiện hành vi đó.

Về ý chí: người phạm tội mong muốn hậu quả phát sinh. Tức là hậu quả của hành vi phạm tội mà người phạm tội đã thấy trước hoàn toàn phù hợp với mục đích và phù hợp với dự mong muốn của người đó

+ Lỗi cố ý gián tiếp: là lỗi của 1 người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhận thức rõ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình; thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra; tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc hậu quả xảy ra

Về lý trí: họ cũng nhận thức rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình; cũng thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà họ có thể gây ra

Về ý chí; người phạm tội không mong muốn hậu quả đó mà họ có thái độ để mặc cho nó xảy ra. Tuy nhiên; họ mong muốn hành vi nguy hiểm được thực hiện để đạt được mục đích khác của họ. Vì vậy, họ chấp nhận hậu quả xảy ra khi thực hiện hành vi.

>> Xem thêm: Tội vô ý làm chết người là gì? Và sẽ bị xử phạt như thế nào?

Trên đây là tư vấn của LawKey về phân biệt lỗi vô ý và lỗi cố ý. Để biết thêm thông tin chi tiết hãy liên hệ với chúng tôi để được tư vấn.

Vượt đèn vàng, phạt như vượt đèn đỏ

Nghị định 46/2016 có hiệu lực từ ngày 1-8 quy định tăng mức phạt lên 1.200.000-2.000.000 đồng cho ô tô và 300.000-400.000 đồng cho xe máy đối với người điều khiển xe không chấp hành hiệu lệnh của đèn tín hiệu giao thông

Cũng theo Nghị định 46/2016 về xử phạt vi phạm giao thông trong lĩnh vực đường bộ, khi tham gia giao thông, người điều khiển phương tiện vượt đèn vàng sẽ bị xử phạt như vượt đèn đỏ.

Có thể gây tai nạn

Bàn luận về vấn đề này, luật sư Cao Thế Luận [Đoàn Luật sư TP HCM] cho rằng mỗi tín hiệu đèn có một tính chất và ý nghĩa riêng. “Tính chất lỗi của vượt đèn vàng nhẹ hơn mức độ lỗi của vượt đèn đỏ nên Nghị định 171/2013 quy định mức phạt vượt đèn vàng thấp hơn mức phạt vượt đèn đỏ. Nếu quy định 2 mức phạt như nhau cũng có nghĩa mức độ lỗi cố ý vượt đèn như nhau. Trên thực tế, rất khó để xác định thế nào, khi nào được coi là vượt đèn vàng, ranh giới trước vạch và qua vạch dừng” - luật sư Luận phân tích.

Cũng theo luật sư Luận, nếu quy định mức phạt vượt đèn vàng cao bằng vượt đèn đỏ sẽ dẫn đến tâm lý khi bất ngờ phát hiện đèn xanh sắp chuyển sang tín hiệu đèn vàng, người điều khiển phương tiện giao thông sẽ dừng lại để tránh không vi phạm lỗi vượt đèn vàng vì mức phạt tiền quá cao. Khi đó, tai nạn giao thông còn xảy ra nhiều hơn khi người phía sau vẫn còn đang di chuyển trong phạm vi đèn xanh.

“Phạt như vậy là vô hiệu đèn vàng. Màu vàng tượng trưng cho việc cảnh báo, chú ý; màu đỏ dùng cho các biển cấm, biển cảnh báo. Như vậy, đèn vàng là để giảm tốc độ và cẩn thận chứ không phải để phạt nặng. Một số nước trên thế giới, trong đó có nước Pháp, người ta không quy định về việc phạt đối với lỗi vượt tín hiệu đèn vàng” - luật sư Luận nhấn mạnh.

Văn hóa giao thông ở nước ta còn kém Ảnh: Hoàng Triều

Dễ nảy sinh cự cãi

Cùng quan điểm, luật sư Nguyễn Đức Chánh [Đoàn Luật sư TP HCM] cho rằng theo quy định tại điểm c, khoản 3, điều 10 Luật Giao thông đường bộ năm 2008, “tín hiệu vàng là phải dừng lại trước vạch dừng, trừ trường hợp đã đi quá vạch dừng thì được đi tiếp. Trong trường hợp tín hiệu vàng nhấp nháy là được đi nhưng phải giảm tốc độ, chú ý quan sát, nhường đường cho người đi bộ”.

Theo đó, tín hiệu đèn vàng có tác dụng bổ trợ cho đèn đỏ và làm tiền đề để các phương tiện tham gia giao thông nhận biết, giảm tốc độ trước khi dừng hẳn ở đèn đỏ. Ở nước ta, tín hiệu đèn vàng thường kéo dài từ 1-3 giây, có nơi 5 giây trước khi chuyển sang đèn đỏ. Như vậy, có 2 trường hợp đối với đèn vàng: một là người tham gia giao thông đã thấy tín hiệu đèn vàng thì phải dừng lại trước vạch dừng. Nếu vượt qua tín hiệu đèn vàng thì lúc này được xem là vượt đèn vàng, có thể bị xử phạt theo quy định mới. Trường hợp thứ hai là vừa qua vạch dừng thì tín hiệu giao thông chuyển sang vàng, lúc này người điều khiển phương tiện giao thông được phép đi tiếp, không có sự vi phạm nào.

“Việc phân biệt giữa 2 trường hợp này có hay không có sự vi phạm tưởng chừng dễ dàng nhưng trên thực tế, ranh giới giữa chúng rất mong manh. Các nhà làm luật đang có sự đánh đồng tín hiệu đèn vàng và đèn đỏ là một, dẫn tới việc áp dụng quy định này là không khả thi” - luật sư Chánh nói.

Theo luật sư Chánh, với văn hóa giao thông ở nước ta hiện nay còn kém, tình trạng phóng nhanh, vượt ẩu, không chấp hành hiệu lệnh giao thông phổ biến trong khi các phương tiện hỗ trợ việc phát hiện vi phạm giao thông còn hạn chế thì việc quy định người điều khiển phương tiện vượt đèn vàng sẽ bị xử phạt như vượt đèn đỏ là bất cập, không hiệu quả, dễ nảy sinh cự cãi giữa người điều khiển giao thông và người điều khiển phương tiện tham gia giao thông.

“Một thực tế nữa là khi thấy đèn vàng, thay vì giảm tốc độ và dừng trước vạch, người tham gia giao thông càng tăng tốc để vượt qua ngã ba, ngã tư nên nếu người tham gia giao thông phía trước chấp hành đúng quy định sẽ bị người tham gia giao thông phía sau va quệt, gây tai nạn… Nghị định 46 “đánh” vào túi tiền để nâng cao ý thức của người tham gia giao thông nhưng rất có thể tạo những tình huống khó xử, nguy hiểm khi tham gia giao thông. Khi ý thức tham gia giao thông như nhau, quy định pháp luật sẽ được áp dụng một cách hiệu quả, còn không sẽ tạo ra bất cập” - luật sư Chánh phân tích.

Mức phạt tăng cao

Theo Nghị định 46/2016, xử phạt vi phạm giao thông đối với người điều khiển ô tô và các loại xe tương tự ô tô vượt đèn vàng, đèn đỏ từ 1.200.000- 2.000.000 đồng; người điều khiển mô tô, xe máy [kể cả xe máy điện], các loại xe tương tự mô tô và các loại xe tương tự xe máy từ 300.000- 400.000 đồng; người điều khiển máy kéo, xe máy chuyên dùng từ 400.000- 600.000 đồng; người điều khiển, người ngồi trên xe đạp, xe đạp máy, người điều khiển xe thô sơ khác từ 60.000- 80.000 đồng.

Về hành vi vi phạm nồng độ cồn, người điều khiển ô tô vi phạm ở mức cao nhất [mức 3], có thể bị phạt đến 18 triệu đồng và bị tước giấy phép lái xe tối đa 6 tháng; người đi mô tô vi phạm lỗi này, mức phạt cao nhất lên 4 triệu đồng và tước giấy phép lái xe 5 tháng.

Trường Hoàng

Video liên quan

Chủ Đề