Vì sao nho giáo giữ vai trò quan trọng là cơ sở lý luận của chế độ phong kiến trung quốc

Mục lục

  • 1 Quá trình hình thành và phát triển
    • 1.1 Nho giáo nguyên thủy
    • 1.2 Tống Nho
    • 1.3 Phong trào phục hưng Nho giáo
  • 2 Nội dung cơ bản
    • 2.1 Tổ chức xã hội
    • 2.2 Lễ nghi
    • 2.3 Quan hệ xã hội
    • 2.4 Thuật lãnh đạo
    • 2.5 Chữ hiếu và xã hội
    • 2.6 Vai trò của gia đình
    • 2.7 Vai trò của cá nhân
    • 2.8 Tư tưởng về Thế giới đại đồng
    • 2.9 Triết lý giáo dục
  • 3 Ảnh hưởng tại các quốc gia
    • 3.1 Trung Quốc
    • 3.2 Nhật Bản
    • 3.3 Triều Tiên và Hàn Quốc
    • 3.4 Singapore
    • 3.5 Việt Nam
    • 3.6 Mông Cổ
  • 4 Ảnh hưởng lên các tôn giáo khác
    • 4.1 Hồi giáo
    • 4.2 Đạo giáo
    • 4.3 Phật giáo
    • 4.4 Thần giáo
    • 4.5 Công giáo
    • 4.6 Thanh giáo
    • 4.7 Cao Đài giáo
  • 5 Giá trị của Nho giáo
    • 5.1 Trong lịch sử
    • 5.2 Hiện nay
  • 6 Hạn chế của Nho giáo với xã hội
    • 6.1 Tư duy giáo điều
    • 6.2 Tư tưởng chạy theo danh vọng
    • 6.3 Bất bình đẳng xã hội
  • 7 Xem thêm
  • 8 Tham khảo
  • 9 Liên kết ngoài

Quá trình hình thành và phát triển

Trong lịch sử Trung Hoa cổ đại, Nho giáo, Nho gia (đạo Nho) là một thuật ngữ bắt đầu từ chữ Nho, theo Hán tự từ "Nho" gồm từ "Nhân" (người) đứng gần chữ "Nhu". Nho gia còn được gọi là nhà Nho người đã học sách thánh hiền, có thể dạy bảo người đời ăn ở hợp luân thường, đạo lý,... Nhìn chung "Nho" là một danh hiệu chỉ người có học thức, biết lễ nghĩa.

Tại Trung Quốc, Nho giáo độc tôn từ thời Hán Vũ Đế, trở thành hệ tư tưởng chính thống cả về chính trị và đạo đức của Trung Hoa trong hơn 2.000 năm. Từ thế kỷ thứ IV, Nho giáo lan rộng và cũng rất phát triển ở các nước châu Á khác như Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam.

Nho giáo nguyên thủy

Kinh Lễ
Bức chân dung cổ nhất về Khổng Tử do họa sư Ngô Đạo Tử vẽ vào đầu thế kỷ VIII

Cơ sở của Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự đóng góp của Chu Công Đán, còn gọi là Chu Công. Đến thời Xuân Thu, xã hội loạn lạc, Khổng Tử (sinh năm 551 trước Công nguyên) phát triển tư tưởng của Chu Công, hệ thống hóa và tích cực truyền bá các tư tưởng đó. Chính vì thế mà người đời sau coi Khổng Tử là người sáng lập ra Nho giáo.

Thời Xuân Thu, Khổng Tử đã san định, hiệu đính và giải thích bộ Lục kinh gồm có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và Kinh Nhạc. Về sau Kinh Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ kinh thường được gọi là Ngũ kinh. Sau khi Khổng Tử mất, học trò của ngài tập hợp các lời dạy để soạn ra cuốn Luận ngữ. Học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử là Tăng Sâm, còn gọi là Tăng Tử, dựa vào lời thầy mà soạn ra Đại Học. Sau đó, cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp, còn gọi là Tử Tư viết ra cuốn Trung Dung. Đến thời Chiến Quốc, Mạnh Tử đưa ra các tư tưởng mà sau này học trò của ông chép thành sách Mạnh Tử. Bốn sách sau được gọi là Tứ Thư và cùng Ngũ Kinh hợp lại làm 9 bộ sách chủ yếu của Nho giáo và còn là những tác phẩm văn chương cổ điển của Trung Quốc. Từ Khổng Tử đến Mạnh Tử hình thành nên Nho giáo nguyên thủy, còn gọi là Nho giáo tiền Tần (trước đời Tần), Khổng giáo hay "tư tưởng Khổng-Mạnh". Từ đây mới hình thành hai khái niệm, Nho giáo và Nho gia. Nho gia mang tính học thuật, nội dung của nó còn được gọi là Nho học. Nếu xem Nho giáo như một tôn giáo thì Văn Miếu trở thành nơi dạy học kiêm chốn thờ phụng, và Khổng Tử trở thành giáo chủ, giáo lý chính là các tín điều mà các nhà Nho cần phải thực hành. Tuy nhiên, Nho giáo về cơ bản không được xã hội xem như một tôn giáo bởi Nho giáo không trả lời những câu hỏi cần thiết mà một tôn giáo có thể trả lời. Cho tới hiện nay, Nho giáo liệu có phải là một tôn giáo chính thức hay không vẫn là một đề tài tranh luận.

Mục tiêu của Nho giáo nguyên thủy theo sách Đại Học là:

Khổng Tử muốn đến đất Cửu Di để ở, có người nói "Ở đó quá lạc hậu, làm sao mà ở được.". Khổng Tử nói "Có người quân tử ở đó, làm gì còn lạc hậu nữa".[5] Đây là tư tưởng nhập thế của Nho gia. Khổng Tử nói: "Đạo không thể xa lánh người. Nhưng có người muốn thực hành đạo mà lại xa lánh người, như vậy thì không thể thực hành được đạo... Cho nên người quân tử dùng cái đạo lý vốn sẵn có ở người để giáo dục người, lấy cải sửa làm chính, giáo dục mãi cho đến khi thành người mới thôi. Cũng như ta trau chuốt cán rìu vậy, trau chuốt đến mức thành cán rìu mới thôi. Người ta có lỗi mà biết sửa là được rồi, không xa lánh họ nữa.[6]".

Tống Nho

Khởi đầu Hàn Dũ và Lý Ngao (李翱, 772-841) thời nhà Đường có những ý tưởng mới bổ sung cho Nho giáo nguyên thủy của Khổng Tử và Mạnh Tử. Đến thời Tống, Nho giáo có sự phát triển đáng kể. Các nhà triết học thời kỳ này như Thiệu Ung, Chu Đôn Di, Trương Tải, Trình Hạo, Chu Hy, Lục Cửu Uyên, Trần Lượng... đã đưa những khái niệm và triết lý mới vào Nho giáo tạo nên một trường phái Nho giáo có nhiều điểm khác biệt so với Nho giáo nguyên thủy của Khổng Tử và các học trò của ông.

Các học giả Tống Nho khai thác các nội dung của Kinh dịch, Phật giáo, Đạo giáo để giải thích nguồn gốc vũ trụ và các nội dung kinh sách của Nho gia. Họ cho rằng thế giới do "lí" (tinh thần) và "khí" (vật chất) tạo thành, trong đó lí có trước, thuộc về phái duy tâm khách quan theo cách phân loại của phương Tây. Chu Đôn Di (1016-1073) cho rằng nguồn gốc thế giới là thái cực, thái cực sinh ra âm dương, ngũ hành, trời đất, con người, vạn vật, trước thái cực không có vật chất mà chỉ có "lý". Chu Hy (1130-1200) dùng quan điểm lý học để chú giải lại các nội dung của kinh sách Nho học, ví dụ cho rằng nhân nghĩa lễ trí là biểu hiện của "lý". Vì vậy, Tống Nho còn được gọi là "Lý học"[7].

Tống Nho là một nỗ lực để tạo ra một hình thức duy lý và siêu hình của Nho giáo bằng cách loại bỏ các yếu tố mê tín và thần bí của Đạo giáo và Đạo Phật đã ảnh hưởng đến Khổng học trong và sau thời nhà Hán [8]. Người ta cố gắng trừu tượng hóa các quan điểm đạo đức của Nho giáo thành các khái niệm và mệnh đề triết học. Mặc dù các nhà triết học Tống Nho đã phê bình Đạo Lão và Phật giáo[9] nhưng cả hai tôn giáo này đều có ảnh hưởng đến Tống Nho. Những nhà triết học thuộc trường phái Tống Nho đã vay mượn các thuật ngữ và khái niệm từ Phật giáo và Đạo giáo. Tuy nhiên, không giống như Phật giáo và Đạo giáo, người đã nhìn thấy siêu hình học như một chất xúc tác cho sự phát triển tinh thần, giác ngộ tôn giáo và sự bất tử. Các nhà triết học Nho giáo đã sử dụng siêu hình học như một hướng dẫn để phát triển một triết lý đạo đức duy lý[10].

Phong trào phục hưng Nho giáo

Đến thế kỷ XX, với sự sụp đổ của chế độ quân chủ, Nho giáo mất vị thế độc tôn, thậm chí bị bài trừ ở ngay tại Trung Quốc trong thập niên 1960-1970 khi Mao Trạch Đông làm chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc. Đến đầu thế kỷ XXI, đứng trước sự suy thoái của đạo đức xã hội, những giá trị của Nho giáo về tu dưỡng, giáo dục con người dần được coi trọng trở lại và được thúc đẩy thành phong trào tại các nước Đông Á. Trong quá trình toàn cầu hóa, sự giao thoa văn hóa Đông Tây diễn ra, các giá trị đạo đức của Nho giáo có thể xem là các giá trị phổ biến của nhân loại[11].

Tượng Khổng thánh tại Yushima Seido, Tokyo, Nhật Bản.

Phục hưng Nho giáo trong thế kỷ XXI là phong trào đang lên ở Đông Á, nó xuất phát từ Trung Quốc và lan truyền ra các khu vực lân cận. Nhiều hội thảo quốc tế về phục hưng nền Nho học đã được tổ chức ở Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản. Tập hợp các nhà nghiên cứu Nho giáo trong khu vực và trên thế giới đã kiến lập Hiệp hội nghiên cứu Nho giáo quốc tế. Trong buổi Hội thảo quốc tế về Nho giáo ở Hàn Quốc 2010, một số báo cáo ghi nhận "mặt trái của quá trình Tây phương hóa (nói cách khác là hiện đại hóa) đã làm cho xã hội Đông Á mất dần tôn ti trật tự, tinh thần cộng đồng và đoàn kết xã hội. Lớp trẻ dần chạy theo những thứ hào nhoáng của văn minh hiện đại mà bỏ xa dần các quan niệm hiếu nghĩa, trung chính, tiết độ". Các báo cáo này nhấn mạnh giá trị tinh thần của Nho giáo sẽ là công cụ hữu hiệu nhằm khôi phục lại giá trị đạo đức của xã hội[12].

Từ năm 2005, chương trình Bách gia Giảng đường của Đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc (CCTV) đã khởi xướng phong trào đọc lại Luận ngữ nhằm phục hồi đạo đức truyền thống. Ban Quốc học Đại học Thanh Hoa tính học phí 26.000 nhân dân tệ cho một khóa học về đạo đức Nho gia, Đại học Phục Đán thu mỗi người 38.000 nhân dân tệ, và khóa học cổ văn ngoài giờ cho trẻ em cũng có học phí rất cao.[13] Từ năm 2004 cho tới năm 2020, Chính phủ Trung Quốc có kế hoạch thành lập hơn 1.000 Học viện Khổng Tử trên khắp thế giới để quảng bá văn hóa truyền thống Trung Hoa.[14][15]

Chính phủ Trung Quốc đã chi hàng triệu USD cho hai chương trình nghiên cứu và biên soạn Nho tạng tại Đại học Nhân dân và Đại học Bắc Kinh. Bộ Nho tạng tinh hoa của Đại học Bắc Kinh với tổng số 500 tập dự kiến sẽ hoàn thành vào năm 2015. Hai chương trình biên soạn Nho tạng nói trên là một hoạt động quy mô lớn chưa từng có để hiệu chỉnh và kết tập điển tịch Nho học lớn nhất trong lịch sử Trung Quốc. Đồng thời đây cũng là một lần tổng kiểm kê di sản điển tịch Nho học trên quy mô toàn thế giới. Tại Hàn Quốc và Nhật Bản, hai đại học hàng đầu là Đại học Seoul và Đại học Tokyo cũng đều đã thành lập các trung tâm biên soạn Nho tạng riêng với kế hoạch hoạt động quy mô lớn. Trong xu hướng nghiên cứu Nho giáo đang diễn ra rất mạnh mẽ trên thế giới hiện nay, nghiên cứu kinh điển Nho gia có vị trí đặc biệt quan trọng.

Ngày 24 tháng 9 năm 2014, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã đến dự và phát biểu tại "Hội thảo Nho học với nền hòa bình và sự phát triển thế giới" nhân kỷ niệm 2565 năm ngày sinh Khổng Tử. Đây là lần đầu tiên lãnh đạo cao nhất Trung Quốc dự hoạt động trên. Ông nhấn mạnh: Tư tưởng triết học phong phú, tinh thần nhân văn, giá trị đạo đức của Văn hóa truyền thống Trung Quốc là gợi ý hữu ích cho việc trị quốc. Nho giáo là bộ phận quan trọng của văn hóa truyền thống Trung Quốc, có sức sống lâu dài, chứa đựng các gợi ý quan trọng giúp giải quyết những vấn đề của loài người hiện đại. Các tư tưởng "thiên hạ vi công, thế giới đại đồng", "dĩ dân vi bản, an dân phú dân lạc dân", "Nhân giả ái nhân, Dĩ đức lập nhân"… cần phải được kế thừa và phát huy. Ông nói: nghiên cứu Nho giáo chính là là để hiểu đặc tính dân tộc của người Trung Quốc, cần hấp thu sức mạnh truyền thống, việc quản trị quốc gia thời hiện đại càng cần có sự nâng đỡ của văn hóa truyền thống. Giáo sư Vương Kiệt ở Trường Đảng Trung ương Trung Quốc nhấn mạnh: sự du nhập văn hóa phương Tây đã khiến dân tộc Trung Hoa dần bị tha hóa, suy đồi về văn hóa và đạo đức, Đảng Cộng sản Trung Quốc dần nhận ra giá trị to lớn của văn hóa truyền thống Trung Quốc, hiểu rằng chỉ có kiên trì chủ nghĩa Mác, kế thừa có phê phán nền văn hóa truyền thống Trung Quốc, kiên trì nguyên tắc “cổ vi kim dụng”, “dương vi trung dụng” thì mới có thể thực hiện sự nghiệp phục hưng vĩ đại dân tộc Trung Hoa. Sức mạnh cứng (kinh tế và quân sự) rất quan trọng, nhưng sức mạnh mềm như văn hóa, đạo đức, tín ngưỡng, tinh thần, giá trị quan… cũng quan trọng không kém với một đất nước. Nếu đất nước đánh mất văn hóa, nền tảng đạo đức truyền thống thì dù kinh tế có giàu mạnh đến đâu thì cũng chẳng khác nào mất nước, mất dân tộc.[16]

Học viện Nho giáo tại thành phố Andong, Hàn Quốc
Học sinh tham gia ngoại khóa tại một Học viện Nho giáo ở Hàn Quốc

Tại Hàn Quốc, rất nhiều người nhận thấy rõ những giá trị đạo đức lâu đời của dân tộc đang mất dần đi. Sau cuộc chiến liên Triều 1950-1953, Hàn Quốc áp dụng hệ thống giáo dục chịu nhiều ảnh hưởng của giáo dục phương Tây, Nho giáo bị công kích và bị coi là lỗi thời. Ông Pak Seok-hong nhấn mạnh sự sai lầm của hệ thống giáo dục đó: việc quá nhấn mạnh vào học tiếng Anh và toán đã chiếm chỗ của các môn học như đạo đức và lịch sử. Ông thấy đất nước "đang biến thành vương quốc đầy súc vật": người trẻ chửi người già trên tàu, những đứa trẻ tự tử để khỏi bị bắt nạt... Sự hòa hợp, kính trọng người cao tuổi và lòng trung thành với Tổ quốc - những đức tính đó nay đã phai nhạt trong giới trẻ Hàn Quốc. Pak Seok-hong nói: "Chúng ta đã xây dựng được nền kinh tế mạnh mẽ, nhưng đạo đức của dân tộc đang trên bờ vực của sự sụp đổ. Chúng ta phải khôi phục lại nó và các Seowon (học viện Nho giáo) là nơi chúng ta có thể tìm thấy câu trả lời".[17]

Hiện nay, số lượng học sinh Hàn Quốc đến các học viện Nho giáo để học tập ngoại khóa ngày càng tăng, lên tới hàng trăm ngàn học sinh mỗi năm. Tại đây, học sinh được dạy những lễ giáo đạo đức từ lâu đã không còn xuất hiện tại trường học, từ việc ăn tối, uống trà đến việc thưa chuyện lễ phép với cha mẹ. Theo ông Pak Sung-jin - giám đốc điều hành của Hiệp hội Seowon quốc gia Hàn Quốc, có khoảng 150 học viện Nho giáo ở khắp Hàn Quốc đã mở trở lại các chương trình ngoại khóa tương tự. Ông tin rằng người Hàn Quốc đương đại cần từ bỏ cách nghĩ thiển cận coi Nho giáo là "lỗi thời" và cần nghiêm túc học hỏi lại nhiều giá trị tinh thần, cách đối nhân xử thế từ xã hội xưa.[17]

Đại diện cho học giả Hàn Quốc, giáo sư An Bỉnh Chu, Đại học Thành Quân Quán đã nêu lên lời cảnh báo: “Ngày nay, xã hội­ đầy tiếng kêu cứu phản ánh nỗi lo lắng về sự hoang tàn của nhân tâm. Môi trường bị ô nhiễm, luân lý bị suy đồi, con người phơi trần nỗi khát khao truy cầu lợi ích và dục vọng. Nội tâm con người hoang tàn, giá lạnh. Quan hệ giữa người và người chỉ còn là cạnh tranh vì lợi ích. Tất cả loài người đang đứng trước nguy cơ diệt vong“. Và chính từ những báo động trên, ông đã nêu lên nên trở lại những nguyên lý đạo đức cuộc sống mà Lý Hoảng (1501-1570), đại sư Nho giáo Hàn Quốc đã từng nhắc nhở trong vấn đề tâm học đạo đức. Ở hội nghị quốc tế “Nho giáo với xã hội tương lai” ở An Đông - Hàn Quốc (10-2001), các giáo sư Pháp, Nga, Mỹ, Anh v.v... đều có ý muốn nghiên cứu tư tưởng Nho giáo nhằm tìm con đường giải quyết những bế tắc trong quan hệ con người, xã hội và đặc biệt là gia đình ở phương Tây trong giai đoạn hiện tại. Họ đều đề cao đạo đức “Nhân”, “Lễ”, "Nghĩa" của Nho giáo.

Trong mấy chục năm trở lại đây, một số nhà nghiên cứu Việt Nam còn nhầm lẫn về bối cảnh xuất hiện, bản chất, nội dung và vai trò của Khổng giáo. Khổng giáo nói riêng và Nho giáo nói chung cần tiếp tục được nhận thức đúng đắn hơn[18]. Cần phải tiếp thu có chọn lọc, để có thể gạt bỏ những yếu tố tiêu cực và sử dụng những yếu tố tích cực của Nho giáo nhằm phục vụ cho công cuộc xây dựng Việt Nam ngày càng văn minh, giàu đẹp và hiện đại[19]. Tại Việt Nam, Đại học Quốc gia Hà Nội đã khởi động dự án dịch Nho tạng ra tiếng Việt[20].

Năm 2020, khi thế giới diễn ra đại dịch COVID-19, các nước châu Âu bị ảnh hưởng nặng nề trong khi các nước Đông Á khống chế dịch bệnh khá tốt. Cựu đại sứ Pháp tại Việt Nam (2012-2016), ông Jean-Noël Poirier đã có bài viết "Kỷ luật Nho giáo và phi trật tự châu Âu" đã phân tích[21]:

Mục lục

  • 1 Lịch sử
    • 1.1 Thời Bắc Thuộc
    • 1.2 Các triều đại quân chủ đầu tiên
    • 1.3 Nhà Lý
    • 1.4 Nhà Trần
    • 1.5 Nhà Lê
    • 1.6 Nhà Nguyễn
    • 1.7 Từ năm 1945 trở về sau
  • 2 Khoa bảng
  • 3 Đặc điểm
  • 4 Ảnh hưởng
    • 4.1 Ảnh hưởng đến nhân sinh
    • 4.2 Ảnh hưởng đến văn học
  • 5 Chú thích
  • 6 Xem thêm

03(52)/2009

Vì sao nho giáo giữ vai trò quan trọng là cơ sở lý luận của chế độ phong kiến trung quốc

Mục lục

  • 1.Ảnh hưởng của Nho giáo đối với văn hoá pháp luật truyền thống Việt Nam
  • 2.Phát huy những giá trị văn hoá của Nho giáo trong công cuộc đổi mới, xây dựng một nền văn hoá pháp luật vừa hiện đại vừa đậm đà bản sắc dân tộc
  • 3.Tài liệu tham khảo