Ví dụ về các yếu to chi phối sự hình thành và phát triển nhân cách

Sự hình thành và phát triển nhân cách

Mục lục:

  1. Khái niệm sự hình thành và phát triển nhân cách
    1. Nhân cách là gì?
    2. Phát triển nhân cách là gì?
  2. Các yếu tố chi phối sự hình thành và phát triển nhân cách
    1. Yếu tố di truyền đối với sự hình thành và phát triển nhân cách
    2. Yếu tố môi trường đối với sự hình thành và phát triển nhân cách
    3. Yếu tố giáo dục đối với sự hình thành và phát triển nhân cách
    4. Yếu tố hoạt động cá nhân đối với sự hình thành và phát triển nhân cách
    5. Yếu tố giao tiếp đối với sự hình thành và phát triển nhân cách
  3. Nhân tố nào quan trọng nhất đối với quá trình hình thành và phát triển nhân cách?
Nhân cách là gì?

1. Khái niệm sự hình thành và phát triển nhân cách

a) Nhân cách là gì?

Hình thành nhân cách là một quá trình khách quan mang tính quy luật, trong đó một người thể hiện mình vừa trong tư cách là đối tượng của sự tác động vừa trong tư cách là chủ thể của hoạt động và giao tiếp.

Giai đoạn hình thành nhân cách được tính ngay từ khi chủ thể nhân cách còn nằm trong bào thai, giữ vai tò đặc biệt quan trọng – vai trò mang tính tiền định nhân cách.

b) Phát triển nhân cách là gì?

Phát triển nhân cách là quá trình hình thành nhân cách như là một phẩm chất xã hội của cá nhân, là kết quả của sự xã hội hóa nhân cách và của giáo dục.

Giai đoạn phát triển nhân cách có thể được xác định trong khoảng thời gian trước tuổi trưởng thành của chủ thể nhân cách.

Từ sự xác định trên, chúng ta có thể đưa ra 5 yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến sự phát triển và hình thành nhân cách, đó là: yếu tố di truyền, yếu tố hoàn cảnh sống (gồm hoàn cảnh tự nhiên và hoàn cảnh xã hội), yếu tố giáo dục, yếu tố hoạt động, yếu tố giao tiếp.

2. Các yếu tố chi phối sự hình thành và phát triển nhân cách

a) Yếu tố di truyền đối với sự hình thành và phát triển nhân cách

– Các yếu tố bẩm sinh di truyền đóng vai trò tiền đề tự nhiên, làcơ sở vật chấtcho sự hình thành và phát triển nhân cách. Các yếu tố bẩm sinh di truyền như đặc điểm hoạt động của hệ thần kinh, cấu tạo của não, cấu tạo và hoạt động của các giác quan… Những yếu tố này sinh ra đã có do bố mẹ truyền lại hoặc tự nảy sinh do biến dị (bẩm sinh).

– Di truyền là sự tái tạo ở đời sau những thuộc tính sinh học có ở đời trước, là sự truyền lại từ cha mẹ đến con cái những đặc điểm những phẩm chất nhất định (sức mạnh bên trong cơ thể, tồn tại dưới sạng nhưng tư chất và năng lực) đã được ghi lại trong hệ thống gen di truyền.

Vai trò của di truyền trong sự hình thành và phát triển nhân cách

Nhân tốdi truyền giữ vai trò tiền đề vật chất đối với quá trình hình thành và phát triển nhân cách con người vì:

– Di truyền là sự tái tạo lại ở trẻ em những thuộc tính sinh học có ở cha mẹ, là sự truyền lại từ cha mẹ cho con cái những đặc điểm, những phẩm chất nhất định đã được ghi lại trong hệ thống gen. Những thuộc tính, những đặc điểm có thể di truyền là cấu trúc giải phẫu của cơ thể, những đặc điểm sinh học (như màu da, tóc, vóc dáng…),tư chất của hệ thần kinh. Những yếu tố này trước hết đảm bảo cho loài người phát triển, đồng thời giúp con người có thể thích ứng với những biến đổi của điều kiện sinh tồn.

– Cần phân biệt khái niệm di truyền với bẩm sinh. Bẩm sinh là hiện tượng sinh ra đã có – bẩm sinh có thể là do di truyền và có thể là không phải do di truyền đem lại.

Vai trò của di truyền: Đánh giá về vai trò của di truyền ….có rất nhiều quan điểm khác nhau:

* Quan điểm Phi Mác xít: Gồm 2 quan điểm trái ngược nhau:

– Quan điểm thứ nhất: Di truyền là yếu tố quyết đinh hoàn toàn sự hình thành và phát triển nhân cách con người “ Con vua thì lại làm vua” hoặc “trứng rồng lại nở ra rồng”. Quan điểm là sai vì nó chưa đánh giá đúng vai trò của di truyền, quá đề cao vai trò của di truyền dẫn đến phủ định vai trò của các yếu tố khác đối với sự hình thành và phát triển nhân cách con người. Trên thực tế sự phát triền nhân cách con người không chỉ do di truyền quyết định mà nó còn phụ thuộc vào các nhân tố khác đó là môi trường và giáo dục đặc biệt là tính tích cực của cá nhân.

– Quan điểm thứ 2:Phủ nhận hoàn toàn vai trò của di truyền, cho rằng di truyền hoàn toàn không có vai trò gì đối với sự hình thành và phát triển nhân cách.

* Quan điểm của chủ nghĩa Mác:

Chủ nghĩa Mác không phủ nhận cũng không quá đề cao vai trò của di truyền mà nhận định: Di truyền là tiền đề, là cơ sở vật chất cần thiết đối với sự hình thành và phát triển nhân cách Di truyền là khả năng tiềm tàng mà từ đó tư chất của con người được phát triển thêm lên thông qua các mối quan hệ xã hội, qua sự giao lưu giữa người với người:

– Di truyền tạo ra những sức sống trong bản chất tự nhiên của con người, tạo khả năng cho người đó hoạt động có kết quả trong một số lĩnh vực nhất định (tạo tiền đề vật chất cho sự hình thành và phát triển nhân cách của con người)

– Di truyền, đặc biệt là vấn đề di truyền những tư chất (nhất là những tư chất về năng lực hoặc phẩm chất về một lĩnh vực hoạt động nhất định ở trẻ em) có tầm quan trọng đặc biệt đối với công tác giáo dục.

– Di truyền không thể quyết định giới hạn tiến bộ xã hội của con người mà nó chỉ tạo khả năng cho con người hoạt động có kết quả trong một số lĩnh vực nhất định.

– Di truyền không quyết định những giới hạn tiến bộ của con ngườì. Những đặc điếm sinh học mặc dù có ảnh hưởng lớn đến quá trình hình thành tài năng, xúc cảm, trí tuệ, thể chất,… của con người nhưng nó chỉ tạo tiền đề cho sự phát triển nhân cách của con người với những lĩnh vực lao động hết sức rộng rãi, nó không định hướng cụ thể vào một lĩnh vực nào đó.

Ví dụ: Một người có tư chất toán học (yếu tố di truyền) nên định hướng cho con người đó có khả năng hoạt động trong lĩnh vực khoa học tự nhiên, người đó có trở thành nhà toán học hay giáo viên toán hoặc kỹ sư, kiến trúc sư, bác sỹ, nhà quản lý,….lại phụ thuộc vào sự tích cực, sự cố cố gắng của bản thân, sự giáo dục của môi trường, giáo dục nhà trường, gia đình và xã hội.

– Di truyền không quyết định nội dung của sự phát triển tâm lý mà nó chỉ ảnh hưởng: tạo điều kiện thuận lợi hay trở ngại cho sự phát triển tâm lý với tốc độ nhanh hay chậm (VD: trẻ khuyết tật về thị giác hay thính giác tiếp thu kinh nghiệm XH – LS khó khăn và chậm hơn song điều đó không quyết định ND tâm lý nhân cách.

Trên thực tế có nhiều gia đình liên tục xuất hiện những người có tài qua nhiều thế hệ- chỉ có thể giải thích là cá nhân đó được thừa hưởng những tư chất nhất định, được sống và học tập trong môi trường thuận lợi, được tham gia sớm vào hoạt động đó…

* Như vậy, trong giáo dục và quản lý giáo dục cần nhận thức và đánh giá đúng về vai trò của di truyền đối với quá trình hình thành và phát triển nhân cách con người, không được tuyệt đối hoá vai trò của di truyền hay phủ nhận vai trò của di truyền. Mọi hoạt động giáo dục, dạy học trong nhà trường phải dựa trên đặc điểm tâm lý của từng lứa tuổi để xác định mục tiêu, nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục cho phù hợp.

b) Yếu tố môi trường đối với sự hình thành và phát triển nhân cách

– Trong sự hình thành và phát triển nhân cách, môi trường xã hội có tầm quan trọng đặc biệt vì nếu không có xã hội loài người thì những tư chất có tính người cũng không thể phát triển được. Môi trường là hệ thống các hoàn cảnh bên ngoài, các điều kiện tự nhiên và môi trường xã hội xung quanh cần thiết cho hoạt động sống và phát triển của trẻ nhỏ.

– Sự hình thành và phát triển nhân cách chỉ có thể được thực hiện trong một môi trường nhất định. Môi trường góp phần tạo nên mục đích, động cơ, phương tiện và điều kiện cho hoạt động giao lưu của cá nhân, nhờ đó giúp trẻ chiếm lĩnh được các kinh nghiệm để hình thành và phát triển nhân cách của mình.

– Tuy nhiên, tính chất và mức độ ảnh hưởng của môi trường đối với sự hình thành và phát triển nhân cách còn tùy thuộc vào lập trường, quan điểm, thái độ của cá nhân đối với các ảnh hưởng đó, cũng như tùy thuộc vào xu hướng và năng lực, vào mức độ cá nhân tham gia cải biến môi trường.

c) Yếu tố giáo dục đối với sự hình thành và phát triển nhân cách

– Giáo dục là sự tác động có mục đích, có tổ chức, có kế hoạch nhằm thực hiện có hiệu quả các mục đích đã đề ra. Giáo dục giữ vai trò chủ đạo đối với sự hình thành và phát triển nhân cách. Giáo dục có thể mang lại những tiến bộ mà các nhân tố khác như bẩm sinh – di truyền hoặc môi trường, hoàn cảnh không thể có được.

– Giáo dục không chỉ thích ứng mà còn có thể đi trước hiện thực và thúc đẩy nó phát triển. Giáo dục có giá trị định hướng sự hình thành phát triển nhân cách. Giáo dục thúc đẩy sức mạnh bên trong khi trẻ nắm bắt được nhu cầu, động cơ, hứng thú và nó phù hợp với quy luật phát triển bên trong của cá nhân.

– Bên cạnh đó giáo dục có tầm quan trọng đặc biệt đối với những người bị khuyết tật, nó có thể bù đắp những thiếu hụt do bệnh tật gây ra cho con người. Giáo dục còn có thể uốn nắn những phẩm chất tâm lý xấu và làm cho nó phát triển theo chiều hướng mong muốn của xã hội.

– Tuy nhiên không nên tuyệt đối hóa vai trò của giáo dục đối với sự hình thành nhân cách. Giáo dục không thể tách rời tự giáo dục, tự rèn luyện, tự hoàn thiện nhân cách ở mỗi cá nhân.

Giáo dục giữ vai trò chủ đạo đối với quá trình hình thành và phát triển nhân cách con người. Một nền giáo dục được tổ chức tốt bằng các hình thức hoạt động giao lưu phong phú và đa dạng với những phương pháp khoa học có thể làm con người đạt tới sự phát triển toàn diện phù hợp với sự phát triển của thời đại. Tuy nhiên, giáo dục đóng vai trò chủ đạo chứ không phải là duy nhất, cũng như không phải là quyết định trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách con người. Nó chỉ vạch ra chiều hướng cho sự hình thành và phát triển nhân cách học sinh và thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển theo chiều hướng đó. giáo dục không chỉ là sự tác động một chiều của nhà giáo dục tới học sinh mà còn bao gồm cả những tác động tích cực, phong phú, đa dạng giữa học sinh với nhau nên trong công tác giáo dục cần phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục và tự giáo dục.

>>> Xem thêm: Vai trò của giáo dục đối với sự hình thành phát triển nhân cách

d) Yếu tố hoạt động cá nhân đối với sự hình thành và phát triển nhân cách

– Hoạt động là phương thức tồn tại của con người. Hoạt động của con người là hoạt động có mục đích, mang tính xã hội, cộng đồng, được thực hiện bằng những thao tác nhất định với những công cụ nhất định. Hoạt động cá nhân đóng vai trò quyết định trực tiếp đối với sự hình thành và phát triển nhân cách.

– Thông qua hoạt động của bản thân trẻ sẽ lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử – xã hội và biến nó thành nhân cách của mình. Hoạt động giúp kích thích hứng thú, niềm say mê sáng tạo và làm nảy sinh những nhu cầu mới, những thuộc tính tâm lý mới… ở mỗi các nhân mà nhờ đó nhân cách được hình thành và phát triển.

Sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ phụ thuộc vào hoạt động ở mỗi thời kì, lứa tuổi nhất đinh. Muốn hình thành và phát triển nhân cách thì cha mẹ cần phải tcho con ham gia vào các dạng hoạt động khác nhau và kích thích yếu tố hoạt động cá nhân.

Ngay từ khi còn nhỏ, ở mỗi trẻ đã hình thành những nhân cách khác nhau cũng như chịu chi phối bởi hệ thống gia đình, giáo dục, xã hội,….Trong đó gia đình được coi là cái nôi của nhân cách, tác động vào hệ thống phát triển tinh thần và thể chất của trẻ. Vì vậy giáo dục nhân cách cho trẻ ngay từ nhà là điều rất quan trọng và cần thiết.

e) Yếu tố giao tiếp đối với sự hình thành và phát triển nhân cách

Giao tiếp là hình thức hoạt động đặc trưng cho mối quan hệ giữa con người với con người, thông qua đó thực hiện sự tiếp xúc tâm lí và được biểu hiện ở 3 quá trình: trao đổi thông tin, hiểu biết lẫn nhau và tác động lẫn nhau.

Ví dụ như giáo viên lên lớp giảng bài cũng coi là hoạt động giao tiếp, do nó có sự trao đổi thông tin.

Giao tiếp đóng vai trò cơ bản trong sự hình thành và phát triển nhân cách. Bởi vì:

+ Nó ko thể có tâm lí con bên ngoài mối quan hệ giao tiếp, con người không thể tồn tại bên ngoài giao tiếp. Thông qua giao tiếp để tiếp thu, lĩnh hội những kinh nghiệm lịch sử – xã hội mà các thế hệ trước để lại để trở thành thành viên của xã hội.

Ví dụ như: Con người không thể tự mình chứng minh các định lí, công thức toán học mà phải thông qua giao tiếp dưới hình thức học tập, trao đổi các nghiên cứu của những nhà toàn học thời trước để lĩnh hội kết quả nghiên cứu của họ.

+ Giao tiếp thúc đẩy sự hình thành ở con người những hứng thú nhận thức khác nhau, điều này có thể làm đòn bẩy để dẫn đến sự tự đào tạo. Ví dụ như: Thông qua việc tham gia các hội thảo về môi trường, học sinh A có thể thấy hứng thú với vấn đề bảo vệ môi trường, điều đó thúc đẩy em tự nghiên cứu tìm tòi và từ đó dẫn đến sự tự đào tạo.

+ Trong giao tiếp con người không chỉ nhận thức người khác mà còn nhận thức chính bản thân mình, bất kì người nào cũng đối chiếu mình với cái mà họ nhìn thấy ở người khác, so sánh cái mà họ làm được với cái mà người xung quanh làm. Do đó, qua giao tiếp, con người tự đánh giá bản thân mình như một nhân cách.

Ví dụ: Các em học sinh cùng trao đổi cách giải một bài toán khó. Qua việc tranh luận đó, các em có thể tự thấy cách làm của mình là đúng hay sai, có nhanh gọn hay không.

+ Nhu cầu giao tiếp là một nhu cầu xã hội cơ bản và xuất hiện sớm nhất ở con người. Việc không thỏa mãn nhu cầu này ở con người ở bất cứ lứa tuổi nào đều dẫn đến những rung động tiêu cực.

Ví dụ như: Những trẻ em không được đi nhà trẻ, các em không được tập giao tiếp làm quen với thầy cô và bạn bè nên khi đi học lớp 1 sẽ rất rụt rè, nhút nhát.

Nhân tố nào quan trọng nhất đối với quá trình hình thành và phát triển nhân cách?

Trong 5 nhân tố nêu trên thì nhân tố giáo dụcgiữ vai trò chủ đạođối với quá trình hình thành và phát triển nhân cách con người.

Các tìm kiếm liên quan: Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển tâm lý cá nhân, Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách của con người, Quan điểm sai lầm đối với sự hình thành và phát triển nhân cách, Mọi sự suy thoái về nhân cách thường bắt nguồn từ nhu cầu tiêu cực, Ví dụ về các yếu tố chi phối sự hình thành và phát triển nhân cách, Cơ chế hình thành và phát triển tâm lý người, Vai trò của di truyền trong sự hình thành và phát triển nhân cách

5/5 - (30087 bình chọn)

Các yếu tố chi phối

Yêu tố sinh thể

Không thể có nhân cách trừu tượng ở bên ngoài một con người bằng xương, bằng thịt mà là nhân cách của một con người cụ thể sống trong một xã hội cụ thể. Ngay từ lúc trẻ em ra đời đều Có những đặc điểm hình thái – sinh lí của con người bao gồm các đặc điểm bẩm sinh và di truyền. Những thuộc tính sinh học có ngay từ lúc đứa trẻ mới sinh gọi là những thuộc tính bấm sinh. Những đặc điểm, những thuộc tính sinh học của cha, mẹ được ghi lại trong hệ thống gen truyền lại cho con cái được gọi là di truyền. Yếu tố sinh thể bao gồm các đặc điểm hình thể như cấu trúc giải phẫu – sinh lí, đặc điểm cơ thể, đặc điểm của hệ thần kinh và các tư chất.

Vậy những yếu tố sinh học này có vai trò như thế nào trong sự hình thành và phát triển nhân cách? Theo quan điểm tâm lí học mácxít thì di truyền với các đặc điểm sinh học nêu trên không quyết định chiều hướng cũng như giới hạn phát triển của nhân cách con người. Mặc dù những đặc điểm sinh học có thể ảnh hưởng mạnh đến quá trình hình thành tài năng, xúc cảm, sức khỏe thể chất… trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển con người nhưng nó chỉ đóng vai trò tạo nên tiền đề cho sự phát triển nhân cách.

Yếu tố môi trường

Môi trường là hệ thống các hoàn cảnh bên ngoài, các điều kiện tự nhiên và xã hội xung quanh cần thiết cho hoạt động sống và phát triển của con người. Có thể phân thành hai loại: môi trường tự nhiên và môi trường xã hội.

Môi trường tự nhiên bao gồm các điều kiện tự nhiên – hệ sinh thái phục vụ cho các hoạt động sinh sống của con người. Hoàn cảnh địa lí. nước, không khí, đất đai, động vật, thực vật, khí hậu, thời tiết,… đều thuộc môi trường tự nhiên.

– Môi trường xã hội bao gồm cả một hệ thống quan hệ chính trị kinh tế, xã hội – lịch sử. văn hóa, giáo dục,… được thiết lập. Con người hoà nhập được với xã hội qua môi trường này. Tác động của môi trường xã hội đến sự hình thành và phát triển nhân cách qua các mối quan hệ xã hội mà mỗi cá nhân tham gia tích cực vào các mối quan hệ đó. Các mối quan hệ giữa các cá nhân được thiết lập lại do các quan hệ sản xuất, quan hệ kinh tế quyết định.

Sự hình thành và phát triển nhân cách chỉ có thể thực hiện trong một môi trường nhất định. Môi trường tự nhiên và môi trường xã hội đều tác động đến con người một cách tự phát hay tự giác, nhưng trước hết phải nói đến môi trường xã hội mà đặc biệt là giáo dục có tác động mạnh mẽ đến mỗi cá nhân. Vì sao vậy vì môi trường góp phần tạo nên mục đích, động cơ, phương tiện và điều kiện cho hoạt động và giao lưu của cá nhân. Qua đó con người chiếm lĩnh được các kinh nghiệm xã hội loài người. Chính trong quá trình đó đã nảy sinh, hình thành và phát triển nhân cách của mình. Tuy nhiên, con người không phải là một thực thể thụ động trước các tác động của môi trường mà là một chủ thể tích cực. Tính chất và mức độ ảnh hưởng của môi trường còn phụ thuộc vào các đặc điểm tâm lí bên trong của cá nhân (xu hướng, năng lực, thái độ…) và vào mức độ cá nhân tham gia cải tạo môi trường. ở đây có sự tác động qua lại giữa các nhân cách và môi trường. Những tác động của môi trường hay hoàn cảnh đã được phản ánh vào nhân cách. Chính trong quá trình con người tác động cải biến hoàn cảnh nhằm phục vụ cho lợi ích của mình và xã hội thì cũng là quá trình cải tạo chính bản thân mình. Nói về mối quan hệ này, C. Mác đã viết: “Hoàn cảnh đã sáng tạo ra con người, trong chừng mực mà con người đã sáng tạo ra hoàn cảnh”.

Vậy môi trường có vai trò như thế nào trong sự hình thành và phát triển nhân cách? Khi xem xét môi trường tự nhiên và môi trường xã hội; khi xem xét yếu tố sinh vật và yếu tố xã hội thì Cái quyết định sự hình thành và phát triển tâm là nhân cách là môi trường xã hội, là yếu tố xã hội. Trong môi trường xã hội rộng lớn đó thì giáo dục, hoạt động, giao tiếp với tư cách như là những phương thức hay các con đường có vai trò quyết định quá trình hình thành và phát triển nhân cách. Sau đây chúng ta sẽ phân tích từng con đường hình thành và phát triển nhân cách.

Giáo dục và tự giáo dục

Môi trường xã hội tác động đến mỗi cá nhân một cách tự phát và tự giác nhưng chủ yếu bằng con đường tự giác là giáo dục.

Giáo dục là một hoạt động chuyên môn của xã hội nhằm hình thành và phát triển nhân cách con người theo những yêu cầu của xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất định. Từ giáo dục thường được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp: Theo nghĩa rộng, giáo dục là toàn bộ tác động của gia đình, nhà trường, xã hội bao gồm cả dạy học và cách tác động giáo dục khác đến con người.

Theo nghĩa hẹp, giáo dục có thể xem như là một quá trình tác động đến thế hệ trẻ về mặt tư tưởng, đạo đức, hành vi… nhằm hình thành thái độ, niềm tin, thói quen cư xử đúng đắn trong gia đình, nhà trường và xã hội.

Trong sự hình thành và phát triển nhân cách thì giáo dục giữ vai trò chủ đạo (theo quan điểm Tâm lí học mácxít). Vai trò chủ đạo của giáo dục được thể hiện ở những điểm sau: Giáo dục vạch phương hướng cho sự hình thành và phát triển nhân cách. Vì giáo dục là quá trình tác động có mục tiêu xác định, hình thành một mẫu người cụ thể cho xã hội – một mô hình nhân cách phát triển, đáp ứng những yêu cầu của xã hội trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Điều đó được thể hiện qua

Việc thực hiện mục tiêu giáo dục, đào tạo của nhà trường và các tổ chức giáo dục ngoài nhà trường.

Thông qua giáo dục, thế hệ trước truyền lại cho thế hệ sau những kinh nghiệm xã hội – lịch sử đã được kết tinh trong các sản phẩm văn hóa vật chất và tinh thần của nhân loại. Thế hệ trẻ lĩnh hội những kinh nghiệm đó để biến chúng thành kinh nghiệm của bản thân và tạo nên nhân cách của mình.

  • Giáo dục có thể đem lại cho con người những cái mà các yếu tố bẩm sinh – di truyền hay môi trường tự nhiên không thể đem lại được. Ví dụ đứa trẻ được sinh ra, theo thời gian nó được tăng trưởng, nhưng tự nó không thể biết đọc, biết viết nếu nó không được học chữ.
  • Giáo dục có thể phát huy tối đa các mặt mạnh của các yếu tố khác chi phối sự hình thành nhân cách như các yếu tố thể chất (bẩm sinh di truyền), yếu tố hoàn cảnh sống, yếu tố xã hội. – Giáo dục có thể bù đắp cho những thiếu hụt, hạn chế do các yếu tố bẩm sinh – di truyền không bình thường, hoàn cảnh bị tai nạn hay chiến tranh gây nên (như người bị khuyết tật, bị bệnh hoặc do hoàn cảnh không thuận lợi).
  • Giáo dục có thể uốn nắn những sai lệch của nhân cách về một mặt nào đó so với các chuẩn mực, đo tác động tự phát của môi trường gây nên và làm cho nó phát triển theo hướng mong muốn của xã hội (giáo dục lại).

Giáo dục có thể đón trước sự phát triển, nó “hoạch định nhân cách tương lai” để tác động hình thành và phát triển phù hợp với sự phát triển của xã hội. Như vậy, giáo dục không chỉ tính đến trình độ hiện tại của sự phát triển nhân cách mà còn đưa đến bước phát triển tiếp theo.

Những điểm nêu trên cho thấy, không thể có sự phát triển tâm lí, nhân cách của trẻ em ngoài dạy học và giáo dục.

Giáo dục giữ vai trò chủ đạo đối với sự hình thành và phát triển nhân cách, song không nên tuyệt đối hóa vai trò của giáo dục. Giáo dục không phải là vạn năng, bởi vì giáo dục chỉ vạch ra phương hướng cho sự hình thành và phát triển nhân cách và thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển theo hướng đó. Còn cá nhân có phát triển theo hướng đó hay không và phát triển đến trình độ nào thì giáo dục không quyết định trực tiếp được mà cái quyết định trực tiếp lại chính là hoạt động và giao tiếp của mỗi cá nhân. Do đó, cần phải tiến hành giáo dục trong mối quan hệ hữu cơ với việc tổ chức hoạt động, tổ chức quan hệ giao tiếp, hoạt động cùng nhau trong các mối quan hệ xã hội, quan hệ nhóm và tập thể. Đặc biệt, con người là thực thể tích cực, có thể tự hình thành và biến đổi nhân cách của mình một cách có ý thức, có khả năng tự cải tạo chính bản thân mình, có nhu cầu tự khẳng định, tự ý thức, tự điều chỉnh cho nên con người có hoạt động tự giáo dục. Hoạt động này là quá trình con người biết tự kiềm chế mình, biết hướng nhu cầu, hứng thú, giá trị của mình cho phù hợp với những chuẩn mực đạo đức, giá trị Của xã hội. Vì vậy giáo dục không được tách rời với tự giáo dục, tự rèn luyện, tự hoàn thiện nhân cách ở mỗi cá nhân.

Hoạt động và giao tiếp

Mọi tác động có mục đích tự giác của giáo dục sẽ không có hiệu quả, nếu cá nhân con người không tiếp nhận tác động đó, nếu họ không trực tiếp tham gia vào hoạt động để hình thành nhân cách của mình. Do đó, hoạt động của cá nhân mới là yếu tố quyết định trực tiếp đối với sự hình thành và phát triển nhân cách.

Hoạt động của cá nhân

Hoạt động là phương thức tồn tại của con người. Hoạt động của con người là hoạt động có mục đích, mang tính xã hội, mang tính cộng đồng, được thực hiện bằng những thao tác nhất định với những công cụ nhất định. Vì vậy, mỗi loại hoạt động có những yêu cầu nhất định và đòi hỏi ở con người những phẩm chất tâm lí nhất định. Quá trình tham gia hoạt động làm cho con người hình thành những phẩm chất đó. Vì thế, nhân cách của họ được hình thành và phát triển.

Thông qua hai quá trình đối tượng hóa và chủ thể hóa trong hoạt động mà nhân cách được bộc lộ và hình thành. Con đường lĩnh hội kinh nghiệm xã hội và lịch sử bằng hoạt động của bản thân để hình thành nhân cách. Mặt khác, cũng thông qua hoạt động con người xuất tâm “lực lượng bản chất” (sức mạnh của thần kinh, cơ bắp, trí tuệ, năng lực,…) vào xã hội, “tạo nên sự đại diện nhân cách của mình” ở người khác trong xã hội. Đây là sự sáng tạo, là những đóng góp của nhân cách vào sự phát triển của xã hội.

Hiểu được mối quan hệ giữa hoạt động và nhân cách nên hoạt động phải được coi là một phương tiện giáo dục cơ bản. Nhưng không phải ở tất cả các giai đoạn hay thời kì phát triển và cũng không phải các dạng hoạt động đều có tác động như nhau đến sự hình thành và phát triển nhân cách. Theo quan điểm của nhà tâm lí học nổi tiếng A.N. Lêônchiép thì có những dạng hoạt động đóng vai trò chủ yếu (gọi là hoạt động chủ đạo) trong sự phát triển nhân cách còn các dạng hoạt động khác đóng vai trò thứ yếu. Do đó cần phải hiểu rõ, sự hình thành và phát triển nhân cách của mỗi người phụ thuộc vào hoạt động chủ đạo ở mỗi thời kì nhất định. Muốn hình thành nhân cách, con người phải tham gia vào các dạng hoạt động khác nhau, trong đó đặc biệt chú ý tới vai trò của hoạt động chủ đạo. Vì thế phải lựa chọn, tổ Chức và hướng dẫn các hoạt động đảm bảo tính giáo dục và tính hiệu quả đối với việc hình thành và phát triển nhân cách. Hoạt động có vai trò quyết định trực tiếp đến sự hình thành và phát triển nhân cách như vậy nên trong công tác giáo dục cần chú ý thay đổi làm phong phú nội dung, hình thức, cách thức tổ chức hoạt động để lôi cuốn cá nhân tham gia tích cực, tự giác vào các hoạt động đó.

Hoạt động của con người luôn luôn mang tính chất xã hội, tính cộng đồng. Điều đó cũng có nghĩa là hoạt động luôn luôn gắn liền với giao tiếp. Vì thế, giao tiếp cũng là một con đường cơ bản để hình thành và phát triển nhân cách.

Giao tiếp và nhân cách

Giao tiếp là một trong những con đường cơ bản để hình thành và phát triển nhân cách. Liên quan đến vấn đề này, nhà tâm lí học Xô viết B.F. Lômốp đã viết: “Khi chúng ta nghiên cứu lối sống của một cá nhân cụ thể, chúng ta không thể chỉ giới hạn ở sự phân tích xem nó làm cái gì và như thế nào, mà chúng ta còn phải nghiên cứu xem nó giao tiếp với ai và như thế nào”.

Trong hoạt động có đối tượng thì đối tượng là những vật thể nên mối quan hệ diễn ra chủ yếu giữa chủ thể với khách thể. Qua quá trình chủ thể hóa, con người lĩnh hội được những tri thức kĩ năng, kĩ xảo… là chủ yếu để hình thành mặt năng lực của nhân cách. Còn trong giao tiếp, đối tượng lại là người khác, nhân cách khác nên mối quan hệ ở đây lại diễn ra rất sống động giữa chủ thể với chủ thể. Mối quan hệ này diễn ra rất phức tạp thể hiện mối quan hệ người – người. Qua giao tiếp, con người có thể lĩnh hội một cách trực tiếp và nhanh chóng những chuẩn mực đối xử với người khác, với xã hội đương thời mà người đó đang sống và hoạt động, nghĩa là qua giao tiếp liên quan nhiều hơn đến việc hình thành mặt đạo đức của nhân cách.

Giao tiếp là điều kiện tồn tại của mỗi cá nhân và của cả xã hội loài người. Chỉ có mối quan hệ giữa các cá nhân với nhau mới hình thành nên xã hội loài người. Mỗi cá nhân không thể phát triển bình thường theo kiểu người và không thể trở thành nhân cách nếu không được giao tiếp với những người khác. Giao tiếp là một trong những nhu cầu xã hội cơ bản nhất và xuất hiện sớm nhất hay có thể nói là nhu cầu bẩm sinh của con người. Nếu nhu cầu này không được thoả mãn sẽ gây ra hậu quả nặng nề (bệnh “hospitalism” có nghĩa là “bệnh do nằm viện”). Giao tiếp là một nhân tố hay con đường cơ bản để hình thành và phát triển nhân cách. Nói về tầm quan trọng của vấn đề này, C. Mác đã viết: “Sự phát triển của một cá nhân được quy định bởi sự phát triển của tất cả các cá nhân khác mà nó giao lưu một cách trực tiếp hoặc gián tiếp với họ”.

Qua con đường giao tiếp, con người gia nhập vào các quan hệ xã hội, lĩnh hội nền văn hóa xã hội, lĩnh hội các chuẩn mực xã hội và “tổng hoà các quan hệ xã hội” thành bản chất con người. Có thể nói cụ thể hơn rằng, ở đây, con người học được cách đánh giá hành vi và thái độ, lĩnh hội được các tiêu chuẩn đạo đức một cách trực tiếp từ cuộc sống, kiểm tra và vận dụng những tiêu chuẩn đó vào thực tiễn, đần dần hình thành nguyên tắc đạo đức trong cuộc sống của mình. Như vậy, những phẩm chất nhân cách quan trọng như tinh thần trách nhiệm. nghĩa vụ, tính nguyên tắc, tính trung thực, lòng nhân ái… được biểu hiện và được hình thành chính trong quá trình giao tiếp. Cũng nhờ có giao tiếp, con người mới có thể đóng góp sức lực và tài năng của mình cho sự phát triển xã hội.

Trong quá trình giao tiếp, con người không chỉ nhận thứ được người khác, mà còn nhận thức được chính bản thân mình. Khi tiếp xúc, con người thấy được những cái có ở người khác, tự so sánh đối chiếu với những cái mình làm, với các chuẩn mực xã hội nên đã thu nhận được những thông tin cần thiết để hình thành sự đánh giá bản thân như một nhân cách, để hình thành một thái độ giá trị – cảm xúc nhất định đối với bản thân… Rõ ràng là qua giao tiếp, con người đã hình thành khả năng tự ý thức.

Như vậy, có thể khẳng định rằng, giao tiếp là hình thức đặc trưng cho mối quan hệ người – người, là nhân tố cơ bản của việc hình thành và phát triển tâm lí, ý thức, nhân cách. Giao tiếp và hoạt động của con người chỉ có thể diễn ra trong cộng đồng, trong nhóm và tập thể.

Con người là một thực thể xã hội. Nhân cách của nó được hình thành và phát triển chỉ trong một môi trường xã hội cụ thể nhất định mà con người đang sống và hoạt động. Môi trường đó gồm gia đình, làng xóm, phố phường, nhà trường, các nhóm xã hội, các cộng đồng và các tập thể (đội nhi đồng, đội thiếu niên, đoàn thanh niên…) mà nó là thành viên. Vậy thế nào là nhóm và thế nào là tập thể?

Nhóm là một tập hợp người được thống nhất lại theo những mục đích chung. Tuỳ theo tiêu chuẩn phân loại mà người ta phân thành nhóm nhỏ và nhóm lớn; nhóm chính thức và nhóm không chính thức; nhóm thực và nhóm quy ước… Nhóm có thể phát triển thành tập thể. Tập thể là một nhóm người, là một bộ phận của xã hội, được thống nhất lại theo những mục đích chung, tuân theo các mục đích của xã hội. Như vậy, trong nhà trường phổ thông thì một học sinh có thể là thành viên của nhiều nhóm hay nhiều tập thể khác nhau.

Nhóm và tập thể có vai trò to lớn trong việc hình thành và phát triển nhân cách. Trong nhóm và tập thể, mỗi cá nhân có điều kiện thuận lợi nhất để hoạt động cùng nhau (vui chơi, học tập lao động,…), để tiếp xúc trực tiếp với nhau và trên cơ sở đó thiết lập các quan hệ giữa cá nhân này với cá nhân khác, giữa nhóm này với nhóm khác. “Sự phong phú thực sự về mặt tinh thần của cá nhân hoàn toàn phụ thuộc vào sự phong phú của những mối liên hệ hiện thực của họ”. Vì thế, các ảnh hưởng của xã hội, các mối quan hệ xã hội thông qua các nhóm và tập thể tác động đến từng cá nhân. Ngược lại, mỗi cá nhân tác động đến cộng đồng, đến xã hội, đến cá nhân khác cũng thông qua các nhóm và tập thể mà nó là thành viên.

Tác động của nhóm và tập thể đến nhân cách các hoạt động cùng nhau, qua dư luận tập thể, truyền thống tập thể, qua các phong trào thi đua, qua các hình thức hội họp, sinh hoạt câu lạc bộ v.v…Vì vậy, vận dụng nguyên tắc giáo dục trong tập thể và bằng tập thể đặc biệt có ý nghĩa trong việc hình thành và phát triển nhân cách.

Tóm lại bốn yếu tố sinh thể, môi trường xã hội. giáo dục và tự giáo dục, hoạt động và giao tiếp đều tác động đến sự hình thành và phát triển nhân cách, nhưng có vai trò không giống nhau. Theo quan điểm tâm lí học mácxít thì, yêu tố sinh thể giữ vai trò làm tiền đề, yếu tố môi trường xã hội có vai trò quyết định yếu tố giáo dục và tự giáo dục giữ vai trò chủ đạo, yếu tố hoạt động và giao tiếp của cá nhân có vai trò quyết định trực tiếp đối với sự hình thành và phát triển nhân cách.

Sự hình thành và phát triển nhân cách

Mục lục :

1. Khái niệm sự hình thành và phát triển nhân cách

a) Nhân cách là gì?

Hình thành nhân cách là một quá trình khách quan mang tính quy luật, trong đó một người thể hiện mình vừa trong tư cách là đối tượng của sự tác động vừa trong tư cách là chủ thể của hoạt động và giao tiếp.

Giai đoạn hình thành nhân cách được tính ngay từ khi chủ thể nhân cách còn nằm trong bào thai, giữ vai tò đặc biệt quan trọng quan trọng – vai trò mang tính tiền định nhân cách .

b) Phát triển nhân cách là gì?

Phát triển nhân cách là quá trình hình thành nhân cách như là một phẩm chất xã hội của cá nhân, là kết quả của sự xã hội hóa nhân cách và của giáo dục.

Giai đoạn phát triển nhân cách hoàn toàn có thể được xác lập trong khoảng chừng thời hạn trước tuổi trưởng thành của chủ thể nhân cách .

Từ sự xác định trên, chúng ta có thể đưa ra 5 yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến sự phát triển và hình thành nhân cách, đó là: yếu tố di truyền, yếu tố hoàn cảnh sống (gồm hoàn cảnh tự nhiên và hoàn cảnh xã hội), yếu tố giáo dục, yếu tố hoạt động, yếu tố giao tiếp.

2. Các yếu tố chi phối sự hình thành và phát triển nhân cách

a) Yếu tố di truyền đối với sự hình thành và phát triển nhân cách

– Các yếu tố bẩm sinh di truyền đóng vai trò tiền đề tự nhiên, là cơ sở vật chất cho sự hình thành và phát triển nhân cách. Các yếu tố bẩm sinh di truyền như đặc thù hoạt động giải trí của hệ thần kinh, cấu trúc của não, cấu trúc và hoạt động giải trí của các giác quan … Những yếu tố này sinh ra đã có do cha mẹ truyền lại hoặc tự phát sinh do biến dị ( bẩm sinh ) .
– Di truyền là sự tái tạo ở đời sau những thuộc tính sinh học có ở đời trước, là sự truyền lại từ cha mẹ đến con cháu những đặc thù những phẩm chất nhất định ( sức mạnh bên trong khung hình, sống sót dưới sạng nhưng tư chất và năng lượng ) đã được ghi lại trong mạng lưới hệ thống gen di truyền .

Vai trò của di truyền trong sự hình thành và phát triển nhân cách

Nhân tố di truyền giữ vai trò tiền đề vật chất so với quy trình hình thành và phát triển nhân cách con người vì :
– Di truyền là sự tái tạo lại ở trẻ nhỏ những thuộc tính sinh học có ở cha mẹ, là sự truyền lại từ cha mẹ cho con cháu những đặc thù, những phẩm chất nhất định đã được ghi lại trong mạng lưới hệ thống gen. Những thuộc tính, những đặc thù hoàn toàn có thể di truyền là cấu trúc giải phẫu của khung hình, những đặc thù sinh học ( như màu da, tóc, tầm vóc … ), tư chất của hệ thần kinh. Những yếu tố này trước hết bảo vệ cho loài người phát triển, đồng thời giúp con người hoàn toàn có thể thích ứng với những biến hóa của điều kiện kèm theo sống sót .

– Cần phân biệt khái niệm di truyền với bẩm sinh. Bẩm sinh là hiện tượng kỳ lạ sinh ra đã có – bẩm sinh hoàn toàn có thể là do di truyền và hoàn toàn có thể là không phải do di truyền đem lại .
Vai trò của di truyền : Đánh giá về vai trò của di truyền …. có rất nhiều quan điểm khác nhau :
* Quan điểm Phi Mác xít : Gồm 2 quan điểm trái ngược nhau :
– Quan điểm thứ nhất : Di truyền là yếu tố quyết đinh trọn vẹn sự hình thành và phát triển nhân cách con người “ Con vua thì lại làm vua ” hoặc “ trứng rồng lại nở ra rồng ”. Quan điểm là sai vì nó chưa nhìn nhận đúng vai trò của di truyền, quá tôn vinh vai trò của di truyền dẫn đến phủ định vai trò của các yếu tố khác so với sự hình thành và phát triển nhân cách con người. Trên trong thực tiễn sự phát triền nhân cách con người không chỉ do di truyền quyết định hành động mà nó còn nhờ vào vào các tác nhân khác đó là môi trường tự nhiên và giáo dục đặc biệt quan trọng là tính tích cực của cá thể .
– Quan điểm thứ 2 : Phủ nhận trọn vẹn vai trò của di truyền, cho rằng di truyền trọn vẹn không có vai trò gì so với sự hình thành và phát triển nhân cách .
* Quan điểm của chủ nghĩa Mác :

Chủ nghĩa Mác không phủ nhận cũng không quá tôn vinh vai trò của di truyền mà đánh giá và nhận định : Di truyền là tiền đề, là cơ sở vật chất thiết yếu so với sự hình thành và phát triển nhân cách Di truyền là năng lực tiềm tàng mà từ đó tư chất của con người được phát triển thêm lên trải qua các mối quan hệ xã hội, qua sự giao lưu giữa người với người :
– Di truyền tạo ra những sức sống trong thực chất tự nhiên của con người, tạo năng lực cho người đó hoạt động giải trí có hiệu quả trong một số ít nghành nghề dịch vụ nhất định ( tạo tiền đề vật chất cho sự hình thành và phát triển nhân cách của con người )

– Di truyền, đặc biệt quan trọng là yếu tố di truyền những tư chất ( nhất là những tư chất về năng lượng hoặc phẩm chất về một nghành nghề dịch vụ hoạt động giải trí nhất định ở trẻ nhỏ ) có tầm quan trọng đặc biệt quan trọng so với công tác làm việc giáo dục .
– Di truyền không hề quyết định hành động số lượng giới hạn tân tiến xã hội của con người mà nó chỉ tạo năng lực cho con người hoạt động giải trí có tác dụng trong 1 số ít nghành nhất định .
– Di truyền không quyết định hành động những số lượng giới hạn tân tiến của con ngườì. Những đặc điếm sinh học mặc dầu có ảnh hưởng lớn đến quy trình hình thành năng lực, xúc cảm, trí tuệ, sức khỏe thể chất, … của con người nhưng nó chỉ tạo tiền đề cho sự phát triển nhân cách của con người với những nghành lao động rất là thoáng rộng, nó không xu thế đơn cử vào một nghành nào đó .
Ví dụ : Một người có tư chất toán học ( yếu tố di truyền ) nên xu thế cho con người đó có năng lực hoạt động giải trí trong nghành khoa học tự nhiên, người đó có trở thành nhà toán học hay giáo viên toán hoặc kỹ sư, kiến trúc sư, bác sỹ, nhà quản trị, …. lại nhờ vào vào sự tích cực, sự cố cố gắng nỗ lực của bản thân, sự giáo dục của thiên nhiên và môi trường, giáo dục nhà trường, mái ấm gia đình và xã hội .
– Di truyền không quyết định hành động nội dung của sự phát triển tâm ý mà nó chỉ ảnh hưởng : tạo điều kiện kèm theo thuận tiện hay trở ngại cho sự phát triển tâm ý với vận tốc nhanh hay chậm ( VD : trẻ khuyết tật về thị giác hay thính giác tiếp thu kinh nghiệm tay nghề XH – LS khó khăn vất vả và chậm hơn tuy nhiên điều đó không quyết định hành động ND tâm ý nhân cách .
Trên thực tiễn có nhiều mái ấm gia đình liên tục Open những người có tài qua nhiều thế hệ – chỉ hoàn toàn có thể lý giải là cá thể đó được thừa kế những tư chất nhất định, được sống và học tập trong môi trường tự nhiên thuận tiện, được tham gia sớm vào hoạt động giải trí đó …
* Như vậy, trong giáo dục và quản trị giáo dục cần nhận thức và nhìn nhận đúng về vai trò của di truyền so với quy trình hình thành và phát triển nhân cách con người, không được tuyệt đối hoá vai trò của di truyền hay phủ nhận vai trò của di truyền. Mọi hoạt động giải trí giáo dục, dạy học trong nhà trường phải dựa trên đặc thù tâm ý của từng lứa tuổi để xác lập tiềm năng, nội dung, chiêu thức và hình thức tổ chức triển khai giáo dục cho tương thích .

b) Yếu tố môi trường đối với sự hình thành và phát triển nhân cách

– Trong sự hình thành và phát triển nhân cách, môi trường tự nhiên xã hội có tầm quan trọng đặc biệt quan trọng vì nếu không có xã hội loài người thì những tư chất có tính người cũng không hề phát triển được. Môi trường là mạng lưới hệ thống các thực trạng bên ngoài, các điều kiện kèm theo tự nhiên và thiên nhiên và môi trường xã hội xung quanh thiết yếu cho hoạt động giải trí sống và phát triển của trẻ nhỏ .

Xem thêm: Cách làm mô hình cối xay gió bằng que kem gỗ handmade –

– Sự hình thành và phát triển nhân cách chỉ hoàn toàn có thể được triển khai trong một môi trường tự nhiên nhất định. Môi trường góp thêm phần tạo nên mục tiêu, động cơ, phương tiện đi lại và điều kiện kèm theo cho hoạt động giải trí giao lưu của cá thể, nhờ đó giúp trẻ sở hữu được các kinh nghiệm tay nghề để hình thành và phát triển nhân cách của mình .
– Tuy nhiên, đặc thù và mức độ ảnh hưởng của môi trường tự nhiên so với sự hình thành và phát triển nhân cách còn tùy thuộc vào lập trường, quan điểm, thái độ của cá thể so với các ảnh hưởng đó, cũng như tùy thuộc vào khuynh hướng và năng lượng, vào mức độ cá thể tham gia cải biến môi trường tự nhiên .

c) Yếu tố giáo dục đối với sự hình thành và phát triển nhân cách

– Giáo dục đào tạo là sự ảnh hưởng tác động có mục tiêu, có tổ chức triển khai, có kế hoạch nhằm mục đích thực thi có hiệu suất cao các mục tiêu đã đề ra. Giáo dục đào tạo giữ vai trò chủ yếu so với sự hình thành và phát triển nhân cách. Giáo dục đào tạo hoàn toàn có thể mang lại những văn minh mà các tác nhân khác như bẩm sinh – di truyền hoặc môi trường tự nhiên, thực trạng không hề có được .
– Giáo dục đào tạo không riêng gì thích ứng mà còn hoàn toàn có thể đi trước hiện thực và thôi thúc nó phát triển. Giáo dục đào tạo có giá trị khuynh hướng sự hình thành phát triển nhân cách. Giáo dục đào tạo thôi thúc sức mạnh bên trong khi trẻ chớp lấy được nhu yếu, động cơ, hứng thú và nó tương thích với quy luật phát triển bên trong của cá thể .
– Bên cạnh đó giáo dục có tầm quan trọng đặc biệt quan trọng so với những người bị khuyết tật, nó hoàn toàn có thể bù đắp những thiếu vắng do bệnh tật gây ra cho con người. Giáo dục đào tạo còn hoàn toàn có thể uốn nắn những phẩm chất tâm ý xấu và làm cho nó phát triển theo khunh hướng mong ước của xã hội .

– Tuy nhiên không nên tuyệt đối hóa vai trò của giáo dục so với sự hình thành nhân cách. Giáo dục đào tạo không hề tách rời tự giáo dục, tự rèn luyện, tự triển khai xong nhân cách ở mỗi cá thể .

Giáo dục giữ vai trò chủ đạo đối với quá trình hình thành và phát triển nhân cách con người. Một nền giáo dục được tổ chức tốt bằng các hình thức hoạt động giao lưu phong phú và đa dạng với những phương pháp khoa học có thể làm con người đạt tới sự phát triển toàn diện phù hợp với sự phát triển của thời đại. Tuy nhiên, giáo dục đóng vai trò chủ đạo chứ không phải là duy nhất, cũng như không phải là quyết định trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách con người. Nó chỉ vạch ra chiều hướng cho sự hình thành và phát triển nhân cách học sinh và thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển theo chiều hướng đó. giáo dục không chỉ là sự tác động một chiều của nhà giáo dục tới học sinh mà còn bao gồm cả những tác động tích cực, phong phú, đa dạng giữa học sinh với nhau nên trong công tác giáo dục cần phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục và tự giáo dục.

>>> Xem thêm: Vai trò của giáo dục đối với sự hình thành phát triển nhân cách

d) Yếu tố hoạt động cá nhân đối với sự hình thành và phát triển nhân cách

– Hoạt động là phương pháp sống sót của con người. Hoạt động của con người là hoạt động giải trí có mục tiêu, mang tính xã hội, hội đồng, được triển khai bằng những thao tác nhất định với những công cụ nhất định. Hoạt động cá thể đóng vai trò quyết định hành động trực tiếp so với sự hình thành và phát triển nhân cách .
– Thông qua hoạt động giải trí của bản thân trẻ sẽ lĩnh hội kinh nghiệm tay nghề lịch sử dân tộc – xã hội và biến nó thành nhân cách của mình. Hoạt động giúp kích thích hứng thú, niềm mê hồn phát minh sáng tạo và làm phát sinh những nhu yếu mới, những thuộc tính tâm ý mới … ở mỗi các nhân mà nhờ đó nhân cách được hình thành và phát triển .

Sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ nhờ vào vào hoạt động giải trí ở mỗi thời kì, lứa tuổi nhất đinh. Muốn hình thành và phát triển nhân cách thì cha mẹ cần phải tcho con ham gia vào các dạng hoạt động giải trí khác nhau và kích thích yếu tố hoạt động giải trí cá thể .
Ngay từ khi còn nhỏ, ở mỗi trẻ đã hình thành những nhân cách khác nhau cũng như chịu chi phối bởi mạng lưới hệ thống mái ấm gia đình, giáo dục, xã hội, …. Trong đó mái ấm gia đình được coi là cái nôi của nhân cách, tác động ảnh hưởng vào mạng lưới hệ thống phát triển ý thức và sức khỏe thể chất của trẻ. Vì vậy giáo dục nhân cách cho trẻ ngay từ nhà là điều rất quan trọng và thiết yếu .

e) Yếu tố giao tiếp đối với sự hình thành và phát triển nhân cách

Giao tiếp là hình thức hoạt động giải trí đặc trưng cho mối quan hệ giữa con người với con người, trải qua đó thực thi sự tiếp xúc tâm lí và được bộc lộ ở 3 quy trình : trao đổi thông tin, hiểu biết lẫn nhau và ảnh hưởng tác động lẫn nhau .
Ví dụ như giáo viên lên lớp giảng bài cũng coi là hoạt động giải trí tiếp xúc, do nó có sự trao đổi thông tin .
Giao tiếp đóng vai trò cơ bản trong sự hình thành và phát triển nhân cách. Bởi vì :

+ Nó ko thể có tâm lí con bên ngoài mối quan hệ tiếp xúc, con người không hề sống sót bên ngoài tiếp xúc. Thông qua tiếp xúc để tiếp thu, lĩnh hội những kinh nghiệm tay nghề lịch sử dân tộc – xã hội mà các thế hệ trước để lại để trở thành thành viên của xã hội .
Ví dụ như : Con người không hề tự mình chứng tỏ các định lí, công thức toán học mà phải trải qua tiếp xúc dưới hình thức học tập, trao đổi các điều tra và nghiên cứu của những nhà toàn học thời trước để lĩnh hội tác dụng điều tra và nghiên cứu của họ .
+ Giao tiếp thôi thúc sự hình thành ở con người những hứng thú nhận thức khác nhau, điều này hoàn toàn có thể làm đòn kích bẩy để dẫn đến sự tự huấn luyện và đào tạo. Ví dụ như : Thông qua việc tham gia các hội thảo chiến lược về thiên nhiên và môi trường, học viên A hoàn toàn có thể thấy hứng thú với yếu tố bảo vệ thiên nhiên và môi trường, điều đó thôi thúc em tự điều tra và nghiên cứu tìm tòi và từ đó dẫn đến sự tự đào tạo và giảng dạy .
+ Trong tiếp xúc con người không chỉ nhận thức người khác mà còn nhận thức chính bản thân mình, bất kể người nào cũng so sánh mình với cái mà họ nhìn thấy ở người khác, so sánh cái mà họ làm được với cái mà người xung quanh làm. Do đó, qua tiếp xúc, con người tự nhìn nhận bản thân mình như một nhân cách .
Ví dụ : Các em học viên cùng trao đổi cách giải một bài toán khó. Qua việc tranh luận đó, các em hoàn toàn có thể tự thấy cách làm của mình là đúng hay sai, có nhanh gọn hay không .

+ Nhu cầu tiếp xúc là một nhu yếu xã hội cơ bản và Open sớm nhất ở con người. Việc không thỏa mãn nhu cầu nhu yếu này ở con người ở bất kỳ lứa tuổi nào đều dẫn đến những rung động xấu đi .
Ví dụ như : Những trẻ nhỏ không được đi nhà trẻ, các em không được tập tiếp xúc làm quen với thầy cô và bạn hữu nên khi đi học lớp 1 sẽ rất ngần ngại, nhút nhát .

Nhân tố nào quan trọng nhất đối với quá trình hình thành và phát triển nhân cách?

Trong 5 nhân tố nêu trên thì nhân tố giáo dụcgiữ vai trò chủ đạođối với quá trình hình thành và phát triển nhân cách con người.

Các tìm kiếm tương quan : Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển tâm ý cá thể, Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách của con người, Quan điểm sai lầm đáng tiếc so với sự hình thành và phát triển nhân cách, Mọi sự suy thoái và khủng hoảng về nhân cách thường bắt nguồn từ nhu yếu xấu đi, Ví dụ về các yếu tố chi phối sự hình thành và phát triển nhân cách, Cơ chế hình thành và phát triển tâm ý người, Vai trò của di truyền trong sự hình thành và phát triển nhân cách

Xem thêm: Cách làm mô hình cối xay gió bằng que kem gỗ handmade –

5/5 – ( 30087 bầu chọn )

Source: https://sangtaotrongtamtay.vn
Category: Khoa học

yếu tố hình thành và sự phát triển nhân cách

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.38 KB, 12 trang )

MỤC LỤC
A.

LỜI MỞ ĐẦU……………………………………………………………………1

B. NỘI DUNG……………………………………………………………………….1
I. Khái niệm nhân cách…………………………………………………………… 1
II. Những nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách……...2
1. Yếu tố Di truyền…………………………………………………………………..2
2. Yếu tố hoàn cảnh, môi trường sống…………………………………………….3
a. Hoàn cảnh tự nhiên……………………………………………………………..3
b. Hoàn cảnh xã hội………………………………………………………………..4
3.

Nhân tố giáo dục………………………………………………………………6

4. Nhân tố hoạt động……………………………………………………………….7
5.

Yếu tố giao tiếp……………………………………………………………......9

III. Liên hệ thực tế………………………………………………………………...10
C. KẾT LUẬN…………………………………………………………………… 10
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………… 11

1


A. LỜI MỞ ĐẦU
Khi xem xét con người với tư cách là một thành viên của một xã hội nhất định,
là chủ thể của các mối quan hệ con người, của hoạt động có ý thức và giao tiếp thì


chúng ta nói đến nhân cách của họ. Theo quan điểm tâm lý học Mác xít thì không
phải con người mới sinh ra đã có sẵn nhân cách và cũng không phải nó được bộc lộ
dần từ bản năng nguyên thủy, mà nhân cách được hình thành và phát triển trong quá
trình sống, hoạt động, giao tiếp, vui chơi... của mỗi người. Quá trình hình thành và
phát triển nhân cách chịu sự ảnh hưởng và chi phối của nhiều yếu tố, nhưng tác động
rõ nét và lớn nhất là các yếu tố: di truyền, hoàn cảnh sống, giáo dục, hoạt động và
giao tiếp. Các yếu tố đó có mức độ ảnh hưởng khác nhau và giữ một vai trò nhất định
nhưng lại có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong việc hình thành và phát triển nhân
cách.
B. NỘI DUNG
I. Khái niệm nhân cách
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về nhân cách, có tới hàng trăm định nghĩa
nhân cách trong tư tưởng phương Đông cổ đại, tâm lý học phương Tây hay xu hướng
nghiên cứu nhân cách ở Liên Xô… Tuy nhiên điểm chung của các định nghĩa này
đều xác định nhân cách như là một hệ thống các quan hệ của con người với thế giới
xung quanh và đối với bản thân mình.
Trong giáo trình “Tâm lý học đại cương”, nhân cách được định nghĩa “là tổ
hợp những thuộc tính tâm lý của một cá nhân biểu hiện ở bản sắc và giá trị xã hội
của người ấy.”
Nhân cách là hệ thống các quan hệ của con người đối với thế giới xung quanh
và với bản thân mình, những phẩm giá của một người được đánh giá từ mối quan hệ
qua lại của người đó với những người khác, với tập thể, với xã hội và cả với thế giới
tự nhiên xung quanh trong mọi cái nhìn xuyên suốt quá khứ, hiện tại và tương lai.
2


Nhân cách được xây dựng và hình thành trong toàn bộ thời gian con người tồn tại
trong xã hội, nó đặc trưng cho mỗi con người, thể hiện những phẩm chất bên trong
con người đó. Nhân cách là thuộc tính tâm lý vì đây là một hiện tượng tâm lý tương
đối ổn định, có tính quy luật chứ không xuất hiện ngẫu nhiên, Nhân cách là một “tổ

hợp” bởi những thuộc tính tâm lý hợp thành nhân cách có quan hệ chặt chẽ với nhau,
tác động lẫn nhau làm thành một hệ thống một cấu trúc nhất định, bên cạnh đó, nói
nhân cách có “bản sắc” bởi nhân cách của mỗi người sẽ có những đặc điểm riêng, nét
khác biệt so với người khác. Và nói nhân cách có “giá trị xã hội” vì những thuộc tính
đó thể hiện ra ở những việc làm, những cách ứng xử, hành vi, hành động, hoạt động
phổ biến của người ấy và được xã hội đánh giá.
II. Những nhân tố ảnh hưởng đến đến sự hình thành và phát triển nhân
cách
1. Yếu tố di truyền
Di truyền là sự kế thừa của cơ thể sống đảm bảo sự tái tạo ở thế hệ mới những
nét giống nhau về mặt sinh vật đối với thế hệ trước và đảm bảo năng lực đáp ứng
những đòi hỏi của hoàn cảnh theo một cơ chế nhất định.
Di truyền đóng vai trò là tiền đề vật chất cho sự hình thành và phát triển nhân
cách, nó làm cho quá trình hình thành phát triển nhân cách điễn ra nhanh chóng hay
chậm chạp, thuận lợi hay khó khăn. Nhân tố này không quyết định chiều hướng và nội
dung của sự phát triển nhân cách.
- Bẩm sinh di truyền là những đặc điểm giải phẫu sinh lý của hệ thần kinh và
các cơ quan cảm giác, vận động (bẩm sinh là những gì sinh ra đã có, còn di truyền là
sự kế thừa những điểm giống từ thế hệ trước). Chính nó tham gia vào sự hình thành
cơ sở vật chất của các hiện tượng tâm lý – những đặc điểm giải phẫu và sinh lý của
cơ thể, trong đó có hệ thần kinh. Thực tế đã chứng minh rằng, những khiếm khuyết
về mặt cơ thể, về gen… đã có ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển con người, tới
thế giới quan, định hướng giá trị... của họ, hay những năng khiếu bẩm sinh, những tài
3


năng... chính là do các yếu tố sinh học chi phối, ví dụ: một người sinh ra cơ thể đã
không bình thường như bị thiểu năng trí tuệ, não hoạt động không bình thường thì
chắc chắn người đó không thể tiếp thu lĩnh hội tri thức và ngược lại.
Nhưng không thể kết luận về vai trò quyết định của di truyền trong sự hình

thành và phát triển nhân cách.
Ví dụ: khoa học đã chứng minh, hai đứa trẻ sinh đôi cùng trứng có rất nhiều
điểm tương đồng nhưng theo thời gian sự tương đồng rất cao của trí nhớ hình ảnh và
âm thanh ở chúng đã mất dần cùng với sự phát triển của lứa tuổi do tác động của
hoàn cảnh và tính tích cực riêng của mỗi cá thể.
Ta có thể khẳng định yếu tố bẩm sinh – di truyền không phải là yếu tố quyết
định sự hình thành và phát triển nhân cách. Bất cứ một chức năng tâm lí nào mang
bản chất con người của nhân cách chỉ có thể được phát triển trong hoạt động của bản
thân cá nhân đó và trong điều kiện của xã hội loài người.
Ví dụ: thiên tài âm nhạc MoZa sẽ không thể phát triển tài năng của mình nếu
không có môi trường để rèn luyện và niềm đam mê yêu thích âm nhạc trong chính
con người ông. Hay như, một người sinh ra đã mù lòa không phải người đó sẽ vĩnh
viễn không biết đọc chữ, không lĩnh hội được tri thức, người đó vẫn có thể học chữ
nổi và đọc được sách viết bằng chữ nổi.
2. Yếu tố hoàn cảnh sống
Hoàn cảnh sống bao gồm hoàn cảnh tự nhiên và hoàn cảnh xã hội
a. Hoàn cảnh tự nhiên
Đó là những hoàn cảnh địa lý quy định đặc điểm của các dạng ngành nghề sản
xuất, đặc tính nghề nghiệp, một số nét riêng trong phạm vi sáng tạo nghệ thuật, quy
định giá trị vật chất và tinh thần nhất định. Nên có thể nói tâm lý dân tộc mang dấu ấn
của hoàn cảnh tự nhiên thông qua phương thức sống.
4


Nhân cách như là một thành viên xã hội, chịu ảnh hưởng của tự nhiên thông
qua những giá trị vật chất tinh thần, qua phong tục tập quán của dân tộc... và thông
qua phương thức sống của chính bản thân nó.
Ví dụ: tính cách, đời sống tinh thần, tâm lý... của con người ba miền Bắc,
Trung, Nam của nước ta khác nhau một phần chịu ảnh hưởng bởi sự khác biệt về môi
trường khí hậu của ba miền, như ở Huế khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, mưa nhiều...

nên con người nơi đây mang những nét ưu tư, buồn, dịu dàng, sâu lắng, sống nội
tâm...
Nhưng hoàn cảnh tự nhiên không giữ vai trò quan trọng và không phải là yếu
tố quyết định sự hình thành và phát triển tâm lý nhân cách.
b. Hoàn cảnh xã hội
Nhân cách là sản phẩm của xã hội. Không có sự tiếp xúc với con người thì cá
thể lớn lên và phát triển trong trạng thái động vật, nó không thể trở thành một con
người, một nhân cách. Nếu con người ít tiếp xúc, trao đổi với người xung quanh hoặc
sống trong môi trường xã hội quá đơn điệu thì sẽ nghèo nàn về tâm lý, kém sự linh
động... ví dụ như: bác sỹ Xinhgơ, người Ấn Độ đã tìm thấy cô Kamala được chó sói
nuôi từ nhỏ. Khi được đưa ra khỏi rừng, cô đã 12 tuổi. Kamala có những đặc tính
giống chó sói: đi lại bằng tứ chi, cô bé không uống nước mà liếm và thịt thì không
cầm tay mà ăn ngay dưới sàn, ban đêm cô bé luôn sủa rống lên... vì thế một đứa trẻ
muốn phát triển bình thường phải tiếp xúc với con người để nắm vững tri thức, kinh
nghiệm xã hội lịch sử.
+ Quan hệ sản xuất: quy định nội dung của nhiều nét tâm lý cơ bản của nhân
cách. ví dụ quan hệ sản xuất phong kiến khiến con người có tính trì trệ, bảo thủ, quan
hệ sản xuất tư bản khiến con người có tính song phẳng, nhanh nhạy,..

5


+Quan hệ chính trị và pháp luật: vị trí giai cấp của cá nhân sẽ kích thích tính
tích cực của nó ở một mức độ nào đó trong vai trò xã hội, ví dụ như giai cấp thống trị
trong xã hội phong kiến thường bảo thủ, hống hách, kiêu ngạo...
+Các hiện tượng tâm lý xã hội quần chúng cũng có ảnh hưởng đến sự phát
triển nhân cách như:
Tâm trạng chung: bầu không khí lạc quan hay bi quan trong gia đình, nhóm
bạn, thời đại,… sẽ ảnh hưởng đến tâm lý cá nhân. Ví dụ: Một số trẻ em khi sống
trong gia đình bố mẹ ly thân, không khí trầm lặng, chán nản sẽ có xu hướng khép

mình, thậm chí là tự kỷ.
Thi đua: là phương thức tác động qua lại giữa các cá nhân, nhóm vầ tập thể ,
làm tăng kết quả hoạt động của nhau, hoàn thiện nhân cách. Ví dụ việc thi đua học
tập tốt đạt điểm cao trong những ngày chào mừng ngày nhà giáo Việt Nam.
Bắt chước: thể hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống như vui chơi, học tập,
giao tiếp, ngôn ngữ,.. ví dụ: trẻ con thường bắt chước cách ăn nói, ứng xử của người
lớn, hay bạn bè chúng, như câu truyện về một đứa bé thấy bố mình cho ông ăn bát
mẻ, vì người ông đã già, mắt mờ, tay run thường hay đánh vỡ bát khi ăn, đến khi
người ông mất đứa bé đem cái bát mẻ đó cất đi, người cha hỏi thì đứa bé nói là để sau
này khi người cha đó già sẽ cho cha ăn bằng chiếc bát đó.
Sự hình thành và phát triển nhân cách chỉ có thể thực hiện trong một môi
trường nhất định. Môi trường góp phần tạo nên mục đích, động cơ, phương tiện và
điều kiện cho hoạt động giao lưu của cá nhân, mà nhờ đó các cá nhân rút ra cho mình
những kinh nghiệm xã hội của loài người để hình thành và phát triển nhân cách của
chính mình. Ví dụ nhưng trong câu truyện mẹ hiền dạy con:nhà MạnhTử gần nghĩa
địa, thấy người ta đào chôn lăn khóc, về nhà cũng bắt chước đào chôn lăn khóc.
Người mẹ liền chuyển nơi ở đến gần chợ, thì Mạnh Tử lại bắt chước nô nghịch buôn
bán, điên đảo. Sau đó người mẹ chuyển nhà đến gần trường học, thấy người ta đến
trường học tập lễ phép, từ đó Mạnh Tử cũng vào trường học tập, và trở nên lễ phép...
6


Tuy nhiên tính chất và mức độ ảnh hưởng của môi trường đối với sự hình
thành và phát triển nhân cách không phải là quyết định tuyệt đối, mà nó còn tùy thuộc
vào lập trường tư tưởng, quan điểm thái độ của cá nhân đối với các ảnh hưởng đó
cũng như tùy thuộc vào xu hướng và năng lực, vào mức độ của các nhân tham gia cải
biến môi trường đó. Ví dụ như không phải đứa trẻ nào sống trong một gia đình có bố
mẹ ly dị đều sống buông thả, bất cần... và ngược lại không phải đứa trẻ nào sống
trong một gia đình có bố mẹ quan tâm chăm sóc đầy đủ, bố mẹ hiền lành chăm chỉ thì
đứa trẻ đó cũng sẽ ngoan hiền, chăm chỉ... Như K.Marx đã chỉ ra rằng: “hoàn cảnh

đã sáng tạo ra con người trong chừng mực mà con người đã sáng tạo hoàn cảnh”.
3.

Nhân tố giáo dục

Theo quan điểm của tâm lý học và giáo dục hiện đại thì giáo dục giữ vai trò
chủ đạo trong sự phát triển nhân cách.
Giáo dục được hiểu là quá trình tác động có ý thức, có mục đích và có kế
hoạch về mặt tư tưởng, đạo đức và hành vi trong tập thể trẻ em và học sinh, trong gia
đình và cơ quan giáo dục ngoài nhà trường. Giáo dục bao gồm việc dạy học trực tiếp
hoặc gián tiếp trong lớp và ngoài lớp, trong trường và ngoài trường, trong gia đình và
ngoài xã hội. Vai trò của giáo dục được thể hiện qua:
+ Giáo dục học sinh và dẫn dắt sự hình thành và phát triển nhân cách theo
chiều hướng đó.
+ Giáo dục cũng có thể mang lại những yếu tố mà bẩm sinh di truyền hay môi
trường tự nhiên không mang lại được. Ví dụ: một đứa trẻ sinh ra bình thường, không
bệnh tật biết đi biết nói nhưng để đứa trẻ biết viết biết đọc, nhận biết những thứ xung
quanh thì cần phải được giáo dục, dạy dỗ, học hành.
+ Bên cạnh đó, giáo dục có thể bù đắp những thiếu hụt do bệnh tật mang lại
cho con người, ví dụ điển hình cho điều này là thầy giáo Nguyễn Ngọc Ký. Nhờ tác

7


động của giáo dục mà có thể hồi phục ở họ những chức năng đã mất hoặc có thể phát
triển về trí tuệ như như những người bình thường.
+ Giáo dục còn có thể uốn nắn những phẩm chất tâm lý xấu do tác động tự
phát của môi trường xã hội gây nên và làm cho nó phát triển theo chiều hướng mong
muốn của xã hội. Đó là lí do vì sao tồn tại những trại giáo dưỡng, cải tạo để giáo dục,
uốn nắn lại những trẻ hư, người phạm pháp.

+ Không những thế, giáo dục không chỉ thích ứng mà còn có thể đi trước hiện
thực, trong khi tác động tự phát của xã hội chỉ ảnh hưởng đến cá nhân ở mức độ hiện
tại của nó. Như mục tiêu giáo dục của nước ta là xây dựng con người mới xã hội chủ
nghĩa.
+ Giáo dục có vai trò quan trọng trong sự phát triển tâm lý của trẻ em: sự phát
triển tâm lý của trẻ em chỉ có thể diễn ra một cách tốt đẹp trong những điều kiện của
giáo dục và dạy học.
Tuy nhiên, giáo dục chỉ vạch ra đường hướng cho sự hình thành và phát triển
nhân cách của học sinh và thúc đẩy quá trình hình thành, phát triển theo hướng đó,
giáo dục không quyết định trực tiếp được việc cá nhân học sinh có phát triển theo
hướng đó không, hay phát triển đến mức độ nào. Giáo dục một mặt cung cấp cho con
người những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, mặt khác hình thành trong nhân cách họ
những phẩm chất tâm lý cần thiết theo yêu cầu của sự phát triển xã hội.
4. Nhân tố hoạt động
Con đường giáo dục cá nhân sẽ không thể có hiệu quả nếu bản thân cá nhân đó
không tiếp nhận, không hưởng ứng. Bởi vậy, hoạt động mới là nhân tố tác động quyết
định trực tiếp đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của cá nhân. Điều này
hoàn toàn phù hợp với quan điểm “tự thân vận động” của triết học.

8


Ví dụ: trong một lớp học ta luôn thấy lực học, kết quả học tập của mỗi học sinh
là không giống nhau, chất lượng học sinh không đồng đều, có học sinh học kém, có
em lại giỏi,mặc dù cùng một thầy cô giảng dạy, cùng lượng tri thức như nhau, điều
này xuất phát từ chính các học sinh đó hoạt động hay không hoạt động. Giáo dục dù
quan trọng nhưng luôn luôn chỉ có tính định hướng.
Hoạt động là sự tác động qua lại giữa con người với thế giới khác quan, hướng
tới nhằm biến đổi nó và thỏa mãn nhu cầu của con người, là phương thức tồn tại của
con người, đó là hoạt động có mục đích, có ý thức. Thông qua hai quá trình đối tượng

hóa và chủ thể hóa trong hoạt động mà nhân cách được bộc lộ và hình thành. Con
người lĩnh hội kinh nghiệm, tri thức lịch sử, xã hội bằng hoạt động của mình mà từ đó
hoàn thiện nhân cách, như hai người con trong một gia đình, cùng môi trường sống,
học tập nhưng mỗi người một tính cách, một cách sống và suy nghĩ riêng, một người
lười nhác, a dua, đua đòi, một người lại chăm chỉ, ngoan ngoãn, học giỏi đó là do
hoạt động, suy nghĩ khác nhau trong hai người con đó tạo nên . Mặt khác, thông qua
hoạt động mà con người cũng góp phần cải tạo thế giới khách quan.
Trong quá trình đối tượng hóa chủ thể sử dụng trình độ tâm lý vốn có của bản
thân như hiểu biết, tri thức... tác động vào thế giới khác quan, làm ra sản phẩm của
hoạt động. Còn trong quá trình chủ thể hóa: là quá trình biến đổi những cái từ bên
ngoài hiện thực khách quan thành những cái của chủ thể, trong quá trình đó chủ thể
phải trau dồi , rèn luyện các phẩm chất tâm lý phù hợp với yêu cầu của các hoạt động
mà họ đang tham gia, hơn nữa trong hoạt động, cá nhân sẽ tự khám phá những bản
chất, quy luật của đối tượng, tìm ra được thao tác, những kỹ năng. Kỹ xảo cần thiết.
Thực tế cho thấy khi con người ta tự thân vận động, có ý thức trong công việc
hay học tập của mình... thì người đó sẽ lĩnh hội tri thức nhanh, dễ dàng và đạt được
hiệu quả hơn nhiều
Sự hình thành và phát triển nhân cách của mỗi người phụ thuộc vào hoạt động
chủ đạo của mỗi thời kỳ nhất định, muốn hình thành nhân cách, con người phải tham
9


gia vào các dạng hoạt động khác nhau, nhất là hoạt động chủ đạo. Hoạt động của con
người được hình thành và phát triển ý thức, là nguồn gốc và nội dung của ý thức.
Hoạt động làm cho nhận thức con người nhận thức được hiện thực, kích thích hứng
thú, niềm say mê sáng tạo và làm nảy sinh những nhu cầu mới, những thuộc tính tâm
lý mới.... nhờ đó nhân cách được hình thành và phát triển.
Tuỳ thuộc vào nhu cầu và lợi ích của mình, các cá nhân hoạt động với những
động cơ, tình cảm và lý trí khác nhau và qua đó, trong hoạt động, những mặt nhất
định của tính tích cực xã hội xuất hiện trong mỗi cá nhân (có thể cá nhân này tích cực

hoạt động trong học tập, cá nhân khác là trong giao tiếp hoặc trong lao động…).
Chúng tạo ra xu hướng phát triển của nhân cách và dần đi vào cấu trúc nhân cách của
mỗi người. Chính ở đây, tính đa dạng, phong phú của nhân cách cũng được hình
thành.
5.

Yếu tố giao tiếp

Khác với hoạt động, đối tượng của giao tiếp là những chỉnh thể tâm lý sống
động, những nhân cách hoàn chỉnh, ở đây diễn ra mối quan hệ giữa chủ thể với chủ
thể.
Giao tiếp là điều kiện tồn tại của cá nhân và xã hội loài người. Nhu cầu giao
tiếp là một trong những nhu cầu xã hội cơ bản, xuất hiện sớm nhất ở con người.
Vai trò của giao tiếp, giúp con người tham gia vào các mối quan hệ xã hội, lĩnh
hội nền văn hóa xã hội, chuẩn mực xã hội, đồng thời, thông qua giao tiếp con người
đóng góp năng lực của mình vào kho tàng chung của nhân loại.
Có thể thấy hoạt động giao tiếp là hoạt động thường xuyên diễn ra trong xã
hội, đó là cách để con người tiếp xúc với nhau. Đó là giao tiếp trong cuộc trò chuyện
bạn bè, trong làm ăn kinh doanh, trong ngoại giao, trong hoạt động giảng bài của thầy
cô giáo....

10


Trong giao tiếp, con người không chỉ nhận thức người khác, nhận thức các
quan hệ xã hội, mà còn nhận thức chính bản thân mình, so sánh và thay đổi bản thân.
III. Liên hệ thực tế
Qua các yếu tố ảnh hưởng đến nhân cách trên ta nhận ra rằng các yếu tố di
truyền, hoàn cảnh sống, giáo dục, hoạt động và giao tiếp đều quan trọng trong sự hình
thành và phát triển nhân cách, chúng bổ sung, hỗ trợ cho nhau để việc hình thành

nhân cách được hoàn thiện. Trong đó yếu tố hoạt động là quan trọng nhất và là yếu tố
quyết định. Lên hệ với chính bản thân chúng ta, là những sinh viên được sinh ra trong
một môi trường xã hội tiến bộ, chất lượng giáo dục tốt, tạo mọi điều kiện cho học
sinh, sinh viên chúng ta có cơ hội học tập và phát triển, về môi trường xã hội thì các
mối quan hệ, giao tiếp ngày càng được mở rộng... nhưng không phải sinh viên nào
cũng thành công trên bước đường đời, bởi bên cạnh sự phát triển, mở rộng của xã hội
là những tệ nạn những cám rỗ ngày càng phát triển nhiều thêm. Có những sinh viên
có ước có hoài bão, có lập trường tư tưởng vững vàng trước những cám dỗ của cuộc
sống và biết vượt qua những khó khăn trước mắt thì sẽ đạt được thành công tốt trong
tương lai, bên cạnh đó có những sinh viên không thể vượt qua nổi sự cám dỗ, những
ham muốn, bồng bột của tuổi trẻ... sống tha hóa, buông thả, để rồi bỏ dở con đường
học tập, xuống dốc về tư cách đạo đức.. có thể còn rơi vào vòng lao lí.
C. KẾT LUẬN
Sự hình thành và phát triển nhân cách là một quá trình lâu dài và phức tạp.
Trong quá trình đó, giữa các yếu tố bên trong và yếu tố bên ngoài, giữa cái sinh học
và cái xã hội (cụ thể: yếu tố di truyền - bẩm sinh, môi trường, giáo dục, hoạt động,
giao tiếp) thường xuyên tác động lẫn nhau và vai trò của mỗi yếu tố đó thay đổi trong
từng giai đoạn phát triển của mỗi người. Các yếu tố đó đều cần thiết và quan trọng
đối với sự hình thành và phát triển nhân cách con người. Nhân cách không phải là một
cái gì đó đã hoàn tất, mà là quá trình luôn đòi hỏi sự trau dồi thường xuyên. Vì vậy mỗi
người cần tự biết cố gắng hoàn thiện và trau dồi nhân cách cho chính mình.
11


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

- GIÁO TRÌNH TÂM LÍ HỌC ĐẠI CƯƠNG – TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HA
NỘI
- T.S BÙI KIM CHI, ThS PHAN CÔNG LUẬN – TÂM LÍ HỌC ĐẠI CƯƠNG –
HƯỚNG DẪN TRẢ LỜI LÍ THUYẾT GIẢI CÁC BAI TẬP TÌNH HUỐNG VA

TRẮC NGHIỆM
- GIÁO TRÌNH TÂM LÍ HỌC ĐẠI CƯƠNG – NGUYỄN QUANG UẨN
- GOOGLE.COM

12



Sự hình thành và phát triển nhân cách

Mục lục:

Khái niệm sự hình thành và phát triển nhân cáchCác yếu tố chi phối sự hình thành và phát triển nhân cách
Ví dụ về các yếu to chi phối sự hình thành và phát triển nhân cách
Nhân cách là gì?

1. Khái niệm sự hình thành và phát triển nhân cách

a) Nhân cách là gì?

Hình thành nhân cách là một quá trình khách quan mang tính quy luật, trong đó một người thể hiện mình vừa trong tư cách là đối tượng của sự tác động vừa trong tư cách là chủ thể của hoạt động và giao tiếp.

Giai đoạn hình thành nhân cách được tính ngay từ khi chủ thể nhân cách còn nằm trong bào thai, giữ vai tò đặc biệt quan trọng – vai trò mang tính tiền định nhân cách.

b) Phát triển nhân cách là gì?

Phát triển nhân cách là quá trình hình thành nhân cách như là một phẩm chất xã hội của cá nhân, là kết quả của sự xã hội hóa nhân cách và của giáo dục.

Giai đoạn phát triển nhân cách có thể được xác định trong khoảng thời gian trước tuổi trưởng thành của chủ thể nhân cách.

Từ sự xác định trên, chúng ta có thể đưa ra 5 yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến sự phát triển và hình thành nhân cách, đó là: yếu tố di truyền, yếu tố hoàn cảnh sống (gồm hoàn cảnh tự nhiên và hoàn cảnh xã hội), yếu tố giáo dục, yếu tố hoạt động, yếu tố giao tiếp.


2. Các yếu tố chi phối sự hình thành và phát triển nhân cách

a) Yếu tố di truyền đối với sự hình thành và phát triển nhân cách

– Các yếu tố bẩm sinh di truyền đóng vai trò tiền đề tự nhiên, làcơ sở vật chấtcho sự hình thành và phát triển nhân cách. Các yếu tố bẩm sinh di truyền như đặc điểm hoạt động của hệ thần kinh, cấu tạo của não, cấu tạo và hoạt động của các giác quan… Những yếu tố này sinh ra đã có do bố mẹ truyền lại hoặc tự nảy sinh do biến dị (bẩm sinh).

– Di truyền là sự tái tạo ở đời sau những thuộc tính sinh học có ở đời trước, là sự truyền lại từ cha mẹ đến con cái những đặc điểm những phẩm chất nhất định (sức mạnh bên trong cơ thể, tồn tại dưới sạng nhưng tư chất và năng lực) đã được ghi lại trong hệ thống gen di truyền.

Vai trò của di truyền trong sự hình thành và phát triển nhân cách

Nhân tốdi truyền giữ vai trò tiền đề vật chất đối với quá trình hình thành và phát triển nhân cách con người vì:

– Di truyền là sự tái tạo lại ở trẻ em những thuộc tính sinh học có ở cha mẹ, là sự truyền lại từ cha mẹ cho con cái những đặc điểm, những phẩm chất nhất định đã được ghi lại trong hệ thống gen. Những thuộc tính, những đặc điểm có thể di truyền là cấu trúc giải phẫu của cơ thể, những đặc điểm sinh học (như màu da, tóc, vóc dáng…),tư chất của hệ thần kinh. Những yếu tố này trước hết đảm bảo cho loài người phát triển, đồng thời giúp con người có thể thích ứng với những biến đổi của điều kiện sinh tồn.

– Cần phân biệt khái niệm di truyền với bẩm sinh. Bẩm sinh là hiện tượng sinh ra đã có – bẩm sinh có thể là do di truyền và có thể là không phải do di truyền đem lại.

Vai trò của di truyền: Đánh giá về vai trò của di truyền ….có rất nhiều quan điểm khác nhau:

* Quan điểm Phi Mác xít: Gồm 2 quan điểm trái ngược nhau:

– Quan điểm thứ nhất: Di truyền là yếu tố quyết đinh hoàn toàn sự hình thành và phát triển nhân cách con người “ Con vua thì lại làm vua” hoặc “trứng rồng lại nở ra rồng”. Quan điểm là sai vì nó chưa đánh giá đúng vai trò của di truyền, quá đề cao vai trò của di truyền dẫn đến phủ định vai trò của các yếu tố khác đối với sự hình thành và phát triển nhân cách con người. Trên thực tế sự phát triền nhân cách con người không chỉ do di truyền quyết định mà nó còn phụ thuộc vào các nhân tố khác đó là môi trường và giáo dục đặc biệt là tính tích cực của cá nhân.

– Quan điểm thứ 2:Phủ nhận hoàn toàn vai trò của di truyền, cho rằng di truyền hoàn toàn không có vai trò gì đối với sự hình thành và phát triển nhân cách.

* Quan điểm của chủ nghĩa Mác:


Chủ nghĩa Mác không phủ nhận cũng không quá đề cao vai trò của di truyền mà nhận định: Di truyền là tiền đề, là cơ sở vật chất cần thiết đối với sự hình thành và phát triển nhân cách Di truyền là khả năng tiềm tàng mà từ đó tư chất của con người được phát triển thêm lên thông qua các mối quan hệ xã hội, qua sự giao lưu giữa người với người:

– Di truyền tạo ra những sức sống trong bản chất tự nhiên của con người, tạo khả năng cho người đó hoạt động có kết quả trong một số lĩnh vực nhất định (tạo tiền đề vật chất cho sự hình thành và phát triển nhân cách của con người)

– Di truyền, đặc biệt là vấn đề di truyền những tư chất (nhất là những tư chất về năng lực hoặc phẩm chất về một lĩnh vực hoạt động nhất định ở trẻ em) có tầm quan trọng đặc biệt đối với công tác giáo dục.

– Di truyền không thể quyết định giới hạn tiến bộ xã hội của con người mà nó chỉ tạo khả năng cho con người hoạt động có kết quả trong một số lĩnh vực nhất định.

– Di truyền không quyết định những giới hạn tiến bộ của con ngườì. Những đặc điếm sinh học mặc dù có ảnh hưởng lớn đến quá trình hình thành tài năng, xúc cảm, trí tuệ, thể chất,… của con người nhưng nó chỉ tạo tiền đề cho sự phát triển nhân cách của con người với những lĩnh vực lao động hết sức rộng rãi, nó không định hướng cụ thể vào một lĩnh vực nào đó.

Ví dụ: Một người có tư chất toán học (yếu tố di truyền) nên định hướng cho con người đó có khả năng hoạt động trong lĩnh vực khoa học tự nhiên, người đó có trở thành nhà toán học hay giáo viên toán hoặc kỹ sư, kiến trúc sư, bác sỹ, nhà quản lý,….lại phụ thuộc vào sự tích cực, sự cố cố gắng của bản thân, sự giáo dục của môi trường, giáo dục nhà trường, gia đình và xã hội.

– Di truyền không quyết định nội dung của sự phát triển tâm lý mà nó chỉ ảnh hưởng: tạo điều kiện thuận lợi hay trở ngại cho sự phát triển tâm lý với tốc độ nhanh hay chậm (VD: trẻ khuyết tật về thị giác hay thính giác tiếp thu kinh nghiệm XH – LS khó khăn và chậm hơn song điều đó không quyết định ND tâm lý nhân cách.

Trên thực tế có nhiều gia đình liên tục xuất hiện những người có tài qua nhiều thế hệ- chỉ có thể giải thích là cá nhân đó được thừa hưởng những tư chất nhất định, được sống và học tập trong môi trường thuận lợi, được tham gia sớm vào hoạt động đó…

* Như vậy, trong giáo dục và quản lý giáo dục cần nhận thức và đánh giá đúng về vai trò của di truyền đối với quá trình hình thành và phát triển nhân cách con người, không được tuyệt đối hoá vai trò của di truyền hay phủ nhận vai trò của di truyền. Mọi hoạt động giáo dục, dạy học trong nhà trường phải dựa trên đặc điểm tâm lý của từng lứa tuổi để xác định mục tiêu, nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục cho phù hợp.

b) Yếu tố môi trường đối với sự hình thành và phát triển nhân cách

– Trong sự hình thành và phát triển nhân cách, môi trường xã hội có tầm quan trọng đặc biệt vì nếu không có xã hội loài người thì những tư chất có tính người cũng không thể phát triển được. Môi trường là hệ thống các hoàn cảnh bên ngoài, các điều kiện tự nhiên và môi trường xã hội xung quanh cần thiết cho hoạt động sống và phát triển của trẻ nhỏ.

– Sự hình thành và phát triển nhân cách chỉ có thể được thực hiện trong một môi trường nhất định. Môi trường góp phần tạo nên mục đích, động cơ, phương tiện và điều kiện cho hoạt động giao lưu của cá nhân, nhờ đó giúp trẻ chiếm lĩnh được các kinh nghiệm để hình thành và phát triển nhân cách của mình.

– Tuy nhiên, tính chất và mức độ ảnh hưởng của môi trường đối với sự hình thành và phát triển nhân cách còn tùy thuộc vào lập trường, quan điểm, thái độ của cá nhân đối với các ảnh hưởng đó, cũng như tùy thuộc vào xu hướng và năng lực, vào mức độ cá nhân tham gia cải biến môi trường.

Xem thêm: Vocational School Là Gì ? Vocational School Nghĩa Là Gì Trong Tiếng Việt

c) Yếu tố giáo dục đối với sự hình thành và phát triển nhân cách

– Giáo dục là sự tác động có mục đích, có tổ chức, có kế hoạch nhằm thực hiện có hiệu quả các mục đích đã đề ra. Giáo dục giữ vai trò chủ đạo đối với sự hình thành và phát triển nhân cách. Giáo dục có thể mang lại những tiến bộ mà các nhân tố khác như bẩm sinh – di truyền hoặc môi trường, hoàn cảnh không thể có được.

– Giáo dục không chỉ thích ứng mà còn có thể đi trước hiện thực và thúc đẩy nó phát triển. Giáo dục có giá trị định hướng sự hình thành phát triển nhân cách. Giáo dục thúc đẩy sức mạnh bên trong khi trẻ nắm bắt được nhu cầu, động cơ, hứng thú và nó phù hợp với quy luật phát triển bên trong của cá nhân.

– Bên cạnh đó giáo dục có tầm quan trọng đặc biệt đối với những người bị khuyết tật, nó có thể bù đắp những thiếu hụt do bệnh tật gây ra cho con người. Giáo dục còn có thể uốn nắn những phẩm chất tâm lý xấu và làm cho nó phát triển theo chiều hướng mong muốn của xã hội.

– Tuy nhiên không nên tuyệt đối hóa vai trò của giáo dục đối với sự hình thành nhân cách. Giáo dục không thể tách rời tự giáo dục, tự rèn luyện, tự hoàn thiện nhân cách ở mỗi cá nhân.

Giáo dục giữ vai trò chủ đạo đối với quá trình hình thành và phát triển nhân cách con người. Một nền giáo dục được tổ chức tốt bằng các hình thức hoạt động giao lưu phong phú và đa dạng với những phương pháp khoa học có thể làm con người đạt tới sự phát triển toàn diện phù hợp với sự phát triển của thời đại. Tuy nhiên, giáo dục đóng vai trò chủ đạo chứ không phải là duy nhất, cũng như không phải là quyết định trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách con người. Nó chỉ vạch ra chiều hướng cho sự hình thành và phát triển nhân cách học sinh và thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển theo chiều hướng đó. giáo dục không chỉ là sự tác động một chiều của nhà giáo dục tới học sinh mà còn bao gồm cả những tác động tích cực, phong phú, đa dạng giữa học sinh với nhau nên trong công tác giáo dục cần phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục và tự giáo dục.

d) Yếu tố hoạt động cá nhân đối với sự hình thành và phát triển nhân cách

– Hoạt động là phương thức tồn tại của con người. Hoạt động của con người là hoạt động có mục đích, mang tính xã hội, cộng đồng, được thực hiện bằng những thao tác nhất định với những công cụ nhất định. Hoạt động cá nhân đóng vai trò quyết định trực tiếp đối với sự hình thành và phát triển nhân cách.

– Thông qua hoạt động của bản thân trẻ sẽ lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử – xã hội và biến nó thành nhân cách của mình. Hoạt động giúp kích thích hứng thú, niềm say mê sáng tạo và làm nảy sinh những nhu cầu mới, những thuộc tính tâm lý mới… ở mỗi các nhân mà nhờ đó nhân cách được hình thành và phát triển.

Sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ phụ thuộc vào hoạt động ở mỗi thời kì, lứa tuổi nhất đinh. Muốn hình thành và phát triển nhân cách thì cha mẹ cần phải tcho con ham gia vào các dạng hoạt động khác nhau và kích thích yếu tố hoạt động cá nhân.

Ngay từ khi còn nhỏ, ở mỗi trẻ đã hình thành những nhân cách khác nhau cũng như chịu chi phối bởi hệ thống gia đình, giáo dục, xã hội,….Trong đó gia đình được coi là cái nôi của nhân cách, tác động vào hệ thống phát triển tinh thần và thể chất của trẻ. Vì vậy giáo dục nhân cách cho trẻ ngay từ nhà là điều rất quan trọng và cần thiết.

e) Yếu tố giao tiếp đối với sự hình thành và phát triển nhân cách

Giao tiếp là hình thức hoạt động đặc trưng cho mối quan hệ giữa con người với con người, thông qua đó thực hiện sự tiếp xúc tâm lí và được biểu hiện ở 3 quá trình: trao đổi thông tin, hiểu biết lẫn nhau và tác động lẫn nhau.

Ví dụ như giáo viên lên lớp giảng bài cũng coi là hoạt động giao tiếp, do nó có sự trao đổi thông tin.

Giao tiếp đóng vai trò cơ bản trong sự hình thành và phát triển nhân cách. Bởi vì:

+ Nó ko thể có tâm lí con bên ngoài mối quan hệ giao tiếp, con người không thể tồn tại bên ngoài giao tiếp. Thông qua giao tiếp để tiếp thu, lĩnh hội những kinh nghiệm lịch sử – xã hội mà các thế hệ trước để lại để trở thành thành viên của xã hội.

Ví dụ như: Con người không thể tự mình chứng minh các định lí, công thức toán học mà phải thông qua giao tiếp dưới hình thức học tập, trao đổi các nghiên cứu của những nhà toàn học thời trước để lĩnh hội kết quả nghiên cứu của họ.

+ Giao tiếp thúc đẩy sự hình thành ở con người những hứng thú nhận thức khác nhau, điều này có thể làm đòn bẩy để dẫn đến sự tự đào tạo. Ví dụ như: Thông qua việc tham gia các hội thảo về môi trường, học sinh A có thể thấy hứng thú với vấn đề bảo vệ môi trường, điều đó thúc đẩy em tự nghiên cứu tìm tòi và từ đó dẫn đến sự tự đào tạo.

+ Trong giao tiếp con người không chỉ nhận thức người khác mà còn nhận thức chính bản thân mình, bất kì người nào cũng đối chiếu mình với cái mà họ nhìn thấy ở người khác, so sánh cái mà họ làm được với cái mà người xung quanh làm. Do đó, qua giao tiếp, con người tự đánh giá bản thân mình như một nhân cách.

Ví dụ: Các em học sinh cùng trao đổi cách giải một bài toán khó. Qua việc tranh luận đó, các em có thể tự thấy cách làm của mình là đúng hay sai, có nhanh gọn hay không.

+ Nhu cầu giao tiếp là một nhu cầu xã hội cơ bản và xuất hiện sớm nhất ở con người. Việc không thỏa mãn nhu cầu này ở con người ở bất cứ lứa tuổi nào đều dẫn đến những rung động tiêu cực.

Ví dụ như: Những trẻ em không được đi nhà trẻ, các em không được tập giao tiếp làm quen với thầy cô và bạn bè nên khi đi học lớp 1 sẽ rất rụt rè, nhút nhát.

Nhân tố nào quan trọng nhất đối với quá trình hình thành và phát triển nhân cách?

Trong 5 nhân tố nêu trên thì nhân tố giáo dụcgiữ vai trò chủ đạođối với quá trình hình thành và phát triển nhân cách con người.

Các tìm kiếm liên quan: Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển tâm lý cá nhân, Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách của con người, Quan điểm sai lầm đối với sự hình thành và phát triển nhân cách, Mọi sự suy thoái về nhân cách thường bắt nguồn từ nhu cầu tiêu cực, Ví dụ về các yếu tố chi phối sự hình thành và phát triển nhân cách, Cơ chế hình thành và phát triển tâm lý người, Vai trò của di truyền trong sự hình thành và phát triển nhân cách

1. Khái niệm nhân cách con người

Nhân cách là khái niệm chỉ bao hàm phần xã hội, tâm lí của cá nhân, đó là một con người với tư cách là một thành viên của một xã hội nhất định; là chủ thể của các quan hệ người – người, của hoạt động có ý thức và giao lưu. Hiện nay có rất nhiều lí thuyết khác nhau về nhân cách trong khoa học tâm lí. Đó là thuyết phân tâm của S.Frued, thuyết siêu phẳng và bù trừ của A.Adler…

Các nhà tâm lí học theo quan điểm của Mác –xít đều cho rằng khái niệm nhân cách phải là một phạm trù xã hội chứ không thể thuần tâm lí. Tuy nhiên điều đó không loại trừ việc mỗi ngành khoa học tiếp cận vấn đề nhân cách theo góc độ của mình, trong số đó có khoa học tâm lí. Rõ ràng là một người sẽ chỉ trờ thành nhân cách kho đã có tâm lí và ý thức. Sau đây là một số định nghĩa về nhân cách của những nhà tâm lí theo quan điểm Mác – xít được sử dụng rộng rãi:

“Nhân cách là một cá nhân có ý thức, chiếm một vị trí nhất định trong xã hội và đang thực hiện một vai trò nhất định.” – A.G.Goovaliôp

“Nhân cách là con người với tư cách là kẻ mang toàn bộ thuộc tính và phẩm chất tâm lí đang quy định những hình thức hoạt động và những hành vi có ý nghĩa xã hội” – E.V.Sôrôkhôva

Mặc dù có các định nghĩa khác nhau như trên nhưng các nhà tâm lí học Mác – xít đề thống nhất với nhau ở quan điểm: “Nhân cách là tổ hợp những thuộc tính tâm lý của một cá nhân biểu hiện ở bản sắc và giá trị xã hội của người ấy.”

Nói thuộc tính tâm lý là nói hiện tượng tâm lý tương đối ổn định – kể cả phần sống động và phần tiềm tàng (nét, thói, tính tình,,,) có tính quy luật chứ không phải xuất hiện một cách ngẫu nhiên.

Xem thêm: Tâm lý học phát triển là gì? Các lý thuyết theo tâm lý học phát triển?

Dùng chữ “tổ hợp” có nghĩa là những thuộc tính tâm lý hợp thành nhân cách có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động lẫn nhau làm thành một hệ thống, một cấu trúc nhất định. Cũng một thuộc tính đó, nằm trong thuộc tính khác cũng trở nên khác đi.

Nói “bản sắc” là muốn nói trong số những thuộc tính đó, trong hệ thống đó có cái chung từ xã hội, từ giai cấp, tập thể gia đình vào con người nhưng cái chung này (gọi tắt là kinh nghiệm – xã hội – lịch sử) đã trở thành cái riêng, cái khác biệt của từng người có đặc điểm về nội dung và cả về hình thức, không giống với các tổ hợp khác của bât cứ một người nào khác.

Dùng chữ “giá trị xã hội” là muốn nói những thuộc tính đó thể hiện ra ở những việc làm, những cách ứng xử, hành vi, hành động, hoạt động phổ biến của người ấy và được xã hội đánh giá.

1. Vai trò của yếu tố bẩn sinh di truyền đến sự hình thành và phát triển nhân cách:

1.1. Khái niệm nhân cách:

Cho đến nay có rất nhiều quan điểm, quan niệm khác nhau về nhân cách, một số khái niệm thường gặp:

Quan điểm thứ nhất thì nhân cách là toàn bộ những thuộc tính đặc biệt mà một cá thể có được trong hệ thống các quan hệ xã hội, trên cơ sở hoạt động và giao lưu nhằm chiếm lĩnh các giá trị văn hóa vật chất và tinh thần. Những thuộc tính đó bao hàm các thuộc tính về trí tuệ, đạo đức, thẩm mỹ, vật chất.

Theo Bách khoa toàn thư Liên Xô, nhân cách được thể hiện ở hai mặt: thứ nhất là con người với tư cách là chủ thể của các mối quan hệ và hoạt động có ý thức, thứ hai là một hệ thống giá trị có ý nghĩa xã hội đặc trưng cho cá thể trở thành một nhân cách.

Mặc dù các quan điểm, định nghĩa trên có khác nhau nhưng nhìn chung có sự thống nhất khi xem xét nhân cách, đó là:

Những phẩm chất và năng lực có giá trị đối với cá nhân và xã hội được hình thành và phát triển bằng hai con đường chủ yếu là hoạt động và giao lưu.

Mỗi cá nhân có một nhân cách riêng bao gồm hai mặt: mặt tự nhiên và mặt xã hội, trong đó mặt xã hội có ý nghĩa quan trọng đặc biệt, thể hiện đặc thù về nhân cách của mỗi con người.

Nhân cách là tổng hợp những phẩm chất, năng lực không thành bất biến của cá nhân mà nó thường xuyên vận động, biến đổi theo chuẩn mực, giá trị xã hội.

Ví dụ về các yếu to chi phối sự hình thành và phát triển nhân cách

Xem thêm: Tâm lý học phát triển là gì? Các lý thuyết theo tâm lý học phát triển?

Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài:1900.6568

1.2. Đặc điểm của nhân cách:

Tính thống nhất của nhân cách: nhân cách là một cấu trúc tâm lý, tức là một chỉnh thể thông nhất các thuộc tính, đặc điểm tâm lý xã hội, thông nhất giữa phẩm chất và năng lực, giữa đức và tài.

Tính thống nhất của nhân cách còn thể hiện ở sự thống nhất giữa ba cấp độ: cấp độ bên trong cá nhân, cấp độ liên cá nhân, cấp đọ siêu cá nhân. Đó chính là sự thống nhất giữa tâm lý, ý thức với hoạt động giao tiếp của nhân cách.

Thứ hai là tính ổn định của nhân cách: là những hiện tượng tâm lý tương đối ổn định và bền vững. Nhân cách là tập hợp những thuộc tính tâm lý tạo thành bộ mặt tâm lý xã hội của cá nhân, phần nào nói lên bản chất xã hội của họ. Vì thế các đặc điểm nhân cách cũng như cấu trúc nhân cách khó hình thành và cũng khó mất đi

Thứ ba: tính tích cực của nhân cách được biểu hiện trước tiên ở việc xác định một cách tự giác mục đích hoạt động, tiếp đó là sự chủ động tự giác thực hiện các hoạt động, giao tiếp nhằm hiện thực hóa mục đích. Ở đây, nhân cách bộc lộ khả năng tự điều chỉnh và chịu sự điều chỉnh của xã hội, đâu cũng là biểu hiện tích cực của nhân cách.

Tùy theo mức độ và loại hình hoạt động mà mục đích của nó được nhân cách xác định là nhận thức hay cải tạo thế giới, nhận thức hay cải tạo chính bản thân mình. Giá trị đích thực của nhân cách, chức năng xã hội và cốt cách làm người của cá nhân thể hiện rõ nét tính tích cực của nhân cách. Tính tích cực của nhân cách cũng biểu hiện rõ trong quá trình thỏa mãm các nhu cầu của nó. Không chỉ thỏa mãn với các đối tượng có sẵn, con người luôn luôn tạo ra các đối tượng mới, các phương thức thỏa mãn mới những nhu cầu ngày càng cao của họ. Quá trình đó luôn là quá trình hoạt động có mục đích tự giác, trong đó con người làm chủ được những hình thức hoạt động của mình.

Thứ tư là tính giao lưu của nhân cách. Nhân cách chỉ có thể hình thành, phát triển, tồn tại và thể hiện trong hoạt động và trong mối quan hệ giao lưu với những nhân cách khác. Nhu cầu giao lưu (giao tiếp) được xem như là một nhu cầu bẩm sinh của con người. Thông qua quan hệ giao tiếp với người khác, con người gia nhập các quan hệ xã hội, lĩnh hội các chuẩn mực đạo đức và hệ thống giá trị xã hội. Đồng thời, cũng qua giao tiếp mà con người được đánh giá, được nhìn nhận theo quan hệ xã hội. Điều quan trọng là qua giao tiếp, con người đóng góp các giá tị nhân cách của mình cho người khác, cho xã hội.

1.3. Sự phát triển nhân cách:

Con người từ khi mới sinh ra chưa có sự định hình về nhân cách. Dần dần theo thời gian, tác động của quá trình sống, tất yếu mỗi con người phải hoạt động, giao lưu thông qua học tập, lao động, vui chơi, giải trí… ngày càng tích lũy được những kinh nghiệm mà nhân loại tích lũy được trong các loại hoạt động, từ đó biến thành vốn sống của cá nhân. Đó chính là quá trình hình thành và phát triển nhân cách của con người. Sự phát triển đó được biểu hiện qua các dấu hiệu sau: sự phát triển về mặt thể chất (tăng trưởng về chiều cao, trọng lượng, cơ bắp, sự hoàn thiện các chức năng giác quan; sự phát triển về mặt tâm lý thể hiện sự biến đổi cơ bản trong quá trình nhận thức, xúc cảm, tình cảm, nhu cầu, ý chí…; sự phát triển về mặt xã hội thể hiện ở thái độ, hành vi ứng xử trong các mối quan hệ vơi người xung quanh, ở tính tích cực nhận thức tham gia vào các hoạt động cải biến, phát triển xã hội.

Xem thêm: Lược đồ là gì? Phân loại và ví dụ về các loại lược đồ tâm lý học?

Như vậy, sự phát triển nhân cách là một quá trình cải biến toàn bộ các sức mạnh về vật chất và tinh thần cả về lượng và chất; có tính đến đặc điểm của mỗi lứa tuổi. Sự tăng trưởng về lượng và sự biến đổi về chất không chỉ diễn ra đối với các mặt thể chất, tâm lý và xã hội do quá trình hoạt động, giao lưu trong cuộc sống cá nhân , do tác động của hiện thực xung quanh và còn diễn ra với cả những mầm mống, dấu hiệu được di truyền hay có từ khi mới sinh.