Vamc xử lý 9 tháng 2022

Đến cuối tháng 7/2022, tỷ lệ nợ xấu nội bảng vẫn ở mức an toàn là 1,7%. Tỷ lệ nợ xấu, nợ bán cho VAMC chưa xử lý và các khoản tiềm ẩn trở thành nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng là 5,41%.

Trong báo cáo vừa gửi tới Ủy ban Kinh tế Quốc hội, Ngân hàng Nhà nước cho biết, thời gian qua đã chỉ đạo các tổ chức tín dụng tích cực thực hiện các giải pháp đẩy mạnh xử lý nợ xấu, nâng cao chất lượng tín dụng, ngăn ngừa, hạn chế tối đa nợ xấu mới phát sinh.

Bên cạnh đó, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát nhằm kịp thời phát hiện các vấn đề, tồn tại, vi phạm trong hoạt động cấp tín dụng và đưa ra các kiến nghị, khuyến nghị cụ thể, có biện pháp xử lý phù hợp nhằm hạn chế rủi ro, bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng.

Ngân hàng Nhà nước cũng đã có văn bản chỉ đạo các tổ chức tín dụng, Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) và Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố tiếp tục đẩy mạnh triển khai có hiệu quả công tác xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42 trong thời gian kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ quy định của Nghị quyết, khắc phục những khó khăn, vướng mắc theo yêu cầu tại Nghị quyết 63/2022/QH15 của Quốc hội.

Vamc xử lý 9 tháng 2022

Đến cuối tháng 7/2022, tỷ lệ nợ xấu nội bảng vẫn ở mức an toàn là 1,7%. (Ảnh: TN)

Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước, từ năm 2012 đến cuối tháng 7/2022, toàn hệ thống các tổ chức tín dụng đã xử lý được khoảng 1.449,8 nghìn tỷ đồng nợ xấu; riêng 7 tháng đầu năm 2022 xử lý được khoảng 88,1 nghìn tỷ đồng nợ xấu.

Trong đó, tổ chức tín dụng tự xử lý ở mức cao (chiếm 82,6% trong tổng nợ xấu được xử lý). Việc tự xử lý nợ xấu chủ yếu thực hiện thông qua hình thức sử dụng dự phòng rủi ro và khách hàng trả nợ. Riêng xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42, lũy kế từ 15/8/2017 đến 31/7/2022, toàn hệ thống các tổ chức tín dụng đã xử lý được 399,7 nghìn tỷ đồng nợ xấu.

Đến cuối tháng 7/2022, tỷ lệ nợ xấu nội bảng vẫn ở mức an toàn là 1,7%; tỷ lệ nợ xấu, nợ bán cho VAMC chưa xử lý và các khoản tiềm ẩn trở thành nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng là 5,41% (cuối năm 2021 là 6,3%).

Năm 2023, mục tiêu của Ngân hàng Nhà nước là triển khai quyết liệt, hiệu quả Đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021-2025.

Trong đó, tập trung xử lý các tổ chức tín dụng yếu kém, giám sát và kiểm soát chặt chẽ việc phát sinh nợ xấu; tăng cường kiểm soát tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, đầu tư trái phiếu doanh nghiệp... kịp thời phát hiện dấu hiệu rủi ro, vi phạm để có biện pháp xử lý kịp thời.

Đồng thời, thực hiện tăng vốn điều lệ cho các ngân hàng thương mại nhà nước theo đúng quy định tại Nghị quyết 43/2022/QH15.

Trong dự báo trước đó, TS. Cấn Văn Lực - chuyên gia ngân hàng dự báo, nợ xấu nội bảng của ngành ngân hàng năm 2022 sẽ tăng từ mức 1,9% cuối năm 2021 lên 2%, còn nợ xấu gộp (bao gồm nợ xấu nội bảng, nợ xấu bán cho VAMC chưa được xử lý và nợ xấu tiềm ẩn từ các khoản cơ cấu lại) giảm từ mức 7,31% xuống khoảng 6%. Sở dĩ nợ xấu gộp có khả năng giảm vì kinh tế Việt Nam phục hồi tốt hơn kỳ vọng, giúp nợ xấu tiềm ẩn giảm.

Tỷ lệ nợ xấu nội bảng vẫn ở mức an toàn, nợ xấu nhận diện tổng thể ở các “cấu phần” khác giảm khá mạnh, theo cập nhật mới từ Ngân hàng Nhà nước.

Vamc xử lý 9 tháng 2022

Ảnh minh họa

Nợ xấu với các tỷ lệ cụ thể, cập nhật gần nhất có trong báo cáo của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) gửi về, phục vụ phiên họp ngày 30/9 của Ủy ban Kinh tế của Quốc hội.

Trong năm 2021, nợ xấu và nợ xấu nhận diện tổng thể (nợ bán cho Công ty Quản lý tài sản các tổ chức tín dụng Việt Nam - VAMC chưa xử lý, các khoản tiềm ẩn trở thành nợ xấu) tăng lên và dự báo tiếp tục tăng trong năm 2022 bởi tác động tiêu cực lâu dài của đại dịch COVID-19.

Tuy nhiên, từ tháng 10/2021, kinh tế Việt Nam dần mở cửa trở lại bình thường; hoạt động sản xuất kinh doanh dần phục hồi. Tình hình nợ xấu theo đó cho đến nay không chuyển biến xấu thêm mà còn giảm khá mạnh.

Trước hết, hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD) tiếp tục thực hiện xử lý nợ xấu và có kết quả khả quan. Báo cáo của NHNN cho biết, từ năm 2012 đến cuối tháng 7/2022, toàn hệ thống các TCTD đã xử lý được khoảng 1.449,8 nghìn tỷ đồng nợ xấu; riêng 7 tháng đầu năm 2022 xử lý được khoảng 88,1 nghìn tỷ đồng nợ xấu, trong đó TCTD tự xử lý ở mức cao (chiếm 82,6% trong tổng nợ xấu được xử lý).

Việc tự xử lý nợ xấu chủ yếu thực hiện thông qua hình thức sử dụng dự phòng rủi ro và khách hàng trả nợ. Riêng xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42, lũy kế từ 15/8/2017 đến 31/7/2022, toàn hệ thống các TCTD đã xử lý được 399,7 nghìn tỷ đồng nợ xấu.

Theo báo cáo trên của NHNN, cập nhật đến cuối tháng 7/2022, tỷ lệ nợ xấu nội bảng của toàn hệ thống vẫn ở mức an toàn là 1,7%; đáng chú ý, tỷ lệ nợ xấu, nợ bán cho VAMC chưa xử lý và các khoản tiềm ẩn trở thành nợ xấu của hệ thống các TCTD là 5,41%, giảm khá mạnh so với mức 6,3% cuối năm 2021.

Tiếp tục xử lý nợ xấu và tăng cường kiểm soát rủi ro, trong báo cáo trên NHNN định hướng trong năm 2023 sẽ tiếp tục điều hành chủ động, linh hoạt, đồng bộ, phối hợp chặt chẽ chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, thích ứng kịp thời với thị trường trong nước và ngoài nước.

Điều hành tín dụng an toàn, hiệu quả, phù hợp với diễn biến vĩ mô, tình hình lạm phát. Chỉ đạo các TCTD hướng tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ, cho vay phục vụ nhu cầu đời sống, tín dụng tiêu dùng với mức lãi suất hợp lý, đảm bảo an toàn vốn vay, hỗ trợ phục hồi và phát triển kinh tế xã hội; tiếp tục kiểm soát chặt chẽ rủi ro tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro.

Tăng cường triển khai các giải pháp nhằm tăng khả năng tiếp cận vốn tín dụng của người dân, doanh nghiệp.

NHNN cũng nhấn mạnh tinh thần triển khai quyết liệt, hiệu quả Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021 - 2025. Trong đó, tập trung xử lý các TCTD yếu kém, giám sát và kiểm soát chặt chẽ việc phát sinh nợ xấu; tăng cường kiểm soát tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, đầu tư trái phiếu doanh nghiệp... kịp thời phát hiện dấu hiệu rủi ro, vi phạm để có biện pháp xử lý kịp thời. Đồng thời, thực hiện tăng vốn điều lệ cho các NHTM nhà nước theo đúng quy định tại Nghị quyết 43/2022/QH15.