U xương lành tính là gì

(Xem thêm Tổng quan về u xương khớp.)

Nang xương đơn độc

Ở trẻ em, các nang xương đơn độc đơn thuần thường xuất hiện ở các xương dài, xa sụn tiếp hợp. Nang xương làm cho vỏ xương mỏng và có nguy cơ bị gãy xương bệnh lý, đây cũng là dấu hiệu thường gặp để phát hiện nang xương. Chẩn đoán dựa vào phim Xquang quy ước. Nang xương một ngăn lành tính thường có bờ rõ, không có phản ứng xơ hoặc phồng vỏ. Một số nang nhỏ hơn có thể tự khỏi mà không cần điều trị. Gãy xương không di lệch do các nang nhỏ có thể kích thích quá trình sửa chữa. Các nang lớn hơn, đặc biệt ở trẻ em, có thể cần nạo và ghép xương; tuy nhiên, nhiều trường hợp đáp ứng với tiêm corticosteroid, tiêm chất nền xương khử khoáng, hoặc chất thay thế xương tổng hợp. Đáp ứng là rất khác nhau và có thể cần phải tiêm nhiều lần. Mặc dù được điều trị nhưng các nang xương vẫn tồn tại ở khoảng 10 - 15% bệnh nhân.

Nang xương phình mạch

Nang xương phình mạch là một tổn thương gây phồng xương nguyên phát, thường xuất hiện trước tuổi 25. Tổn thương nang này thường xuất hiện ở vùng hành xương của các xương dài, nhưng gần như tất cả các xương đều có thể bị. Nó có xu hướng phát triển chậm. Vỏ xương mới được hình thành xung quanh tổn thương phồng xương và thường lớn hơn xương ban đầu. Thường gây đau và sưng. Tổn thương có thể xuất hiện vài tuần cho tới hàng năm trước khi được chẩn đoán.

Đặc điểm đặc trưng trên phim Xquang: vùng tổn thương thường cong đều và không đồng tâm, phồng màng xương (bong bóng), xâm lấn mô mềm, và có thể hình thành xương mới xung quanh. MRI thấy mức dịch - dịch điển hình. Trên hình ảnh, có thể có một số tổn thương giống nang xương phình mạch, có các đặc điểm tương tự như sarcom xương, và khi đó nên nghĩ tới sarcom xương thể giãn mạch.

Phẫu thuật cắt toàn bộ tổn thương là phương pháp điều trị hiệu quả nhất; Có thể tái phát nếu cắt không hoàn toàn. Nên tránh xạ trị khi có thể vì có thể hình thành sarcom. Tuy nhiên, xạ trị có thể là một phương pháp điều trị được lựa chọn khi tổn thương đốt sống gây chèn ép tủy sống mà không tiếp cận hoàn toàn được bằng phẫu thuật.

Loạn sản xơ xương

Loạn sản xơ xương liên quan tới sự phát triển bất thường của xương ở trẻ em. Nó có thể ảnh hưởng đến một hoặc nhiều xương. Loạn sản xơ nhiều vị trí, sắc tố da và bất thường nội tiết có thể xảy ra (hội chứng Albright hoặc hội chứng McCune-Albright). Các tổn thương xương bất thường của loạn sản xơ thường dừng phát triển ở độ tuổi dậy thì. Hiếm khi chuyển sang ác tính.

Trên Xquang, các tổn thương có thể ở dạng nang, phình ra và biến dạng. Trên hình ảnh, những tổn thương có dạng kính mờ cổ điển.

Thuốc bisphosphonat có thể giúp giảm đau. Các biến dạng tiến triển, gãy xương không hồi phục khi bất động, hoặc đau nhiều có thể được điều trị hiệu quả bằng phẫu thuật.

U xương sụn

Các loại u xương sụn (sự quá phát của xương và sụn), là loại u xương lành tính thường gặp nhất, có thể phát triển từ bất cứ xương nào nhưng có xu hướng xuất hiện gần đầu các xương dài. Các khối u thường biểu hiện nhất ở người từ 10 - 20 tuổi và có thể một khối hoặc nhiều khối. U xương sụn đa ổ có xu hướng di truyền trong gia đình. Ung thư sụn ác tính thứ phát xuất hiện ở dưới 1% bệnh nhân có một khối u xương sụn, nhưng ở khoảng 10% bệnh nhân có nhiều khối u xương sụn. Bệnh nhân u xương sụn đa ổ có tính chất di truyền có nhiều khối u và dễ phát triển thành ung thư sụn hơn là những bệnh nhân u xương sụn một ổ. U xương sụn hiếm khi gây gãy xương.

Trên các phương pháp chẩn đoán hình ảnh, tổn thương biểu hiện là một chồi xương với một vỏ sụn (thường < 2 cm) ra khỏi trên bề mặt của xương mà không bao phủ phía dưới của chồi xương. Ống tủy tiếp giáp với nền của chồi xương. Ống tủy và chồi xương liên kết với nhau, và không có vỏ bọc thực sự tại nền của chồi xương. Trường hợp bao thanh dịch hình thành trên vỏ sụn có thể gây đau.

Cần cắt bỏ nếu khối u chèn vào dây thần kinh lớn; gây đau (đặc biệt là khi chọc vào cơ và hình thành một bao thanh dịch viêm); rối loạn phát triển; hoặc hình ảnh một tổn thương hủy hoại, khối ở mô mềm hoặc nắp sụn dày (> 2 cm) gợi ý dấu hiệu chuyển dạng thành ung thư sụn ác tính. Một khối u lớn ở người trưởng thành cần nghi ngờ tổn thương ung thư sụn và có thể cần phải phẫu thuật hoặc sinh thiết.

U nội sụn

U nội sụn có thể xuất hiện ở mọi lứa tuổi nhưng có xu hướng gặp ở người từ 10 đến 40 tuổi. Chúng thường nằm bên trong tủy xương ở vị trí hành - thân xương. Những khối u này thường không có triệu chứng nhưng có thể lớn lên và gây đau. Thường phát hiện khi chụp X quang vì một lý do khác. U sụn quanh xương là tổn thương sụn tương tự xuất hiện ở bề mặt của các xương.

Trên phim X-quang, khối u có thể là một vùng canxi hóa dạng thùy trong xương; một số tổn thương ít bị canxi hóa, với những vùng canxi hóa vón cục trên phim Xquang thường hoặc phim CT. Nếu xuất hiện cạnh vỏ xương, u nội sụn có dạng vỏ sò nội sụn nhỏ. Trên xạ hình xương, hầu hết các u nội sụn tăng bắt phóng xạ, do đó dễ nhầm với một tổn thương ung thư. Có thể chẩn đoán dựa vào các dấu hiệu trên Xquang, bao gồm cả MRI và CT; nếu không chẩn đoán được, đặc biệt nếu khối u (không liên quan tới khớp) đau, chẩn đoán u nội sụn nên được xác định bằng sinh thiết. Để phân biệt đau xương với đau khớp, có thể tiêm khớp, thường sử dụng thuốc giảm đau tác dụng kéo dài (như bupivacaine); nếu bệnh nhân vẫn còn đau, có thể nguyên nhân là do tổn thương tại xương.

U nội sụn không triệu chứng thì không cần phải sinh thiết, phẫu thuật cắt bỏ, hoặc điều trị khác (thường là nạo vét); tuy nhiên, cần theo dõi bằng các phương pháp chẩn đoán hình ảnh để loại trừ tiến triển hiếm gặp của bệnh thành ung thư sụn. Theo dõi sau 6 tháng và 1 năm hoặc bất cứ khi nào xuất hiện các triệu chứng.

Bệnh nhân với nhiều khối u nội sụn (bệnh Ollier) và đặc biệt là u nội sụn đa ổ có chảy máu mô mềm (hội chứng Maffucci) có nguy cơ cao hơn nhiều của ung thư nội sụn.

U nguyên bào sụn

U nguyên bào sụn là một bệnh hiếm gặp và thường xảy ra nhất ở độ tuổi từ 10 - 20. Phát triển từ đầu xương, khối u này có thể tiếp tục phát triển và phá hủy xương khớp.

Biểu hiện trên hình ảnh là một u nang với bờ xơ hóa chứa các đốm vôi hóa dạng chấm. MRI có thể giúp chẩn đoán với hình ảnh phù rõ xung quanh tổn thương .

Khối u phải được phẫu thuật loại bỏ bằng cách nạo, và khoang phải được ghép xương. Tỷ lệ tái phát tại chỗ khoảng 10 đến 20%, và các tổn thương tái phát thường được điều trị bằng nạo và ghép xương lại.

U xơ sụn nhầy

U xơ sụn nhầy rất hiếm và thường xuất hiện trước tuổi 30.

Trên các phương pháp chẩn đoán hình ảnh, tổn thương thường không đồng tâm, bờ rõ, tiêu xương và xuất hiện gần đầu các xương dài, gợi ý chẩn đoán u xơ sụn nhầy.

Điều trị u xơ sụn nhầy sau sinh thiết là phẫu thuật cắt bỏ hoặc nạo.

U xương dạng xương

U xương dạng xương, có xu hướng xuất hiện ở những người trẻ tuổi (thường từ 10 đến 35 tuổi), có thể xảy ra ở bất kỳ xương nào nhưng thường gặp nhất là các xương dài. Nó có thể gây đau (thường đau nhiều hơn vào ban đêm, phản ánh tình trạng viêm qua trung gian protaglandin tăng lên vào ban đêm). Đau thường được giảm bớt bằng các thuốc giảm đau nhẹ (đặc biệt là aspirin hoặc các NSAID khác) nhắm vào prostaglandin. Ở trẻ đang phát triển, đáp ứng viêm và tình trạng xung huyết, nếu gần với sụn tăng trưởng, có thể gây phát triển quá mức và ảnh hưởng tới sự phát triển chiều dài của chi. Khám lâm sàng phát hiện tình trạng teo cơ xung quanh do cơ giảm vận động do đau.

Đặc điểm trên các phương pháp chẩn đoán hình ảnh là một vùng tăng thấu quang được bao quanh bởi một vùng xơ lớn hơn. Trường hợp nghi ngờ khối u, nên chỉ định chụp xạ hình xương bằng technetium-99m; u xương dạng xương được biểu hiện là một vùng tăng bắt phóng xạ. Phim CT với hình ảnh tốt cũng có giá trị nhất trong phân biệt tổn thương.

Trong hầu hết các trường hợp, bệnh được điều trị vĩnh viễn bằng cách cắt bỏ vùng tăng thấu quang nhỏ bằng năng lượng của sóng vô tuyến qua da. Hầu hết các u xương dạng xương được điều trị bằng một bác sĩ Xquang chuyên về can thiệp cơ xương khớp sử dụng các kĩ thuật qua da và giảm đau. Hiếm hơn, u xương dạng xương được phẫu thật nạo vét hoặc cắt bỏ. Phẫu thuật cắt bỏ có thể được ưa chuộng hơn khi u xương dạng xương ở gần dây thần kinh hoặc gần da (ví dụ, cột sống, bàn tay, bàn chân) vì nhiệt được tạo ra khi cắt bằng tần số vô tuyến có thể gây tổn thương.

U nguyên bào xương

U nguyên bào xương là một loại u lành tính hiếm gặp bao gồm mô có giải phẫu bệnh tương tự như u xương dạng xương. Một số chuyên gia coi chúng đơn giản như những u xương dạng xương lớn (> 2 cm). U nguyên bào xương thường gặp hơn ở nam giới và ở độ tuổi từ 10 tới 35. Khối u phát triển trong xương của cột sống, chân, bàn tay và bàn chân. Phát triển chậm và phá hủy xương bình thường. Khối u này gây đau cho bệnh nhân.

Các phương pháp chẩn đoán hình ảnh bao gồm Xquang quy ước, CT, và MRI. Sinh thiết để chẩn đoán chính xác bệnh u nguyên bào xương.

Điều trị u nguyên bào xương đòi hỏi phải phẫu thuật, thường là nạo và ghép xương. Tỷ lệ tái phát tại chỗ cho các tổn thương được điều trị bằng nạo vét trong tổn thương có thể cao từ 10 đến 20%. Các tổn thương đang tiến triển được điều trị bằng phẫu thuật cắt bỏ khối u và tái tạo xương. Một biến thể được gọi là u nguyên bào xương tiến triển có đặc điểm tương tự ung thư xương cả về mặt hình ảnh Xquang và mô bệnh học.

U xơ không cốt hóa (khuyết vỏ xương xơ hóa, u vàng xơ)

U xơ không cốt hóa là một tổn thương xơ hóa lành tính của xương với biểu hiện là một tổn thương tiêu vỏ xương, sáng, bờ rõ trên phim Xquang. U xơ không cốt hóa rất nhỏ được gọi là khuyết vỏ xương xơ hóa. Tổn thương này là những ổ khuyết được hình thành trong đó các mô xương bình thường được thay thế lấp đầy bởi mô xơ. Chúng thường ảnh hưởng tới hành xương, các vị trí thường gặp nhất là đầu xa của xương đùi, đầu xa và đầu gần của xương chày. Có thể to ra và phát triển thành nhiều ổ. U xơ không cốt hóa thường gặp ở trẻ nhỏ. Cuối cùng hầu hết các tổn thương được cốt hóa và trải qua quá trình sửa chữa, kết quả thường tạo thành những vùng dày đặc, xơ hóa. Tuy nhiên, có một số tổn thương lớn.

U xơ không cốt hóa nhỏ không có triệu chứng. Tuy nhiên, những tổn thương tới gần 50% đường kính của xương có xu hướng gây đau và tăng nguy cơ gãy xương bệnh lý.

U xơ cốt hóa thường được phát hiện đầu tiên một cách tình cờ trên các phương pháp chẩn đoán hình ảnh (ví dụ, sau khi chấn thương). Hình ảnh điển hình là ổ tăng thấu quang, đơn độc, đường kính <2 cm, và có hình thuôn dài với vỏ xơ, bờ rõ bao bọc bên ngoài. Có thể tổn thương đa ổ.

Các u xơ không cốt hóa nhỏ thì không cần điều trị và theo dõi ít. Các tổn thương gây đau hoặc tổn thương gần 50% đường kính của xương có thể cần nạo vét và ghép xương để làm giảm nguy cơ gãy xương bệnh lý.

U tế bào khổng lồ lành tính của xương

U tế bào khổng lồ lành tính của xương thường gặp ở những người độ tuổi 20 và 30 tuổi, xảy ra ở vùng đầu xương. Những khối u này được xem là phát triển tại chỗ. Chúng có xu hướng to lên, phá hủy xương và cuối cùng có thể ăn mòn phần còn lại của xương và phát triển vào mô mềm. Có thể gây đau. Những khối u này thường có xu hướng tái phát. Một số ít trường hợp, u tế bào khổng lồ của xương có thể di căn sang phổi, mặc dù nó vẫn lành tính về mô học.

Trên hình ảnh, u tế bào khổng lồ lành tính của xương là tổn thương phá hủy lan rộng. Trên hình ảnh, phần tiếp giáp giữa tận cùng của khối u với vị trí bắt đầu của vùng xương lành là một ranh giới không có viền xơ hóa. Vì u tế bào khổng lồ của xương có thể di căn tới phổi, do đó CT phổi cần được thực hiện ngay trong giai đoạn đầu.

Hầu hết các khối u tế bào khổng lồ lành tính của xương đều được điều trị bằng cách nạo vét và lấp đầy khối u bằng methyl methacrylate hoặc ghép xương. Để làm giảm tỷ lệ tái phát, các bác sĩ phẫu thuật thường thích sử dụng biện pháp hỗ trợ như dùng nhiệt (được dùng để làm cứng methyl methacrylate) hoặc điều trị các khối u bằng các chất hóa học như phenol hoặc đông lạnh với nitơ lỏng. Nếu khối u quá lớn và phá huỷ khớp, có thể cần phải cắt bỏ hoàn toàn và tái tạo lại khớp. Kháng thể đơn dòng denosumab, một yếu tố hoạt hóa thụ thể của chất ức chế yếu tố nhân kappa-B ligand (RANKL), có thể được sử dụng trong điều trị khối u tế bào khổng lồ lành tính lớn của xương, những khối u không có khả năng phẫu thuật (xem ảnh u tế bào khổng lồ [phim CT]).