Thương mại và trao đổi hàng hóa nafta tiểu luận

[123doc] - tie-u-lua-n-thu-o-ng-ma-i-quo-c-te-de-tai-tinh-hinh-phat-trien-thuong-mai-quoc-te-giai-doan-2010-2020

  • Biểu-đồ - Về nhà, tìm hiểu về quy tắc xuất xứ không ưu đãi? Tại sao có quy tắc xuất xứ
  • TIỂU LUẬN QUAN HỆ KINH TẾ QUỐC TẾ Thảo
  • Đề thi môn học Qhktqt

Related documents

  • Barem điểm giữa kỳ môn Tổ chức ngành revised
  • NHÓM 09 Qhktqt Xkdvgd - Tiểu luận thầy Minh
  • CK KTQT cô Kiều Phương 13-6-19
  • BIÊN BẢN CUỘC HỌP - soạn thảo văn bản thầy Thủy
  • Quyết định - soạn thảo văn bản thầy Thủy
  • Công văn - soạn thảo văn bản thầy Thủy

Preview text

LỜI NÓI ĐẦU

Sau hơn 15 năm thực hiện đường lối cải cách và mở cửa nền kinh tế, Việt Nam đã đạt được những thành tựu rất đáng khích lệ. Riêng trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại, với tinh thần “muốn làm bạn với các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”, Việt Nam chúng ta đã mở rộng quan hệ buôn bán với trên 100 quốc gia và nhiều khối khu vực khác nhau trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị cũng như trình độ phát triển kinh tế. Việc nước ta tiếp tục duy trì và phát triển quan hệ kinh tế- thương mại với khu vực mậu dịch tự do lớn nhất thế giới-NAFTA cũng là một trong những thắng lợi đó. Quan hệ kinh tế-thương mại giữa Việt Nam và các nước thành viên NAFTA trong nhiều năm trở lại đây đã nhận được sự quan tâm của giới lãnh đạo, doanh nghiệp của cả hai bên và có nhiều chuyển biến tích cực nhiên, chúng ta cần có sự nhận thức đúng đắn và sâu sắc về điểm mạnh cũng như mặt còn hạn chế của từng quốc gia, đặc biệt là của Việt Nam trên lĩnh vực thương mại, thu hút đầu tư và viện trợ. Và câu hỏi luôn đặt ra là liệu vị trí của Việt Nam có đủ mạnh trong quan hệ với khu vực NAFTA, khu vực giàu có và năng động với vai trò dẫn dắt nền kinh tế thế giới của Mỹ; liệu doanh nghiệp Việt Nam đã sẵn sàng để vượt qua những thách thức và tiếp nhận những thời cơ nhất là khi Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam-Hoa Kỳ đã có hiệu lực gần hai năm? Xuất phát từ thực tiễn trên có thể nói việc đi sâu nghiên cứu khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ-NAFTA và mối quan hệ kinh tế-thương mại với Việt Nam, từ đó đưa ra những nhận định chính xác về triển vọng, phương hướng cũng như các giải pháp để nâng cao hiệu quả mối quan hệ này là việc làm cần thiết. Với lý do này, trong thời gian tìm tòi nghiên cứu và tham khảo tài liệu, tác giả đã chọn viết khoá luận tốt nghiệp với đề tài: “Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ [NAFTA] và mối quan hệ kinh tế-thương mại Việt Nam - NAFTA

những năm gần đây”. Nội dung của khoá luận tốt nghiệp gồm 3 chương sau: Chương I : Tổng quan về khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ [NAFTA]. Chương II : Thực trạng quan hệ kinh tế-thương mại Việt Nam-NAFTA trong thời gian gần đây. Chương III : Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển quan hệ kinh tế-thương mại Việt Nam-NAFTA trong thời gian tới. Để thực hiện nội dung trên tác giả đã sử dụng các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp thống kê, đối chiếu, so sánh, tổng hợp và phân tích, dự báo, kết hợp với việc vận dụng lý luận và đảm bảo tính logíc khoa học để làm sáng tỏ những vấn đề nghiên cứu. Mặt khác khoá luận còn sử dụng các quan điểm, đường lối chính sách phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước để khái quát, hệ thống và khẳng định các nhận định, kết quả nghiên cứu. Tác giả xin chân thành cảm ơn các cô, bác ở Trung tâm nghiên cứu Bắc Mỹ thuộc Viện kinh tế thế giới, cùng anh chị ở Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đã cung cấp tài liệu và hướng dẫn việc nghiên cứu khoá luận. Tác giả cũng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các thầy, cô giáo Trường Đại học Ngoại thương những người đã dìu dắt và truyền đạt kiến thức cho tác giả trong những năm qua và đặc biệt là Thầy giáo Tô Trọng Nghiệp người đã hết lòng tận tình giúp đỡ tác giả hoàn thành khoá luận này. Cuối cùng tác giả xin cảm ơn gia đình, bạn bè đã giúp đỡ, động viên, tạo điều kiện thuận lợi. Hà nội, năm 2003 Sinh viên thực hiện

2. Đặc điểm của khu vực mậu dịch tự do. Trong khu vực mậu dịch tự do, các quốc gia thành viên miễn thuế hoàn toàn cho nhau và thực hiện giảm ở mức độ lớn, thậm chí bãi bỏ hoàn toàn các hàng rào phi thuế quan, tạo điều kiện cho hàng hóa được tự do lưu thông giữa các quốc gia trong khu vực. Hình thức liên kết này chỉ tạo mối quan hệ rằng buộc về ngoại thương giữa các nước trong liên minh, các nước thành viên vẫn thi hành chính sách ngoại thương độc lập với các nước ngoài liên minh. Thế giới đã hình thành nhiều liên kết khu vực mậu dịch tự do, như EFTA [Khu vực mậu dịch tự do Châu Âu], AFTA [Khu vực mậu dịch tự do ASEAN]... Thông qua các cam kết trong liên minh đã tạo ra điều kiện thuận lợi, từ đó tăng cường mối quan hệ mậu dịch giữa các thành viên. Quan hệ buôn bán thương mại giữa các quốc gia trong khu vực khác với quan hệ buôn bán thương mại tự do đối với các quốc gia bên ngoài khu vực là các quốc gia thành viên khu vực mậu dịch tự do không quy định các mức thuế quan với nhau. Các quốc gia thành viên có thể tự định mức thuế quan của Nhà nước đối với các quốc gia bên ngoài khu vực. Điều này đã làm xuất hiện một khoảng trống làm cho hàng hoá của các quốc gia ngoài khu vực có thể đi vòng qua các quốc gia thành viên có mức thuế quan cao của tổ chức này, từ đó thâm nhập thị trường các quốc gia có mức thuế quan thấp nhất trong nội bộ khu vực mậu dịch tự do, sau đó thông qua các quốc gia này, sử dụng điều kiện không phải nộp thuế mậu dịch trong khu vực, chuyển hàng hoá vào các quốc gia có thuế quan cao trong khu vực. Mức thuế quan cao sẽ làm mất đi tác dụng bảo hộ. Để tránh tình trạng này, khu vực mậu dịch tự do thường phải xác lập ngay các điều khoản và đưa ra chế độ hải quan tương ứng. Thông thường, các tổ chức hợp nhất kinh tế-thương mại khu vực hiện nay đều thuộc mô hình khu vực mậu dịch tự do. Mô hình khu vực mậu dịch tự do là một mô hình phổ biến trên thế giới hiện nay. Ví dụ, Hiệp hội thương mại tự do Latinh [LAFTA] bao gồm Mêhicô và hầu hết quốc gia Nam Mỹ,

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN [AFTA], Liên minh kinh tế các quốc gia Caribê [CARIFTA]... Về vấn đề khu vực mậu dịch tự do , cần phân biệt hai thuật ngữ là Free Trade Area và Free Trade Zone. Hai thuật ngữ này khi dịch đều có nghĩa là khu vực mậu dịch tự do, nhưng thực chất đây là hai loại hình khác nhau. Free Trade Zone là loại hình đẩy mạnh khu vực mậu dịch tự do trong đó Nhà nước để đẩy mạnh hoạt động buôn bán và gia công xuất khẩu đã tiến hành tách một khu vực nhỏ của nước mình [thông thường là một phần cảng ven biển hoặc một phần khu vực biên giới, hoặc có thể là sân bay, kho hàng hoặc bất kỳ khu vực nào được xác định]. Hoạt động buôn bán quốc tế và chế biến xuất khẩu của khu vực này được miễn thuế. Free Trade Zone có tính chất gần tương tự như khu vực cảng tự do và khu chế biến hàng xuất khẩu, không được xác lập dưới hình thức tổ chức nhất thể hoá về kinh tế thương mại như Free Trade Area. Cho đến nay vẫn còn một số Free Trade Zone ở thủ đô các nước, đầu mối giao thông hoặc các cảng lớn. Tuy nhiên, gần đây vai trò và số lượng của Free Trade Zone đã suy giảm. Còn Free Trade Area là loại hình nhất thể hoá kinh tế giữa các quốc gia thành viên, trong đó các cách thức, biện pháp để xoá bỏ các hàng rào mậu dịch đều áp dụng như nhau giữa các quốc gia.

3. Điều kiện để một nước tham gia có hiệu quả vào khu vực mậu dịch tự do. 3. Điều kiện quốc tế:

  • Các nước ký kết với nhau hiệp định thương mại tự do. Trong hiệp định này cần thiết đề cập đến các vấn đề như: các nước thực hiện những biện pháp xoá bỏ những cản trở thuế quan [giảm và tiến tới xoá bỏ thuế quan], thực hiện các biện pháp xoá bỏ những cản trở phi thuế quan, thực hiện nguyên tắc không phân biệt đối xử trong quan hệ kinh tế thương mại.
  • Trong quan hệ kinh kinh tế thương mại, các nước cần phải đảm bảo tính công khai, tính minh bạch, nghĩa là công bố tất cả các luật lệ, quyết định

gia nhập vào khu vực kinh tế dễ dàng hơn, hiệu quả hơn. Nếu một quốc gia chưa có được những mối quan hệ có tính chất tiền đề này thì khó có thể tham gia vào các khối kinh tế có hiệu quả được do sẽ bị lép vế trước các quốc gia trong khối. _ Có sự trùng hợp về lợi ích:_* Quan hệ hai bên giữa nước đó với các quốc gia trong khu vực phát triển tới một mức độ đòi hỏi phải có những quan hệ nhiều bên hỗ trợ và trở thành cơ sở của sự hợp tác và trên các vẫn đề cơ bản phải có sự trùng hợp về lợi ích, kể cả các lợi ích về chính trị. Nếu như nước đó mới chỉ có những quan hệ kinh tế hạn hẹp với các quốc gia trong khu vực, đồng thời lại có những khác biệt và bất đồng lớn về lợi ích, thì sẽ không tham gia vào khu vực mậu dịch tự do được. _ Đạt tới một trình độ phát triển kinh tế nhất định:_* Ngoài những điều kiện kể trên, một nước khi quyết định trở thành thành viên của một khu vực mậu dịch tự do thì nền kinh tế của bản thân quốc gia đó phải đạt tới một trình độ phát triển nhất định, đặc biệt là cơ cấu kinh tế phải được chuyển dịch hướng ngoại. Nếu một nước có trình độ phát triển kinh tế quá thấp, bình quân GNP và kim ngạch xuất khẩu theo đầu người quá thấp thì khả năng tham gia vào khu vực mậu dịch tự do sẽ rất hạn chế. Đặc biệt là cơ cầu kinh tế lại chỉ hướng nội thì không thể hội nhập vào khối kinh tế khu vực được. Đương nhiên có thể có quốc gia đã không hội đủ các điều kiện trên đây, nhưng vẫn tham gia vào khu vực mậu dịch tự do vì họ đã nhằm vào mục tiêu khác ngoài mục tiêu kinh tế đơn thuần.

**II. SỰ RA ĐỜI, MỤC TIÊU VÀ NHỮNG THOẢ THUẬN CHÍNH CỦA NAFTA.

  1. Sự ra đời của khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ [NAFTA].
  2. Các nhân tố tác động tới sự ra đời của NAFTA.** _ Xu hướng khu vực hoá các quan hệ kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ:_*

Một trong những xu thế lớn của kinh tế thế giới là tăng cường toàn cầu hoá các hoạt động và quan hệ kinh tế quốc tế và đi liền với nó là sự hình thành và phát triển mạnh mẽ của các nhóm liên kết kinh tế khu vực. Điển hình là Liên minh châu Âu gồm 15 thành viên với 360 triệu dân được thành lập từ 1/1956, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á gồm 10 thành viên thành lập từ 8/1967, hay Cộng đồng kinh tế Tây Phi với 7 thành viên ra đời từ 4/1973, và Diễn đàn kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương với 18 nước thành viên trong đó đã có Mỹ, Canada và Mexico tham gia. Trong thập kỷ 80-90, GATT/WTO đã được thông báo trên 100 thoả thuận thương mại khu vực. Riêng trong thời gian từ năm 1990 đến năm 1994, đã có 33 liên kết khu vực ra đời, tăng gấp 3 lần so với thập kỷ 80. Hiện đã có 119 nước tham gia vào 23 khối kinh tế khu vực khác nhau[1]. Thoả thuận thương mại khu vực ngày càng tăng và các thành viên tham gia rất đa dạng bao gồm cả các nước giàu, nước nghèo, cả những nước có bề dày lịch sử tham gia buôn bán quốc tế và cả những quốc gia tham gia thương mại quốc tế chưa lâu, các thống kê thương mại cho thấy khoảng 60% thương mại thế giới là của các thoả thuận thương mại khu vực. Điều này cho thấy xu thế hình thành và phát triển của các khối kinh tế khu vực đang diễn ra mạnh mẽ, là một tất yếu khách quan, một nấc thang phát triển mới của quá trình toàn cầu hoá. Tuy vây, về bản chất, chúng là hiện thân của xu hướng tự do hoá thương mại và đầu tư quốc tế, là những “vòng tròn đồng tâm” của tiến trình nhất thể hoá kinh tế thế giới. Đó là khuynh hướng hình thành một liên minh kinh tế thống nhất cho toàn khu vực như EU, hay là một thoả thuận thương mại khu vực xuyên qua nhiều lục địa, không mang tính thể chế nhằm thúc đẩy tiến trình tự do hoá như APEC, hay là các dàn xếp khu vực ở quy mô nhỏ hơn với nhiều nhân tố đồng nhất nhằm xây dựng khu vực mậu dịch tự do như AFTA, MERCOSUR...

[1] Nguyễn Vũ Hoàng, Các liên kết kinh t ế thương mại quốc tế, NXB Thanh Niên, tr 12.

Song song với những kết quả tích cực đạt được sau 5 năm thực hiện Hiệp định Thương mại Tự do song phương với Canada, tốc độ tăng trưởng thương mại cao với Mêhicô trong suốt thập kỷ 80 của thế kỷ XX cũng là một lý do quan trọng khác, khiến các nhà hoạch định chính sách thương mại Mỹ thực hiện những bước đi coi là thử nghiệm khi tiến hành trao đổi với Canada và Mexico nhằm thiết lập khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ NAFTA [North America Free Trade Area]. Sự ra đời của khu vực mậu dịch tự do này xuất phát chủ yếu từ những nỗ lực của Mỹ. 1. Lịch sử ra đời của NAFTA. NAFTA được quốc hội cả 3 nước thành viên [Mỹ, Canada và Mexico] thông qua là do mục đích của nó đáp ứng được lợi ích lâu dài của các nước: tạo ra một khu vực tự do thương mại lớn, tạo điều kiện cho cả ba nước có điều kiện tăng trưởng tốt và ổn định, bảo đảm tạo thêm việc làm, tăng thêm thu nhập, bảo đảm và tăng trưởng sức cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ Bắc Mỹ ở cả thị trường nội địa lẫn trên thế giới. Chính vì NAFTA đáp ứng được lợi ích như vậy của các nước thành viên, nên ngay từ nhiều năm trước, dù có không ít tiếng nói phản ứng, lãnh đạo của ba nước này đã có những xúc tiến để tiến tới thành lập một tổ chức kinh tế chung. Trước khi có NAFTA, hai nước Mỹ và Canada đã ký với nhau một Hiệp định thương mại tự do, Hiệp định này được chấp nhận thông qua Đạo luật về thi hành khu vực tự do thương mại năm 1988, và đây là cơ sở bước đầu để mở rộng quan hệ kinh tế ở Bắc Mỹ những năm sau. Tháng 6-1990, Tổng thống Mexico lúc đó là Carlos Salinas de Gortari và Tổng thống Mỹ George Bush khi nêu mục tiêu thiết lập mối quan hệ thương mại tự do đã nêu ý kiến thành lập NAFTA. Đến tháng 4-1991, Canada và Mexico đã ký kết bốn Hiệp định hợp tác: Hiệp định tránh đánh thuế hai lần; Hiệp định hợp tác về phim ảnh và vô tuyến truyền hình, Hiệp định này đã mở rộng các cơ hội phát triển sản xuất và tăng tài chính cho ngành công nghiệp này của hai nước; Hiệp định hợp tác phát

triển xuất khẩu dầu mỏ Mexico và bán hàng Canada; Hiệp định tài chính về hợp tác phát triển xuất khẩu. Tháng 6-1991, tại Toronto-Ontario đã diễn ra cuộc họp cấp bộ trưởng để đàm phán về NAFTA [gồm các Bộ trưởng công nghiệp và thương mại quốc tế của Canada, đại diện thương mại Mỹ và Bộ trưởng thương mại Mexico]. Đến tháng giêng năm 1992, tại Washington D. người ta đã trình phương án đầu tiên của dự thảo đàm phán hiệp định. Và đến tháng 9-1992 ba nước đã có bản hiệp định chính thức. Ngày 7-10-1992, tại San Ontario, Texas, Thủ tướng Mulroney, Tổng thống Bush và Tổng thống Salinas đã chứng kiến lễ ký tắt Hiệp định thương mại tự do Bắc Mỹ. Ngày 17-12-1992, các nhà lãnh đạo của ba nước Mỹ, Canada, Mexico đã đặt bút ký vào văn bản Hiệp định thương mại tự do Bắc Mỹ. Sau đó quốc hội 3 nước lần lượt thông qua Hiệp định này. Hiệp định tự do thương mại Bắc Mỹ có hiệu lực đầy đủ vào ngày 1 tháng 1 năm 1994 trên hầu hết các lĩnh vực dự kiến vào năm 2003. Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ từ đó ra đời với sức mạnh kinh tế vô cùng to lớn. Với sự ra đời của NAFTA, Bắc Mỹ đã trở thành thị trường chung rộng lớn, một thị trường hàng hoá và dịch vụ lớn nhất thế giới với 370 triệu dân và giá trị tổng sản phẩm khoảng 7500 tỷ USD [số dân hiện nay khoảng 400 triệu người và GNP thực tế khoảng 8500 tỷ USD, trong đó Mỹ là trụ cột với GNP khoảng 6500 tỷ USD], chiếm xấp xỉ 19% xuất khẩu và 25% nhập khẩu toàn thế giới. NAFTA là một trong số các khu vực thương mại phát triển năng động nhất thế giới, tốc độ tăng trưởng GDP luôn duy trì ổn định ở mức trên 2%[1]. Các khối thương mại khác trên thế giới không thể là đối trọng của NAFTA khi so sánh về sức mạnh kinh tế [tính đến hết năm 1993-thời điểm NAFTA mới ra đời]. Bảng 1: So sánh sức mạnh kinh tế giữa NAFTA và các khối thương mại khác trên thế giới [tính theo GNP và dân số vào thời điểm NAFTA ra đời]. [1] NAFTA Overview, http//:ustr/regions.

2. Các mục tiêu chủ yếu của NAFTA. 2. Giảm các hàng rào thuế quan và phi thuế quan.

  • Loại bỏ tất cả hàng rào thuế quan giữa ba nước, thời hạn cuối cùng là năm 2010. Cụ thể, quy định 3 mức giảm hàng rào thuế quan đối với hàng hoá và dịch vụ theo từng giai đoạn. Khi NAFTA có hiệu lực, Mỹ giảm 84%, Canada giảm 79% đối với hàng nhập khẩu từ Mỹ và Canada. Đến năm thứ 5, Mỹ và Canada giảm thêm 8% đối với Mexico, Mexico giảm thêm 18% thuế đối với Mỹ và 19% đối với Canada. Đến năm thứ 10, Mỹ giảm thêm 7%, Canada giảm thêm 12% và Mexico giảm thêm 38%. Đến năm thứ 15, cả ba nước giảm nốt 1% còn lại[1]. Trong đó, NAFTA yêu cầu loại bỏ ngay lập tức các loại thuế quan của 68% lượng mặt hàng Mỹ xuất khẩu sang Mexico và 49% lượng mặt hàng nhập khẩu từ Mexico. Mỹ và Canada đã thoả thuận cắt giảm thuế quan từ năm 1989 nên NAFTA thực chất chỉ có sự cắt giảm thuế quan giữa Mexico và các thành viên còn lại.
  • Không bên nào có quyền tăng bất kỳ một loại nghĩa vụ thuế quan hiện hành nào, hoặc chấp nhận bất kỳ một loại nghĩa vụ thuế quan nào đối với hàng hoá có xuất xứ từ các quốc gia thành viên. Theo các lịch trình đã vạch sẵn, từ 1/1/1998 Mỹ và Canada đã dỡ bỏ toàn bộ các loại thuế đối với những hàng hoá được quy định trong khuôn khổ Hiệp định. Qua đó, NAFTA đã trở thành một khu vực kinh tế có tính bảo hộ cao. Chẳng hạn, trong ngành sản xuất ô tô, nếu tỷ lệ nội địa hoá [nguyên vật liệu sử dụng sản xuất sản phẩm là của các nước trong Hiệp định] dưới 62,5% thì sản phẩm đó không được hưởng các ưu đãi thuế quan được ghi nhận trong Hiệp định.

[1] giao Giới thiệu tổng quan về Hiệp ước thương mại tự do Bắc Mỹ, Vụ Hợp tác kinh tế đa phương, Bộ Ngoại

  • Từng bước giảm hàng rào phi thuế quan trong thương mại hàng hoá và dịch vụ. Đến tháng 6/1999, huỷ bỏ toàn bộ chế độ xin phép xuất nhập khẩu, hạn ngạch và giấy phép giữa ba nước. Ví dụ trong vòng 10 năm Mexico sẽ dỡ bỏ những hạn chế về đầu tư và thương mại trong lĩnh vực sản xuất ô tô và nhờ việc tham gia vào NAFTA, Mỹ sẽ ngay lập tức xoá bỏ hạn ngạch đối với dệt may của Mexico. 2. Tạo điều kiện tăng trưởng tốt và ổn định cho các nước thành viên.
  • NAFTA đẩy mạnh mối quan hệ thân thiện và hợp tác giữa các quốc gia thành viên, đồng thời đóng góp vào sự phát triển hài hoà và mở rộng thương mại thế giới, tạo cơ sở cho sự hợp tác quốc tế sâu rộng hơn.
  • Áp dụng quy chế tối huệ quốc trong quan hệ buôn bán giữa ba nước. Tạo ra một thị trường rộng hơn và có đảm bảo cho hàng hoá và dịch vụ được sản xuất trong lãnh thổ các nước thành viên. NAFTA hướng tới giảm bớt sự phân biệt đối xử thương mại, tạo ra các quy tắc thuận lợi lẫn nhau và rõ ràng để điều chỉnh quan hệ thương mại, đồng thời bảo đảm một khuôn khổ thương mại cho việc lập kế hoạch kinh doanh và đầu tư.
  • Giảm nhẹ các quy chế để vốn đầu tư của Mỹ và Canada chuyển vào Mexico một cách thuận lợi nhất. Mở cửa dần tiến tới mở cửa hoàn toàn các thị trường chứng khoán tiền tệ, đầu tư, bảo hiểm và hầu hết các ngành kinh tế khác, trừ ngành dầu lửa của Mexico, ngành công nghiệp văn hoá của Canada và ngành thị trường nhân công của Mỹ, cho phép lập các công ty có 100% vốn của nước này trên lãnh thổ của nước kia.
  • Điều chỉnh các vấn đề liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ [kể cả việc nâng cấp luật pháp về quyền sở hữu trí tuệ ở Mexico cho tương ứng với quy định ở Mỹ và Canada]. Khuyến khích sự sáng tạo và đổi mới, phát triển thương mại đối với những hàng hoá là đối tượng của sở hữu trí tuệ.

4. Bảo hộ chống cạnh tranh không trung thực và những vi phạm quyền sở hữu trí tuệ. 5. Các thủ tục giải quyết tranh chấp. Những vấn đề này bao gồm rất nhiều mục nhỏ chi tiết. Nhiều sản phẩm khó phân loại để đối xử, nhất là các sản phẩm không phải do Bắc Mỹ sản xuất 100%, do đó người ta đã nêu hai nguyên tắc: a- Nguyên tắc xuất xứ hàng hoá [Rules of Origin] nêu khi nào thì một sản phẩm là thực sự từ các nước thành viên NAFTA. b- Nguyên tắc quốc gia [Rules of Nationality] nêu khi nào thì một công ty là công ty thực sự của các nước thành viên NAFTA. Để bảo đảm tính thuần khiết của sản phẩm và công ty thuộc NAFTA, người ta cũng xem xét đến các nguyên tắc đối với sản phẩm và công ty “tiền NAFTA” [ví dụ các sản phẩm lắp rắp, hoàn thiện thêm khi đưa vào thị trường NAFTA, hoặc các loại công ty mà sở hữu có tỷ trọng lớn thuộc chủ ngoài NAFTA] để tránh việc nước ngoài sử dụng Mexico làm bàn đạp xuất khẩu hàng hoá vào NAFTA [trốn thuế và lợi dụng các điều khoản ưu đãi đối với các thành viên]. Bên cạnh những nguyên tắc đó, NAFTA còn có những quy định bảo hộ đặc biệt [do chưa tự do hoá] đối với ngành năng lượng và đường sắt Mexico, ngành hàng không và công nghiệp viễn thông vô tuyến Mỹ, văn hoá Canada. Dưới đây là một số những thoả thuận chủ yếu giữa các thành viên NAFTA: 3. Các loại biểu thuế. Sẽ loại bỏ ngay hoặc dần dần các loại thuế đối với khoảng 10000 sản phẩm Bắc Mỹ. Đối với những ngành bị thiệt hại nhiều do cạnh tranh nhập khẩu có quy định những thời hạn thích hợp để điều chỉnh khoảng một nửa xuất khẩu của Mỹ sang Mexico có thể được miễn thuế hoàn toàn trong vòng 5 năm, quy định chất lượng riêng của Bắc Mỹ cho các ngành cụ thể, nhất là các ngành chế tạo ô tô, vô tuyến viễn thông, điện tử, nông sản phẩm. Đối với các hàng rào phi thuế quan, loại trừ những ngành nhạy cảm, sẽ bỏ các hàng rào

phi thuế quan, quota, giấy phép nhập khẩu [quy định không liên quan đến các hàng rào giới hạn đối với người, động thực vật, môi trường]. 3. Dịch vụ tài chính - ngân hàng. Các nước thoả thuận áp dụng nguyên tắc đãi ngộ quốc gia và đãi ngộ tối huệ quốc trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng. Theo đó một nhà đầu tư của một quốc gia thành viên khác được phép thiết lập một định chế tài chính trong phạm vi lãnh thổ của một quốc gia thành viên theo quyền tài phán do nhà đầu tư lựa chọn. Các quốc gia thành viên cũng thừa nhận nguyên tắc là một nhà đầu tư của một quốc gia thành viên khác được tham gia một cách rộng rãi trong thị trường của một quốc gia thành viên thông qua khả năng của nhà đầu tư để: [1] Cung cấp trong phạm vi lãnh thổ của quốc gia thành viên các dịch vụ tài chính thông qua các định chế tài chính theo yêu cầu của quốc gia thành viên; [2] Sở hữu các định chế tài chính trong lãnh thổ quốc gia thành viên mà không có các yêu cầu đặc biệt đối với các định chế tài chính nước ngoài. Mỗi quốc gia thành viên sẽ cho phép một nhà đầu tư của quốc gia thành viên khác mà không sở hữu một định chế tài chính trong lãnh thổ quốc gia thành viên này thành lập một định chế tài chính trong lãnh thổ của mình. Mọi hạn chế đối với các ngân hàng Hoa Kỳ và Canada sẽ được loại bỏ khi vào thị trường Mexico. Hoa Kỳ cho phép các ngân hàng thương mại các quốc gia thành viên khác nằm trong lãnh thổ Hoa Kỳ mở rộng các công ty con hoặc các chi nhánh trên toàn lãnh thổ Hoa Kỳ. Trường hợp có tranh chấp liên quan đến dịch vụ tài chính, tranh chấp sẽ được giải quyết bởi một hội đồng không quá 15 thành viên với tư cách là Ban bồi thẩm về dịch vụ tài chính. Các thành viên của hội đồng được chỉ định bằng đồng thuận với nhiệm kỳ ba năm và có thể được bổ nhiệm lại. 3. Đầu tư. Các công ty Hoa Kỳ và Canada khi hoạt động ở Mexico được hưởng các quyền kinh doanh và lợi ích giống như các công ty Mexico. Theo Hiệp định, mỗi nước thành viên sẽ cho phép bất kỳ sự chuyển giao nào liên quan

xem xét công việc liên quan đến chức năng của khu vực tự do thương mại.

**III. TÁC ĐỘNG CỦA NAFTA ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ THẾ GIỚI.

  1. Tác động của NAFTA đối với các nước thành viên.
  2. Tác động chung của NAFTA tới các nước thành viên. 1.1. Tác động tích cực:** _ Cơ hội tăng trưởng kinh tế:_* Khi Hiệp định được ký kết [1992] Tổng thống Bush lúc đó cho rằng, Hiệp định là sự khởi đầu cho một kỷ nguyên mới của ba nước Bắc Mỹ về hợp tác, việc làm và tăng trưởng. Tổng thống Mexico Carlos Salinas cho rằng Hiệp định là cơ hội có một không hai để làm thay đổi đất nước, là điều may mắn đưa Mexico đi vào thế giới thứ nhất của các nước công nghiệp phát triển. Sự di chuyển lớn về vốn, công nghệ, quản lý, việc hạ thấp dần các biểu thuế và tự do hoạt động trao đổi thương mại trong NAFTA tạo ra những thay đổi lớn trong cơ cấu các ngành sản xuất và dịch vụ của cả ba nước. Tất cả sự thay đổi này góp phần nâng cao năng suất lao động xã hội, trình độ phát triển kinh tế của cả ba nước, người ta dự đoán tốc độ tăng trưởng kinh tế của Mexico có thể duy trì ở mức 4 - 5% hàng năm, của Mỹ khoảng trên 3% và Canada sẽ vượt khỏi tình trạng trì trệ của đầu những năm 90 và đạt tốc độ tăng trưởng 3 - 4% hàng năm[1]. Tự do hóa thương mại trong NAFTA tạo ra nhiều lợi thế cho các hãng sản xuất và lợi ích cho người tiêu dùng ở cả ba nước thành viên. Các hãng sản xuất trong khu vực được hưởng lợi từ nguồn cung cấp đầu vào nhiều hơn với giá rẻ hơn, kết quả làm tăng năng suất, củng cố năng lực cạnh tranh của họ trên trường quốc tế. Đối với người tiêu dùng ở cả ba nước thành viên, NAFTA đem lại cho họ nhiều sự lựa chọn với giá cả cạnh tranh. Thuế quan thấp hơn đồng nghĩa với việc các gia đình phải trả ít hơn cho loại hàng hoá họ

[1] Võ Đại Lược, Các khối kinh tế và m ậu dịch trên thế giới , NXB Chính trị quốc gia, tr 20.

mua, đồng thời người tiêu dùng cũng có điều kiện lựa chọn hàng hoá và dịch vụ nhiều hơn, từ đó nâng cao mức sống. Ngoài ra, NAFTA cũng có những ảnh hưởng trung và dài hạn. Cùng với việc hình thành một khu vực mậu dịch tự do, mức thu nhập quốc dân cao cũng tạo điều kiện cho các nước thành viên có khả năng tiết kiệm và đầu tư nhiều hơn, do đó dẫn đến việc tăng trưởng kinh tế trung và dài hạn. Việc tự do hoá thương mại trong khu vực cũng dẫn đến tỷ lệ tăng trưởng cao một cách thường xuyên vì nó khuyến khích đầu tư vào công nghệ mới, tích tụ nguồn nhân lực, khuyến khích chuyên môn hoá quốc tế và chuyển giao công nghệ quốc tế. _ Thúc đẩy trao đổi thương mại giữa các thành viên trong khối:_* NAFTA đã đặt ra và đạt được hầu hết các mục tiêu quan trọng trong quá trình tự do hóa thương mại, và đã gặt hái được những thành tích thương mại nhất định. Cùng với quá trình dỡ bỏ hàng rào thương mại, NAFTA đã tạo cơ sở cho thương mại giữa các thành viên trong khối phát triển vượt bậc. Từ năm 1993-2002, trao đổi thương mại giữa các quốc gia thành viên đã tăng gấp hơn 2 lần, từ 306 tỷ USD lên 622 tỷ USD [tính bình quân, mỗi ngày trao đổi hàng hoá giữa ba nước đạt 1,7 tỷ USD]. Bảng 2: Tình hình xuất khẩu hàng hoá giữa các nước thành viên NAFTA [1994 & 2002] Đơn vị: Tỷ USD Năm Mỹ Canada Mexico Nước 1994 2002 1994 2002 1994 2002 Mỹ X X 113,6 213,9 22,9 136, Canada 96,5 152,7 X X 2,9 8, Mexico 51,1 107,2 3,4 15,1 X X [Nguồn: Bộ Thương mại Hoa Kỳ. ustr/foreign ] + Hàng hoá của Canada xuất khẩu tới các đối tác NAFTA tăng 95%, từ mức 117 tỷ USD lên 229 tỷ USD [xuất khẩu sang Mỹ tăng gần 2 lần từ 113,

Chủ Đề