Thứ sử châu hoan là ai

Đinh Công Trứ là người quê động Hoa Lư, châu Đại Hoàng thuộc huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình, Việt Nam ngày nay. Ông là tướng có công giúp Dương Đình Nghệ và Ngô Quyền trong việc giành lại nền độc lập, tự chủ dân tộc sau hơn ngàn năm bị phương Bắc đô hộ. Ông còn là thân sinh của Vua Đinh Tiên Hoàng.

Năm 931, sau khi cùng Dương Đình Nghệ đem quân ra quét sạch quân Nam Hán, tái lập nền độc lập và tự chủ, Đinh Công Trứ được cử làm thứ sử Hoan Châu, Ngô Quyền làm thứ sử Ái Châu. Đến năm 937, Dương Đình Nghệ bị Kiều Công Tiễn giết chết để giành quyền. Đinh Công Trứ vào Châu Ái theo Ngô Quyền. Sau khi Ngô Quyền lên ngôi vua, Đinh Công Trứ tiếp tục được phong trấn thủ châu Hoan, nhưng bị bệnh mất không lâu sau đó.

Ngày nay dân ta còn thờ ông tại Hoa Lư, Ninh Bình

Ngôi Quyền đã cử Đinh Công Trứ làm Thứ sử Châu Hoan (Nghệ An - Hà Tĩnh).

Đáp án A.

Câu hỏi trên thuộc đề trắc nghiệm dưới đây !

Số câu hỏi: 39

Thứ sử châu hoan là ai
Điền vào chỗ trống (Lịch sử - Lớp 4)

Thứ sử châu hoan là ai

3 trả lời

Tác phẩm '' Truyện Kiều '' là của tác giả nào (Lịch sử - Lớp 5)

4 trả lời

Câu 4. Ngô Quyền đã cử ai làm Thứ sử Châu Hoan (Nghệ An - Hà Tĩnh)?

A. Đinh Công Trứ

B. Kiều Công Hãn

C. Ngô Xương Ngập

D. Ngô Xương Văn 

Các câu hỏi tương tự

50. Hình ảnh "Cờ lau tập trận" là nói về nhân vật nào trong lịch sử Việt Nam?

A. Mai Thúc Loan         .B. Phùng Hưng.      C. Ngô Quyền.  D. Đinh Bộ Lĩnh.

51. Công lao của Ngô Quyền và Đinh Bộ Lĩnh với nước ta là

A. đánh đuổi giặc ngoại xâm, thống nhất đất nước.

B. dẹp “loạn 12 sứ quân”, thống nhất đất nước.

C. đánh thắng giặc ngoại xâm, xây dựng nền độc lập, thống nhất đất nước.

D. phá bỏ nền thống trị hơn 1.000 năm của phong kiến phương Bắc.

52. Ngô Quyền không duy trì chính quyền của họ Khúc vì

A. chính quyền họ Khúc về danh nghĩa vẫn thuộc nhà Đường.

B. muốn phát triển đất nước thành một quốc gia độc lập.

C. Ngô Quyền muốn xây dựng một chính quyền cao hơn thời họ Khúc.

D. không muốn tự nhận mình là tiết độ sứ của chính quyền phương Bắc.

53. Dưới thời Ngô Quyền, kinh đô nước ta đặt ở

A. Hoa Lư.              B. Cổ Loa.     C. Thăng Long.        D. Mê Linh.

54. Khi Ngô Quyền mất, quyền lực tập trung vào tay ai?

A. Ngô Xương Ngập.     B. Dương Tam Kha.   C. Ngô Xương Xí.     D. Ngô Xương Văn.

56. Cơ sở kinh tế chủ yếu của chế độ phong kiến là

A. thương nghiệp.        B. lâm nghiệp.            C. thủ công nghiệp.           D. nông nghiệp.

57. Ở Trung Quốc tôn giáo nào trở thành hệ tư tưởng của giai cấp phong kiến?

A. Nho giáo.                  B. Đạo giáo.   C. Phật giáo.     D. Thiên chúa giáo.

58. Loại chữ nào xuất hiện sớm và phổ biến nhất ở Ấn Độ?

A. Chữ tượng hình.           B. Chữ tượng ý.    C. Chữ Hin-đu.      D. Chữ Phạn.

59. Ý nào sau đây phản ánh đúng tình hình các nước Đông Nam Á từ nửa sau thế kỉ XVIII?

A. Bước vào thời kì suy yếu và bị biến thành thuộc địa của thực dân phương Tây

B. Phát triển thịnh vượng rồi bị suy yếu dần.

C. Một số nước nhỏ suy yếu, nhưng Thái Lan, Campuchia phát triển mạnh.

D. Bước vào thời kì khủng hoảng tạm thời sau đó lại được phục hồi và phát triển

60. Thế nào là chính sách “ngụ binh ư nông”?

A. Cho quân sĩ địa phương luân phiên về cày ruộng, khi cần triều đình sẽ điều động

B. Cho toàn bộ quân địa phương về quê sản xuất, khi cần sẽ điều động

C. Cho cấm quân luân phiên nhau về sản xuất, khi cần trình sẽ điều động

D. Cho những quân sĩ hết tuổi quân dịch về quê sản xuất

Thứ sử (chữ Hán: 刺史, còn được phiên âm là thích sử) là một chức quan trong thời kỳ cổ đại của lịch sử Trung Quốc và lịch sử Việt Nam, đứng đầu đơn vị giám sát, sau là đơn vị hành chính "châu".

Chức vụ thứ sử này có từ Tây Hán. Nhà Hán theo truyền thống chia cả nước ra làm 9 khu vực gọi là 9 châu, không phải cấp hành chính. Cấp hành chính thứ 1 lúc này là quận, đứng đầu là thái thú quản lý mọi việc.

Năm 106 TCN Hán Vũ Đế đặt chức Thứ sử. Ban đầu, Thứ sử chỉ có vai trò đi tuần hành các quận trong châu để xem xét việc cai trị của các Thái thú, thăng thưởng người làm tốt, truất người làm dở, đoán xét oan ngục, lấy 6 điều giới hạn của chức vụ. Sách Hậu Hán thư, phần Chí, quyển 28 có đề cập đến 6 điều giới hạn trong chức trách của Thứ sử như sau[1]:

  1. Những cường hào vọng tộc trong vùng chiếm nhiều ruộng đất, vượt qua pháp luật, lấy mạnh lấn yếu, lấy đông hiếp ít
  2. Quan vào bậc 2000 thạch (tức Thái thú) không vâng chiếu chỉ của vua và không tuân điển chế, bỏ công theo tư, vơ vét của cải, làm điều gian tham
  3. Quan vào bậc 2000 thạch không xét các nghi án, hung dữ giết người, giận thì phạt, vui thì thưởng, phiền nhiễu hà ngược, bóc lột dân đen, làm khổ trăm họ
  4. Quan vào bậc 2000 thạch mà lựa chọn cắt đặt không xứng đáng, thiên vị kẻ yếu, ngăn lấp kẻ hiền, che chở kẻ ngoan
  5. Con em các quan vào bậc 2000 thạch mà cậy thần cậy thế, thỉnh thác chức vị
  6. Quan vào bậc 2000 thạch làm trái lẽ công, a dua theo cường hào thông hành hối lộ, tổn phạm chính lệnh

Hàng năm, Thứ sử đi tuần các quận vào tháng 8 và đến đầu năm sau thì về triều đình tâu báo. Vai trò của Thứ sử thời Tây Hán tương tự như công việc của thanh tra các hoạt động của Thái thú[1].

Sang thời Đông Hán, triều đình đặt ra chức kế lại. Người Kế lại có nhiệm vụ thay mặt Thái thú lên báo cáo tình hình với Thứ sử. Kế lại của Thứ sử lại làm nhiệm vụ thay mặt thứ sử lên triều đình tâu báo, còn Thứ sử chuyên tâm vào việc ở bản châu, dù có tang cha mẹ cũng không được bỏ chức. Từ khi đặt chế độ này, vai trò của các thứ sử đối với các quận gần gũi và chặt chẽ hơn[2].

Bên dưới Thứ sử, có những người giúp việc là thị trung, biệt giá, tòng sự.

Cuối thời Đông Hán, chức Thứ sử bị thay thế bằng Châu mục với đầy đủ quyền lực về quân sự lẫn dân chính.

Đến thời nhà Tùy xóa bỏ quận, thi hành 2 cấp hành chính: châu, huyện, chức thái thú bị bãi bỏ. Số huyện mỗi châu lúc này rất lớn, có thể đến trên 100.

Thời nhà Đường, tiếp tục thi hành 2 cấp hành chính: châu, huyện song châu lúc này có quy mô của quận trước đây, cả nước có đến hơn 300 châu. Cai trị châu là thứ sử với đầy đủ quyền hành chính báo cáo trực tiếp lên chinh quyền trung ương. Khi các tiết độ sứ trở thành các thống đốc quân sự ở địa phương thì thứ sử dưới quyền tiết độ sứ.

Việt Nam trong thời kỳ đầu độc lập sau ngàn năm Bắc thuộc vẫn kế thừa tổ chức hành chính của thời thuộc Đường, vẫn đặt chức thứ sử đứng đầu các châu.

Đinh Công Trứ là vị quan thứ sử đầu tiên của Việt Nam. Năm 931, sau khi cùng Dương Đình Nghệ đem quân ra quét sạch quân Nam Hán, tái lập nền độc lập và tự chủ, Đinh Công Trứ được cử làm thứ sử Hoan Châu. Khi Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán, tự xưng là Ngô Vương. Đinh Công Trứ tiếp tục được phong trấn thủ châu Hoan.

  • Thái thú
  • Đào Duy Anh (2011), Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến thế kỷ 19, Nhà xuất bản Khoa học xã hội

  1. ^ a b Đào Duy Anh, sách đã dẫn, tr 95
  2. ^ Đào Duy Anh, sách đã dẫn, tr 99, dẫn theo Hậu Hán thư

Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Thứ_sử&oldid=64279622”