Tại sao phải phát triển con người

Vì sao phải xây dựng con người mới

Admin - 21/05/2021 265
Tại sao phải phát triển con người
Xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn mới đã trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển bền vững của đất nước. Ảnh: KHÁNH AN

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định con người là vốn quý nhất và lấy việc chăm lo hạnh phúc của con người là mục tiêu cao nhất. Mở đầu bản Tuyên ngôn độc lập bất hủ, Người đã nói đến Con người và trong Di chúc, Người đã khẳng định “đầu tiên là công việc đối với con người”.

Bạn đang xem: Vì sao phải xây dựng con người mới


Trong toàn bộ quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đặt lên hàng đầu chiến lược xây dựng và phát triển con người, bởi vì “chúng ta cần hiểu sâu sắc những giá trị lớn lao và ý nghĩa quyết định của nhân tố con người, chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất và văn hóa, mọi nền văn minh của các quốc gia” (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2007- trang 345).

Nhất quán tư tưởng sâu sắc và nhận thức quan trọng trên, văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (1-2016), một lần nữa đã xác định một nhiệm vụ trọng tâm xuyên suốt nhiệm kỳ là: “Phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc; xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh” (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII - Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội 2016). Trước tình hình và đặc điểm mới, phức tạp hiện nay và những năm sắp tới, đây là nhiệm vụ cực kỳ to lớn, nặng nề, đồng thời là một thách thức gay gắt đối với toàn Đảng, toàn dân ta. Hoàn thành tốt hay không nhiệm vụ trọng tâm đó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến toàn bộ các lĩnh vực trọng yếu của đời sống đất nước.

Cũng có người nghĩ rằng, vấn đề con người chỉ được đặt trong một mục cụ thể của Báo cáo chính trị tại Đại hội, mục VII “xây dựng phát triển văn hóa, con người” và gói gọn nhân tố con người trong phần văn hóa. Nhận thức đó chưa thấu hiểu hết tinh thần và nội dung của văn kiện này. Trong hầu hết các phần của văn kiện, từ kinh tế đến xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, từ hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đến phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, từ tăng cường quốc phòng, an ninh đến đổi mới giáo dục, đào tạo và phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ, từ phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc đến quản lý phát triển xã hội..., nhân tố con người đều được coi trọng hàng đầu và khẳng định là động lực, giữ vai trò quyết định đối với sự phát triển của các lĩnh vực trên. Vì thế, cái mới trong văn kiện lần này là xác định dứt khoát nhân tố và nguồn lực con người là một trong ba đột phá chiến lược: “đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao”. Thực chất quan điểm này gắn liền với lý thuyết về vốn con người (hay có người còn gọi là tư bản người). Nhiều quốc gia coi việc đầu tư “vô hình” này là chính sách ưu tiên hàng đầu bảo đảm cho phát triển bền vững. Chúng ta có thể tìm thấy nhiều quan điểm, tư tưởng lớn của Đảng về vị thế đặc biệt quan trọng của con người trong thời kỳ mới của sự phát triển đất nước được trình bày cô đúc với những đòi hỏi rất cao thể hiện trong các chương mục của văn kiện.

Trước hết, văn kiện xác định mục tiêu “xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học”. Các nội dung trên đây thể hiện khát vọng sâu xa không chỉ của Đảng, mà của toàn dân tộc ta trong điều kiện chúng ta đang phải đấu tranh kiên quyết, kiên trì, không nao núng trước những biểu hiện tiêu cực, thoái hóa, biến chất của một bộ phận con người trong xã hội đang biến đổi phức tạp ngày hôm nay. Cái mới của quan điểm trên còn ở chỗ: nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam không chỉ vì bản thân họ, mà sâu xa hơn, phải coi con người Việt Nam là trọng tâm của sự phát triển và phải "trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển" bền vững của đất nước.

Xem thêm: Thông Tư Hướng Dẫn Hợp Đồng Trong Xây Dựng, Thông Tư 07/2016/Tt

Những giá trị gì tạo nên sự phát triển toàn diện của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế? Văn kiện Đại hội đã gợi mở, Đảng, Nhà nước và xã hội cần tạo môi trường và điều kiện để con người “phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật”. Đó là những giá trị cần có để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thời kỳ mới, trong đó, phải chỉ ra rằng, có những giá trị đòi hỏi rất cao, rất kiên trì sự rèn luyện, giáo dục, tự trui rèn của mỗi con người mới hy vọng đạt được. Mặt khác, đây là một quá trình rất lâu dài, diễn ra một cuộc đấu tranh thầm lặng nhưng quyết liệt trong mỗi con người, mỗi gia đình và cả cộng đồng để từng bước “đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế” (văn kiện - tr. 126).

Để làm được điều đó cần nhận thức rõ các nội dung lớn sau đây: một là, kiên quyết bảo vệ và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp, bền vững của dân tộc đã được hun đúc trong tiến trình lịch sử dân tộc; hai là, chắt chiu, nuôi dưỡng, chăm lo, bảo vệ, khẳng định những nhân tố mới, các giá trị mới của con người Việt Nam thời kỳ lịch sử mới đang xuất hiện và trưởng thành trong cuộc sống; và ba là, tỉnh táo khắc phục, vượt qua những hạn chế lịch sử vốn có và những thói hư, tật xấu, cái ác, cái thấp hèn, sự thoái hóa, biến chất đang diễn ra hiện nay. Văn kiện đã xác định rõ các nội dung trên, coi đó là con đường phải đi qua để xây dựng hệ giá trị của con người Việt Nam đương đại: “khẳng định, tôn vinh cái đúng, cái tốt đẹp, tích cực, cao thượng, đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu,…” và “khắc phục những mặt hạn chế của con người Việt Nam” (Văn kiện - tr.127). Với ý nghĩa đó, mục tiêu cao cả của cách mạng, của sự nghiệp đổi mới là tìm con đường để con người trở nên NGƯỜI NHẤT và làm cho hoàn cảnh không làm tha hóa con người, phải trở nên nhân đạo hơn với con người, như có lần C. Mác khẳng định.

Bằng con đường nào, giải pháp chủ yếu nào để có thể đào tạo, xây dựng được các thế hệ con người Việt Nam phát triển toàn diện? Văn kiện Đại hội XII đặt nhiệm vụ lớn lao, nặng nề đó cho toàn xã hội, song, trước hết cho lĩnh vực được khẳng định là quốc sách hàng đầu - đó là giáo dục, đào tạo. Nhằm thực hiện được mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, Đại hội yêu cầu một sự chuyển hướng quan trọng nhất đối với giáo dục là “chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học” (văn kiện - tr.114). Tư tưởng này đòi hỏi ngành giáo dục phải đổi mới sâu sắc, toàn diện tư duy, năng lực chỉ đạo và tổ chức lĩnh vực giáo dục, vượt qua những “căn bệnh” đã tồn tại từ lâu trên lĩnh vực này như chất lượng, hiệu quả giáo dục còn thấp, chưa chú trọng đúng mức việc giáo dục đạo đức, lối sống và kỹ năng làm việc, nặng lý thuyết, nhẹ thực hành,… Giáo dục, đào tạo phải tạo cho được sự phát triển của con người, đặc biệt của thế hệ trẻ, thông qua quá trình giáo dục nhằm phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo, phẩm hạnh, nhân cách của mỗi cá nhân, tạo cho bằng được những thế hệ con người Việt Nam “yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào, sống tốt và làm việc hiệu quả” (Văn kiện - tr. 115).

Con người phát triển hay bị tha hóa, biến chất phụ thuộc vào môi trường văn hóa - nơi con người sinh sống, lao động, học tập, quan hệ cộng đồng. Vì vậy, nói đến xây dựng đời sống văn hóa, trước hết là xây dựng môi trường văn hóa cho con người, vì con người, kể từ môi trường trực tiếp và nhỏ nhất như gia đình, thôn xóm, bản làng, các đơn vị sản xuất, công tác, học tập, chiến đấu,… Nghĩa là, để có được nhân cách văn hóa phát triển đúng hướng và toàn diện, phải văn hóa hóa toàn bộ hoạt động và quan hệ đa dạng của con người trong xã hội. Xuất phát từ quan điểm đó, Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Xây dựng môi trường văn hóa, đời sống văn hóa lành mạnh trong hệ thống chính trị, trong mỗi địa phương, trong từng cộng đồng làng, bản, khu phố, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, khu công nghiệp và mỗi gia đình, góp phần giáo dục, rèn luyện con người về nhân cách, đạo đức, lối sống” (Văn kiện - tr. 127 - 128).

Từ nhận thức trên, văn kiện Đại hội, đặc biệt trong phần “xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh…” và phần “phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc” đã rất chú trọng và nhấn mạnh đến nhiệm vụ “tăng cường rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng” trong cán bộ, đảng viên và quan tâm toàn diện đến nhiệm vụ bồi dưỡng, xây dựng, phát triển và phát huy các giai cấp, giai tầng xã hội: giai cấp công nhân, nông dân, đội ngũ trí thức, đội ngũ doanh nhân, thế hệ trẻ, phụ nữ, cựu chiến binh, người cao tuổi, đồng bào các dân tộc, tôn giáo, đồng bào định cư ở nước ngoài,… Làm tốt các nhiệm vụ cụ thể trên chính là con đường tốt nhất để đào tạo, xây đắp con người Việt Nam đương đại, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước thời kỳ mới.

Tại sao phải phát triển con người
Xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn mới đã trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển bền vững của đất nước. Ảnh: KHÁNH AN

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định con người là vốn quý nhất và lấy việc chăm lo hạnh phúc của con người là mục tiêu cao nhất. Mở đầu bản Tuyên ngôn độc lập bất hủ, Người đã nói đến Con người và trong Di chúc, Người đã khẳng định “đầu tiên là công việc đối với con người”.

Bạn đang xem: Vì sao phải xây dựng con người mới


Trong toàn bộ quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đặt lên hàng đầu chiến lược xây dựng và phát triển con người, bởi vì “chúng ta cần hiểu sâu sắc những giá trị lớn lao và ý nghĩa quyết định của nhân tố con người, chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất và văn hóa, mọi nền văn minh của các quốc gia” (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2007- trang 345).

Nhất quán tư tưởng sâu sắc và nhận thức quan trọng trên, văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (1-2016), một lần nữa đã xác định một nhiệm vụ trọng tâm xuyên suốt nhiệm kỳ là: “Phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc; xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh” (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII - Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội 2016). Trước tình hình và đặc điểm mới, phức tạp hiện nay và những năm sắp tới, đây là nhiệm vụ cực kỳ to lớn, nặng nề, đồng thời là một thách thức gay gắt đối với toàn Đảng, toàn dân ta. Hoàn thành tốt hay không nhiệm vụ trọng tâm đó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến toàn bộ các lĩnh vực trọng yếu của đời sống đất nước.

Cũng có người nghĩ rằng, vấn đề con người chỉ được đặt trong một mục cụ thể của Báo cáo chính trị tại Đại hội, mục VII “xây dựng phát triển văn hóa, con người” và gói gọn nhân tố con người trong phần văn hóa. Nhận thức đó chưa thấu hiểu hết tinh thần và nội dung của văn kiện này. Trong hầu hết các phần của văn kiện, từ kinh tế đến xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, từ hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đến phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, từ tăng cường quốc phòng, an ninh đến đổi mới giáo dục, đào tạo và phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ, từ phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc đến quản lý phát triển xã hội..., nhân tố con người đều được coi trọng hàng đầu và khẳng định là động lực, giữ vai trò quyết định đối với sự phát triển của các lĩnh vực trên. Vì thế, cái mới trong văn kiện lần này là xác định dứt khoát nhân tố và nguồn lực con người là một trong ba đột phá chiến lược: “đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao”. Thực chất quan điểm này gắn liền với lý thuyết về vốn con người (hay có người còn gọi là tư bản người). Nhiều quốc gia coi việc đầu tư “vô hình” này là chính sách ưu tiên hàng đầu bảo đảm cho phát triển bền vững. Chúng ta có thể tìm thấy nhiều quan điểm, tư tưởng lớn của Đảng về vị thế đặc biệt quan trọng của con người trong thời kỳ mới của sự phát triển đất nước được trình bày cô đúc với những đòi hỏi rất cao thể hiện trong các chương mục của văn kiện.

Trước hết, văn kiện xác định mục tiêu “xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học”. Các nội dung trên đây thể hiện khát vọng sâu xa không chỉ của Đảng, mà của toàn dân tộc ta trong điều kiện chúng ta đang phải đấu tranh kiên quyết, kiên trì, không nao núng trước những biểu hiện tiêu cực, thoái hóa, biến chất của một bộ phận con người trong xã hội đang biến đổi phức tạp ngày hôm nay. Cái mới của quan điểm trên còn ở chỗ: nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam không chỉ vì bản thân họ, mà sâu xa hơn, phải coi con người Việt Nam là trọng tâm của sự phát triển và phải "trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển" bền vững của đất nước.

Xem thêm: Thông Tư Hướng Dẫn Hợp Đồng Trong Xây Dựng, Thông Tư 07/2016/Tt

Những giá trị gì tạo nên sự phát triển toàn diện của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế? Văn kiện Đại hội đã gợi mở, Đảng, Nhà nước và xã hội cần tạo môi trường và điều kiện để con người “phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật”. Đó là những giá trị cần có để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thời kỳ mới, trong đó, phải chỉ ra rằng, có những giá trị đòi hỏi rất cao, rất kiên trì sự rèn luyện, giáo dục, tự trui rèn của mỗi con người mới hy vọng đạt được. Mặt khác, đây là một quá trình rất lâu dài, diễn ra một cuộc đấu tranh thầm lặng nhưng quyết liệt trong mỗi con người, mỗi gia đình và cả cộng đồng để từng bước “đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế” (văn kiện - tr. 126).

Để làm được điều đó cần nhận thức rõ các nội dung lớn sau đây: một là, kiên quyết bảo vệ và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp, bền vững của dân tộc đã được hun đúc trong tiến trình lịch sử dân tộc; hai là, chắt chiu, nuôi dưỡng, chăm lo, bảo vệ, khẳng định những nhân tố mới, các giá trị mới của con người Việt Nam thời kỳ lịch sử mới đang xuất hiện và trưởng thành trong cuộc sống; và ba là, tỉnh táo khắc phục, vượt qua những hạn chế lịch sử vốn có và những thói hư, tật xấu, cái ác, cái thấp hèn, sự thoái hóa, biến chất đang diễn ra hiện nay. Văn kiện đã xác định rõ các nội dung trên, coi đó là con đường phải đi qua để xây dựng hệ giá trị của con người Việt Nam đương đại: “khẳng định, tôn vinh cái đúng, cái tốt đẹp, tích cực, cao thượng, đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu,…” và “khắc phục những mặt hạn chế của con người Việt Nam” (Văn kiện - tr.127). Với ý nghĩa đó, mục tiêu cao cả của cách mạng, của sự nghiệp đổi mới là tìm con đường để con người trở nên NGƯỜI NHẤT và làm cho hoàn cảnh không làm tha hóa con người, phải trở nên nhân đạo hơn với con người, như có lần C. Mác khẳng định.

Bằng con đường nào, giải pháp chủ yếu nào để có thể đào tạo, xây dựng được các thế hệ con người Việt Nam phát triển toàn diện? Văn kiện Đại hội XII đặt nhiệm vụ lớn lao, nặng nề đó cho toàn xã hội, song, trước hết cho lĩnh vực được khẳng định là quốc sách hàng đầu - đó là giáo dục, đào tạo. Nhằm thực hiện được mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, Đại hội yêu cầu một sự chuyển hướng quan trọng nhất đối với giáo dục là “chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học” (văn kiện - tr.114). Tư tưởng này đòi hỏi ngành giáo dục phải đổi mới sâu sắc, toàn diện tư duy, năng lực chỉ đạo và tổ chức lĩnh vực giáo dục, vượt qua những “căn bệnh” đã tồn tại từ lâu trên lĩnh vực này như chất lượng, hiệu quả giáo dục còn thấp, chưa chú trọng đúng mức việc giáo dục đạo đức, lối sống và kỹ năng làm việc, nặng lý thuyết, nhẹ thực hành,… Giáo dục, đào tạo phải tạo cho được sự phát triển của con người, đặc biệt của thế hệ trẻ, thông qua quá trình giáo dục nhằm phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo, phẩm hạnh, nhân cách của mỗi cá nhân, tạo cho bằng được những thế hệ con người Việt Nam “yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào, sống tốt và làm việc hiệu quả” (Văn kiện - tr. 115).

Con người phát triển hay bị tha hóa, biến chất phụ thuộc vào môi trường văn hóa - nơi con người sinh sống, lao động, học tập, quan hệ cộng đồng. Vì vậy, nói đến xây dựng đời sống văn hóa, trước hết là xây dựng môi trường văn hóa cho con người, vì con người, kể từ môi trường trực tiếp và nhỏ nhất như gia đình, thôn xóm, bản làng, các đơn vị sản xuất, công tác, học tập, chiến đấu,… Nghĩa là, để có được nhân cách văn hóa phát triển đúng hướng và toàn diện, phải văn hóa hóa toàn bộ hoạt động và quan hệ đa dạng của con người trong xã hội. Xuất phát từ quan điểm đó, Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Xây dựng môi trường văn hóa, đời sống văn hóa lành mạnh trong hệ thống chính trị, trong mỗi địa phương, trong từng cộng đồng làng, bản, khu phố, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, khu công nghiệp và mỗi gia đình, góp phần giáo dục, rèn luyện con người về nhân cách, đạo đức, lối sống” (Văn kiện - tr. 127 - 128).

Từ nhận thức trên, văn kiện Đại hội, đặc biệt trong phần “xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh…” và phần “phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc” đã rất chú trọng và nhấn mạnh đến nhiệm vụ “tăng cường rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng” trong cán bộ, đảng viên và quan tâm toàn diện đến nhiệm vụ bồi dưỡng, xây dựng, phát triển và phát huy các giai cấp, giai tầng xã hội: giai cấp công nhân, nông dân, đội ngũ trí thức, đội ngũ doanh nhân, thế hệ trẻ, phụ nữ, cựu chiến binh, người cao tuổi, đồng bào các dân tộc, tôn giáo, đồng bào định cư ở nước ngoài,… Làm tốt các nhiệm vụ cụ thể trên chính là con đường tốt nhất để đào tạo, xây đắp con người Việt Nam đương đại, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước thời kỳ mới.

Con người là trung tâm của quá trình phát triển

Thứ Bảy, 05-06-2021, 10:50
Facebook Email Bản in +
Tại sao phải phát triển con người
Ðầu tư phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao luôn là trọng tâm chính sách của Ðảng và Nhà nước ta.Trong ảnh: Giờ thực hành tại phòng thí nghiệm hiện đại của Trường đại học Trà Vinh.

LTS - Tuần qua Nhân Dân cuối tuần tiếp tục nhận được những chia sẻ của nhiều trí thức tâm huyết với bài viết "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở Việt Nam" của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Trong số báo này, xin giới thiệu góc nhìn của PGS, TS Nguyễn Xuân Phong - Trưởng khoa Chính trị học (Học viện Báo chí và Tuyên truyền).

Không ai bị bỏ lại phía sau

Quan điểm con người là trung tâm của sự phát triển… đã trở thành một định hướng chiến lược, một triết lý hành động xuyên suốt quá trình phát triển. Ðiều này đã được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khái quát trong bài viết gần đây: Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hòa với lợi ích chính đáng của con người. Qua bài viết, Tổng Bí thư khẳng định mục tiêu: Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Nhìn lại quá trình lãnh đạo của Ðảng để một lần nữa khẳng định những luận điểm của Tổng Bí thư trong bài viết đặc biệt quan trọng:

Tăng trưởng kinh tế phải gắn chặt với công bằng xã hội, tăng trưởng kinh tế đến đâu thực hiện công bằng xã hội đến đấy vì con người, không chờ kinh tế phát triển cao mới thực hiện công bằng xã hội hay hy sinh công bằng xã hội để tăng trưởng kinh tế. Mặt khác, cũng không thể thực hiện tốt được những hoạt động phúc lợi, giảm bớt sự phân hóa, giảm bớt bất bình đẳng trên một nền kinh tế nghèo nàn, tăng trưởng thấp. Nhận thức này được Ðảng ta thể hiện từ Ðại hội Ðảng lần thứ VIII: "Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển". Nội dung này được tiếp tục thể hiện trong các Văn kiện sau này.

Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội có quan hệ chặt chẽ với nhau, tăng trưởng kinh tế làm tiền đề vật chất bảo đảm thực hiện tốt các chính sách xã hội. Công bằng xã hội vừa là động lực, vừa là mục tiêu của tăng trưởng kinh tế. Thực hiện tốt các chính sách xã hội, chăm lo cho những đối tượng yếu thế chính là tạo được môi trường, động lực cho tăng trưởng kinh tế. Công bằng xã hội có thể khuyến khích mọi cá nhân vươn lên làm giàu, tích cực đẩy mạnh công cuộc xóa đói, giảm nghèo. Quan niệm này được Ðảng ta thể hiện trong Ðại hội VIII của Ðảng: "Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói giảm nghèo". Thực hiện công bằng xã hội trong điều kiện phát triển kinh tế nhiều thành phần nhằm tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế.

Tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội gắn với phát triển văn hóa

Nhận thức rõ vai trò quan trọng của văn hoá, Ðảng ta đã khẳng định: "Kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội... Coi phát triển kinh tế là cơ sở và tiền đề để thực hiện các chính sách xã hội". Quan niệm này đòi hỏi các giá trị văn hóa tiên tiến phải được thâm nhập vào mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội để tạo nên những giá trị bền vững: "đưa các nhân tố văn hóa, tinh thần nhân văn thấm sâu vào các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ cách ứng xử trong gia đình, trường học, xã hội đến các hoạt động sản xuất, kinh doanh, giao tiếp" vì con người.

Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội. Tăng trưởng kinh tế nhằm tạo ra của cải vật chất. Còn phân phối công bằng là việc phân chia các sản phẩm xã hội sao cho hợp lý. Nước ta xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, có nghĩa là kinh tế thị trường để phục vụ con người, vì con người. Vai trò của Nhà nước hết sức quan trọng thể hiện ở chỗ: Nhà nước tạo môi trường, tạo cơ hội bình đẳng trong sản xuất, kinh doanh; Nhà nước định hướng quá trình phát triển, phân bổ các nguồn lực; Nhà nước chế định thực hiện các chính sách xã hội, chính sách kinh tế; Nhà nước điều tiết phân phối thu nhập giữa các lĩnh vực kinh tế, bộ phận nhân dân, đồng thời phân phối lại thông qua phúc lợi xã hội; Nhà nước tạo cơ hội cho mọi cá nhân, tổ chức.

Phát huy sức mạnh của cá nhân, doanh nghiệp, cộng đồng trong việc tham gia hoạt động phúc lợi xã hội như: đền ơn đáp nghĩa, giúp đỡ các đối tượng chính sách, đồng bào bị thiên tai, trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, người già cô đơn. Ðưa những hoạt động này thành một phong trào thực tiễn sâu rộng mang tính chất thường xuyên: "Thực hiện các chính sách bảo trợ trẻ mồ côi, lang thang cơ nhỡ, người già neo đơn, nạn nhân chiến tranh, người tàn tật; xây dựng quỹ tình thương… Giúp đỡ những người bị thiên tai và rủi ro khác". Xã hội hóa hoạt động này, xem đây là trách nhiệm của mọi cá nhân, cộng đồng. Ðồng thời bảo đảm an sinh xã hội: "bảo vệ, giúp đỡ mọi thành viên trong xã hội, nhất là những đối tượng yếu thế, dễ bị tổn thương".

Tăng trưởng kinh tế phải chú ý đến bảo vệ môi trường. Nhận thức rõ điều này, Ðảng ta quan niệm: "Tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hóa, giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường". Tăng trưởng kinh tế gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường. Tổng Bí thư đặc biệt nhấn mạnh trong bài viết: Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai.

Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội phải chú ý đúng mức tới lợi ích người lao động, nhân dân. Tăng trưởng kinh tế phải phục vụ mục tiêu vì người lao động. Việc chú ý đến lợi ích người lao động là động lực to lớn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Ðảng chủ trương: "khuyến khích nhân dân làm giàu hợp pháp". Sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là ở chỗ chúng ta xác định mục tiêu chung, vì con người, phát huy nhân tố con người: "tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục…, giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người".

Như vậy, quan điểm của Ðảng ta trong quan hệ tăng trưởng kinh tế với các vấn đề xã hội đều gắn với con người, xem con người là trung tâm. Ðiều này đã thể hiện rõ được bản chất tốt đẹp của chế độ chính trị mà chúng ta đang xây dựng, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, phấn đấu đến năm 2045 chúng ta là một nước phát triển có thu nhập bình quân đầu người cao, con người ngày càng được hưởng hạnh phúc từ những thành quả kinh tế mang lại.

Facebook Twitter Link EmailQuay lại

Xây dựng hình mẫu con người mới xã hội chủ nghĩa có tri thức, đạo đức, thế lực, lối sống và thẩm mỹ cao, phục vụ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội

(ĐCSVN) - Trong niềm tự hào và xúc động kỷ niệm 131 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, tác phẩm nghiên cứu "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam" của Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng như một thông điệp khẳng định mạnh mẽ ý chí của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tiếp tục hành trình và vững bước trên con đường mà Đảng, Bác Hồ và Nhân dân ta đã lựa chọn.
Tại sao phải phát triển con người
Tại sao phải phát triển con người
Tại sao phải phát triển con người
Tại sao phải phát triển con người
Tại sao phải phát triển con người
Ảnh minh họa. Nguồn: tuyengiao.vn

Bài viết của đồng chí Tổng Bí thư sau khi được đăng tải rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng đã nhận được rất nhiền phản hồi mang tính tích cực, sự đồng tình, ủng hộ, đánh giá cao của dư luận xã hội; đặc biệt là của các học giả, các nhà nghiên cứu lý luận ở trong và ngoài nước, bởi đây là một công trình nghiên cứu rất sâu sắc về chủ nghĩa xã hội, có giá trị về cả phương diện lý luận và chỉ đạo thực tiễn.

ÔngDenis Rondepierre, Ủy viên Ban Chấp hành Đảng Cộng sản Pháp (PCF) nhận định bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng bao hàm những giá trị xuyên suốt của tư tưởng Hồ Chí Minh(1). Trong bài viết của mình, Tổng Bí thư đã nói rõ rằng việc lựa chọn các mô hình phát triển phải đảm bảo lợi ích cho tất cả mọi người, giải phóng xã hội và con người, theo đó xã hội cần phát triển để phục vụ con người, chứ không phải là một xã hội chỉ theo đuổi lợi nhuận và bóc lột, làm phương hại đến phẩm giá con người(2). Do đó, trong công cuộc đổi mới đất nước,việc xây dựng, đào tạo thế hệ trẻ là việc quan trọng, cấp bách, đòi hỏi một kế hoạch kỹ lưỡng, chiến lược bền bỉ và mang tính lâu dài, bền vững bởi vì đó là nhiệm vụ đào tạo thế hệ cách mạng kế cận, góp phần tạo nên con người mới xã hội chủ nghĩa. Trên nền tảng bài nghiên cứu của Tổng Bí thư, trong bài viết này, tôi xin phép được nêu những nhận thức và quan điểm của mìnhvề tính cấp thiết, vai trò, nhu cầu, và giải pháp của việc đào tạo thế hệ trẻ - những con người mới xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.

1. Vai trò của con người mới xã hội chủ nghĩa trong công cuộc xây dựng đất nước

Chúng ta biết rằng, có một nội dung bao chứa rộng lớn cả về lý luận và thực tiễn nằm xây dựng chế độ mới và giải phóng con người, vì con người ở trong kho tàng lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam, đó là: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”(3). Dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, ngay từ khi ra đời và trong suốt quá trình đấu tranh Cách mạng, minh triết đó không chỉ đã trở thànhphương châm hành động mà còn là sợi chỉ đỏ xuyên suốt của cách mạng Việt Nam. Trong công trình nghiên cứu của mình, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng đã nhấn mạnh:“Con người giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển; phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới; phát triển giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu; bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề sống còn, là tiêu chí để phát triển bền vững; xây dựng gia đình hạnh phúc, tiến bộ làm tế bào lành mạnh, vững chắc của xã hội, thực hiện bình đẳng giới là tiêu chí của tiến bộ, văn minh”(4). Do đó, chúng ta thấy rằng, muốn xây dựng một xã hội đương đại thì yếu tố con người luôn luôn đóng vai trò then chốt bởi vì những con người tiêu biểu đại diện cho sự phát triển xã hội của nó. Lịch sử thường gọi nó là “thời đại” và “con người của thời đại”.

Kể từ khi mô hình xã hội chủ nghĩa ở Liên xô và nhiều nước Đông Âu sụp đổ thì vấn đề tiến lên xã hội chủ nghĩa lại trở thành tâm điểm của nhiều cuộc bàn luận, thảo luận. Rất nhiều ý kiến tranh luận, thậm chí tranh cãi gay gắt được đưa ra. Các thế lực thù địch, cơ hội chính trị, cực đoan đã thừa cơ xuyên tạc, công kích, bội nhọ, bài trừ, chống phá con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của đất nước ta. Mặc dù lịch sử đã chứng minh rằng: việc lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là đúng đắn, do nhân dân Việt Nam lựa chọn, nhưng vẫn còn có một bộ phận còn có “tư tưởng xét lại”, nghi ngờ thành quả của Cách mạng Việt Nam. Thực tế chứng minh rằng, tư bản chủ nghĩa tuy có đạt được rất nhiều thành tựu lớn nhưng cũng có rất nhiều thiếu sót, đặc biệt về sự phân hóa giàu/nghèo, các cuộc khủng hoảng kinh tế, chính trị và cả khủng hoảng y tế dưới tác động của những điễn biến phức tạp trong các đợt bùng phát đại dịch Covid-19. Theo học thuyết Marx-Lenin thì chủ nghĩa xã hội là xã hội tốt đẹp, nằm ở nấc thang phát triển cao hơn chủ nghĩa tư bản. Vì vậy, việc định hướng và xác định con đường đi lên xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là cần thiếtvà chúng ta cần phải kiên định với con đường đã chọn. Do đó, con người mới xã hội chủ nghĩa phải là con người được đào tạo bài bản, sống có lý tưởng Cách mạng, tư tưởng chính trị, lập trường vững vàng, sẵn sàng chung tay, vững bước cùng xây dựng đất nước Việt Nam giàu mạnh.

Lãnh thổ đất liền của đất nước chúng ta trải dài trên khoảng 15 vĩ độ, trên đó có 54 dân tộc anh em cùng chung sống. Quy mô dân số nước ta là hơn 97 triệu dân(5). Theo UNFPA, Việt Nam chúng ta hưởng thời kỳ “cơ cấu dân số vàng” và sẽ kết thúc vào năm 2040(6). Mặt khác, cùng với cuộc cách mạng công nghệ lần thứ tư, không chỉ Việt Nam chúng ta mà tất cả các nước trên thế giới cùng đang vận động và thay đổi từng ngày. Với thời kỳ cơ cấu dân số vàng, không khó có thể nhận ra rằng Việt Nam đang đứng trước một cơ hội chưa từng có để có thể thực hiện những bước chuyển mình nhanh chóng về các mặt: kinh tế – xã hội, khoa học - công nghệ, giáo dục,… Do đó, chúng ta phải tận dụng thời cơ này một cách triệt để để thu hẹp lại khoảng cách với các cường quốc trên thế giới.

Trong giai đoạn từ nay đến khi kết thúc thời kỳ “cơ cấu dân số vàng”, đất nước chúng ta sẽ hướng tới những ngày lễ kỷ niệm lớn như 100 năm ngày thành lập Đảng vào năm 2030, xa hơn nữa là 100 ngày thành lập nước vào năm 2045.Vì vậy, để công cuộc đổi mới, con đường lên xã hội chủ nghĩa Việt Nam đạt được những thành quả như kỳ vọng, nói cách khác, tất cả những tiềm năng đang có của đất nước ta có phát huy và tỏa sáng rực rỡ được hay không thì công tác chú trọng tới thế hệ trẻ phải được chuẩn bị ngay từ bây giờ.

Đứng trước“giai đoạn vàng” này, chúng ta đã có đầy đủ trong tay tất cả về mặt thời điểm cũng như cơ hội, nhưng yếu tố con người luôn đóng vai trò quan trọng nhất. Như lời Bác Hồ kính yêu đã căn dặn:“Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”, nếu không có sự đào tạo, chuẩn bị thì chúng ta sẽ mất đi một lực lượng kế cận, một nguồn chất xám cần thiết để xây dựng và phát triển đất nước. Đặc biệt, trong cuộc Cách mạng công nghệ lần thứ tư hiện nay, tất cả mọi thứ đều phát triển và thay đổi rất nhanh và đòi hỏi chúng ta phải thích ứng kịp thời với thời đại. Bên cạnh đó, chúng ta cũng phải thừa nhận một thực tế rằng thời gian không trừ một ai và trong tương lai ngắn, thế hệ trẻ - những con người mới xã hội chủ nghĩa này sẽ trực tiếp nắm trong tay vận mệnh đất nước, cùng nhau chèo lái con thuyền Việt Nam vượt qua khó khăn, sóng gió, vững bước trên con đường chủ nghĩa xã hội đã được lựa chọn. Vậy nên, cần khẳng định rằng công tác xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa hiện nay nắm vai trò cực kỳ quan trọng, bởi vì những hạt giống tốt thôi chưa đủ, chúng cần phải được ươm mầm, vun vén và chăm sóc kỹ càng thì mới có thể phát triển tốt, đủ sức chống chọi với những mầm bệnh.

2. Thực trạng xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước - từ góc nhìn đào tạo thế hệ trẻ

Như đã phân tích ở trên, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa phải dựa trên nền tảng là đào tạo ra một lớp thế hệ trẻ kế cận được trang bị một cách toàn diện. Đây cũng mục tiêu giáo dục con người không chỉ ở Việt Nam mà còn là ở tất cả các nước trên toàn thế giới. Việc phát triển con người một cách toàn diện thực chất là xây dựng con người mới có đủ năng lực làm chủ bản thân và xã hội. Tư tưởng coi trọng nhân tố con người này của Đảng ta đã được cụ thể hóa trong các văn kiện, có thể ví dụ như:

- Nghị quyết 33 (Số 33-NQ/TW) về Định hướng xây dựng và phát triển văn hóa, con người đã xác định rõ mục tiêu là “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học”.

- Vấn đề “phát triển con người toàn diện” trong các văn kiện của Đại hội XII được Đảng ta xác định là một trong những nhiệm vụ tổng quát phát triển đất nước 5 năm 2016-2020,đó là xây dựng “con người Việt Nam phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”.

- Trong văn kiện của Đại hội XIII của Đảng, khi đề cập đến quan điểm về văn hóa, Đảng ta luôn nhấn mạnh việc phát huy vai trò con người, xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam.

Trong bài viết của mình, Tổng Bí thư cũng đã khẳng định: con người là một khối tổng hòa của các yếu tố tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm mỹ và con người mới xã hội chủ nghĩa phải được trang bị đầy đủ các yếu tố đó. Nếu thiếu đi một yếu tố nào đó thì vấn đề phát triển toàn diện sẽ không còn được đảm bảo. Những yếu tố trên sẽ được phân tích dưới đây:

Một là, yếu tố tri thức đóng vai trò quan trọng bởi tri thức là sức mạnh. Việc tiếp thu, lĩnh hội các văn minh, tiến bộ của nhân loại là điều cần thiết bởi đó là hành trang cho con người mới xã hội chủ nghĩa có tri thức, khoa học, công nghệ tự tin sánh đưa đất nước ngang các nước phát triển. Nói cách khác, tri thức là chìa khóa giúp con người bước ra thế giới bên ngoài. Như nhà vật lý thiên tài Albert Einstein đã nói:“Khi chúng ta hiểu biết càng nhiều thì cái tôi cá nhân càng bé lại”, khi đó mong muốn tiếp thu tri thức của con người mới xã hội chủ nghĩa sẽ ngày càng mạnh và những tri thức đó sẽ được vận dụng để đóng góp không chỉ để xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa mà còn cho cả cộng đồng nhân loại thế giới. Hơn nữa, trí lực có tốt thì con người mới đủ tỉnh táo để chống lại mọi thông tin giả, không đúng sự thật và phản bác lại được những luận điệu sai trái, thù địch.

Hai là, Bác Hồ đã nói:“Có tài mà không có đức là người vô dụng”. Bác căn dặn muốn trở thành người giúp ích cho xã hôi, đất nước thì phải có đạo đức tốt. Trong cuộc sống, chúng ta đã thấy có những cá nhân biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tự diễn biến, tự chuyển hóa; có hành vi vi phạm pháp luật, gây thiệt hại cho cộng đồng, xã hội, bức xúc trong dư luận, làm giảm lòng tin của nhân dân vào quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.Vì vậy, người có tài mà không có đức, không đặt lợi ích quốc gia dân tộc trên lợi ích cá nhân sẽ là nguy cơ gây ra những hậu quả khôn lường, nghiêm trọng; không chỉ cho bản thân mà còn cho cả cộng đồng.

Ba là, thể lực tốt và lối sống lành mạnh sẽ giúp cho con người mới xã hội chủ nghĩa có đủ tỉnh táo để chống lại mọi cám dỗ của cuộc sống, tránh xa các tệ nạn xã hội. Rèn luyện thể lực là không ngừng chú trọng tập luyện, nâng cao thể chất, vóc dáng, sức mạnh của con người. Mọi người lao động dù ở bất kỳ ngành nghề nào đều cần có sức vóc thể chất tốt để duy trì và phát triển trí tuệ, để chuyển tải tri thức vào hoạt động thực tiễn, biến tri thức thành sức mạnh vật chất. Hơn nữa, cần phải có sự dẻo dai của hoạt động thần kinh, niềm tin và ý chí, khả năng vận động của trí lực trong những điều kiện khác nhau và trong những thử thách hết sức khó khăn và khắc nghiệt. Vậy, muốn có thể lực tốt thì ngoài việc rèn luyện thể thao thường xuyên, cũng cần có một chế độ sống, lối sống hợp lý, tránh xa các chất kích thích gây tổn hại cho cơ thể và hệ thần kinh.

Bốn là, tính thẩm mỹ cao mang lại cái đẹp cho con người, mang lại nhiều vẻ đẹp cho xã hội. Tính thẩm mỹ ở đây không đơn thuần là vẻ đẹp bên ngoai mà còn là tính nhân văn, nhân đạo của con người. Vẻ đẹp trong cuộc sống luôn có muôn sắc thái khác nhau và được thể hiện ra trong từng hành động, từng lời nói, từng cử chỉ của con người trong các mối quan hệ, giao tiếp xã hội. Như lúc sinh thời, Bác Hồ cũng đã dặn dò:“Mỗi người tốt, mỗi việc tốt là một bông hoa đẹp, cả dân tộc ta là một rừng hoa đẹp”. Để xã hội tốt hơn, chất lượng cuộc sống cao hơn thì thẩm mỹ của con người cũng cần chú trọng.

Xét tới hiện nay thì công cuộc đào tạo thế hệ trẻ - những con người mới xã hội chủ nghĩa ở đất nước ta đã có thành quả đáng khích lệ. Tuy chưa có điều kiện để đảm bảo giáo dục miễn phí cho tất cả các cấp học nhưng Việt Nam tập trung hoàn thành xóa nạn mù chữ, phổ cập giáo dục và có tới 95% người lớn biết đọc, biết viết(7). Số sinh viên học cao đẳng, đại học và sau đại học tăng lên hằng năm với chất lượng ngày càng được cải thiện. Cơ sở vật chất của các cơ sở đào tạo ngày càng được mở rộng, nâng cấp và cải thiện. Các chương trình hợp tác quốc tế mở ra tạo điều kiện cho học sinh, sinh viên dễ dàng tiếp cận được với tri thức nước ngoài. Đội ngũ giảng viên được đào tạo bài bản ở trong và ngoài nước, nắm chắc chuyên môn, có những phương pháp đào tạo khoa học đã cải thiện đáng kể chất lượng sinh viên Việt Nam, rất nhiều sinh viên Việt Nam đi du học và tỏa sáng rực rỡ trên đất bạn. Về mặt thể chất thì sức vóc người Việt có sự cải thiện đáng kể. Chúng ta dần có nhiều những thành tích cao trên đầu trường thể thao quốc tế. Điều đó cho thấy rằng công cuộc giáo dục con người đã được Đảng và nhà nước ta rất quan tâm và chú trọng. Tuy nhiên, bên cạnh đó chúng ta cũng còn có nhiều điểm cần cải thiện, đặc biệt vấn đề phân hóa, chênh lệch trình độ giữa các vùng miền trên Tổ quốc bởi với hơn 60% dân số sống nước ta ở nông thôn(8). Tóm lại, nhìn chung tất cả những gì chúng ta đã, đang có là cơ sở tiền đề tốt, vững chắc để có thể đáp ứng được công cuộc xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa.

3. Giải pháp nâng cao chất lượng công tác đào tạo thế hệ trẻ góp phần hình thành con người mới xã hội chủ nghĩa

Trong cuộc cách mạng công nghệ lần thứ tư hiện nay, Việt Nam không thể là một đất nước đứng ngoài cuộc. Việc ứng dụng các giải pháp công nghệ cao hiện nay vào cuộc sống đã giải phóng sức lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết kiệm thời gian cũng như tiền bạc. Sự tiến bộ của khoa học công nghệ đã len lỏi vào mọi góc cạnh của cuộc sống khiến chất lượng cuộc sống được cải thiện đáng kể. Người dân được tiếp cận nhanh, dễ dàng với những gì mình muốn, vì vậy chúng ta cần tiếp tục phát huy những gì đang có và đổi mới, sáng tạo vì cuộc sống chất lượng hơn.

Bên cạnh đó, những nghiên cứu mang tính ứng dụng nên được đầu tư mạnh mẽ. Mô hình nghiên cứu 5 nhà bao gồm : nhà trường - nhà khoa học - nhà đầu tư - nhà kinh doanh - nhà nước sẽ góp phần đẩy mạnh sự phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo ở đất nước ta. Mô hình liên kết này đã được trình bày và giới thiệu ở Diễn đàn Trí thức trẻ Việt Nam toàn cầu lần thứ 3 năm 2020 do Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tổ chức.

Bài toán nguồn lực cũng là bài toán hóc búa bởi lực lượng trí thức trẻ - những con người mới xã hội chủ nghĩa sẽ là nhân tố quan trọng trong việc vận dụng và thực hiện các hoạt động đưa Việt Nam vững bước trên con đường xã hội chủ nghĩa. Phát triển nguồn lực chất lượng và lâu dài là điều kiện cần thiết bởi nội lực có mạnh thì đất nước mới phát triển mạnh. Các quốc gia trên thế giới như Nhật Bản, Israel,… trở nên giàu có nhờ họ đã xây dựng được lực lượng thế hệ trẻ chất lượng.

Ngoài nguồn nhân lực trong nước thì những người Việt Nam ở nước ngoài (lực lượng kiều bào) cũng là nguồn lực không thể bỏ qua. Người Việt Nam sống ở nước ngoài luôn hướng về Tổ quốc, rất nhiều nhà khoa học, học giả, nhà kinh doanh,… người Việt trên thế giới luôn sẵn sàng góp công sức, ý kiến của mình vào công cuộc xây dựng đất nước. Họ cũng truyền cho thế hệ người Việt sau khi sinh ra ở nước ngoài tinh thần hướng về nguồn cội cha ông. Vì vậy, đất nước ta phát triển được sẽ có phần không nhỏ từ khối đại đoàn kết dân tộc và lực lượng này cũng sẽ góp phần quảng bá hình ảnh Việt Nam ra ngoài thế giới.

Cuối cùng là nên tạo cơ hội để các bạn trẻ có chuyên môn, có năng lực được cống hiến, dấn thân, đảm nhận công việc và có môi trường để phát triển toàn diện. Việc này sẽ giải quyết đồng thời hai vấn đề: kế thừa và phát huy. Thế hệ trẻ Việt Nam sẽ kế thừa những thành quả, lĩnh hội những kinh nghiệm, bài học quý báu do thế hệ trước truyền lại. Cùng với đó, những năng lực của bản thân, tri thức cũng như đạo đức đã được trau dồi, những người trẻ sẽ phát huy được những tiềm năng của bản thân và sẵn sàng đảm nhiệm vai trò làm chủ đất nước, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, dân tộc Việt Nam quyết tâm hiện thực hóa khát vọng xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Dựa vào những phân tích trên, mục tiêu chúng ta phấn đấu là xây dựng được một thế hệ thanh niên Việt Nam sống có tri thức, có đạo đức phẩm chất tốt đẹp, lối sống văn minh, lành mạnh, vóc dáng đẹp và có nét đẹp về tâm hồn, sống nhân văn. Đó cũng là động lực để chúng ta hiện thực hóa mục tiêu này bởi vì tương lai của đất nước chính là tương lai của mỗi con người chúng ta, và công việc này cần sự chung tay, đoan kết của tất cả mọi người chứ không phải riêng mình ai. Vì vậy, có thể nói rằng việc xây dựng một đội ngũ con người mới xã hội chủ nghĩa vừa hồng, vừa chuyên là mục tiêu, cũng là động lực trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam./.

Nguồn tham khảo

(1) Thông tấn xã Việt Nam, Nguồn tin:https://www.vnanet.vn/ (Phỏng vấn ông Denis Rondepierre, Ủy viên Ban Chấp hành Đảng cộng sản Pháp) - 08/2021

(2) (4) (7) GS. TS. Nguyễn Phú Trọng, Nguồn tin: https://www.moha.gov.vn/ (Bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về con đường đi lên CNXH) – Truy cập tháng 08/2021

(3), Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, xuất bản lần thứ 3, H, 2011, t.13, tr. 66.

(5) (8)Tổng cục thống kê, Nguồn tin: https://www.gso.gov.vn/ (Dân số, lao động và việc làm 2020), Truy cập tháng 08/2021

(6) Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA) và Viện Nghiên cứu Chiến lược phát triển Việt Nam 2016, Nguồn tin: https://vietnam.unfpa.org/ (Tác động của biến đổi cơ cấu tuổi dân số đến nền kinh tế Việt Nam và đề xuất chính sách), Truy cập tháng 08/2021.

TS. Trần Lê Hưng, Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội

Xây dựng và phát triển văn hóa, con người vì sự phát triển bền vững

(ĐCSVN) – Tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, các đại biểu đã đóng góp những ý kiến tâm huyết, trách nhiệm. Đây sẽ là cơ sở để lãnh đạo Đảng, Nhà nước đề ra các chủ trương, chính sách phù hợp xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững.

Khai mạc Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII

Văn hóa hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Tiếp tục xây dựng, giữ gìn, chấn hưng và phát triển nền văn hoá của dân tộc

​Xây dựng, giữ gìn và phát huy những giá trị đặc sắc của nền văn hóa Việt Nam

Toàn cảnh Hội nghị Văn hoá toàn quốc năm 2021

Khơi dậy động lực và sức mạnh nội sinh của văn hoá thúc đẩy sự phát triển đất nước

Khẳng định vai trò của văn hóa trong việc phát triển nhanh và bền vững đất nước

Tập trung thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng về phát triển văn hóa

Tham luận tại Hội nghị, đồng chí Nguyễn Văn Hùng, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ Trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch khẳng định: Trong dòng chảy của văn hóa Việt Nam sau 35 năm đổi mới cho thấy, nhận thức về văn hóa, xã hội, con người ngày càng toàn diện, sâu sắc hơn. Tư tưởng, đạo đức và lối sống - lĩnh vực then chốt của văn hóa đã có những chuyển biến tích cực; hệ thống chính sách pháp luật về văn hóa tiếp tục được hoàn thiện, tạo điều kiện cho nhân dân tham gia tích cực vào hoạt động sáng tạo và hưởng thụ văn hoá; công tác bảo tồn, phát huy di sản văn hóa tiếp tục được quan tâm; tổ chức tốt hoạt động giao lưu, hợp tác quốc tế, quảng bá hình ảnh đất nước, con người, văn hóa Việt Nam ra thế giới. Thực tiễn đã chứng minh, những lúc đất nước khó khăn thì các giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc được khơi dậy và phát huy mạnh mẽ; lòng yêu nước, tinh thần tương thân, tương ái, sống có nghĩa, có tình, mang đậm bản sắc văn hóa Việt Nam lại càng tỏa sáng; cả dân tộc kết thành một khối thống nhất về ý chí và hành động.Văn hoá đã có những đóng góp tích cực, quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa.

Tại sao phải phát triển con người
Tại sao phải phát triển con người
Tại sao phải phát triển con người
Tại sao phải phát triển con người
Tại sao phải phát triển con người
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng gặp gỡ các đại biểu tham dự hội nghị.

Tuy nhiên, trước yêu cầu ngày càng cao của sự phát triển, lĩnh vực văn hóa còn bộc lộ một số hạn chế, bất cập: Đã xuất hiện các hiện tượng văn hóa tầm thường, dễ dãi, mang tính thị trường; các biểu hiện “lệch chuẩn” trong hưởng thụ văn hóa. Môi trường văn hóa, đạo đức xã hội, đạo đức kinh doanh, trách nhiệm nghề nghiệp, quy tắc ứng xử, văn minh công cộng chưa được xây dựng theo hướng văn hóa… Đời sống văn hóa, tinh thần ở một số nơi còn đơn điệu; khoảng cách hưởng thụ văn hóa chậm được rút ngắn; chưa có nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị cao; việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa còn gặp khó khăn. Cơ chế chuyển hóa hiệu quả nguồn tài nguyên văn hóa vốn rất phong phú, giàu có của Việt Nam thành sự đa dạng, giàu bản sắc và có khả năng cạnh tranh quốc tế của sản phẩm, dịch vụ công nghiệp văn hóa còn thiếu đồng bộ. Một hệ sinh thái thực sự để các ngành công nghiệp văn hóa trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, cũng như tạo ra sự cân bằng, đa dạng và bền vững hơn cho nền kinh tế chưa đủ điều kiện để hình thành. Thể chế về văn hóa đang trong quá trình từng bước hoàn thiện, công tác cán bộ của Ngành văn hóa nói chung, đội ngũ văn nghệ sĩ - những chiến sĩ trên mặt trận văn hóa của Đảng nói riêng còn có sự bất cập.

Ý thức sâu sắc được trách nhiệm của mình về phát triển văn hóa mà Đảng, Nhà nước, Chính phủ giao phó, trong thời gian tới đây, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch sẽ nỗ lực, tập trung thực hiện các nội dung trọng tâm.

Thứ nhất, tiếp tục đi sâu nghiên cứu, nâng cao nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn nữa về văn hóa theo tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09/6/2014 và Kết luận số 76-KL/TW ngày 04/6/2020 trước hết là ở các cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa: Làm tốt vai trò tham mưu cho các cấp ủy đảng, chính quyền để Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị.

Thứ hai, xác định nhiệm vụ tham mưu, đề xuất xây dựng, hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách phát triển văn hóa, thể thao và du lịch là nhiệm vụ trọng tâm ưu tiên, đột phá phục vụ công tác quản lý nhà nước của Bộ, trên cơ sở xuất phát từ thực tiễn. Giai đoạn 2021-2025 và đến năm 2030 tập trung tham mưu, đề xuất xây dựng các dự án Luật, Nghị định thuộc lĩnh vực văn hóa .

Thứ ba, định hình hệ sinh thái văn hóa, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh.

Thứ tư, xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện. Sự hoàn thiện con người cần và chỉ có thể thực hiện được trong văn hóa và bằng văn hóa. Do đó, cần xác định và thực hành hệ giá trị con người Việt Nam với những phẩm chất phù hợp yêu cầu của thời đại mới như yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo.

Thứ năm, phát triển các ngành Công nghiệp văn hóa có trọng tâm, trọng điểm để phát huy sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam, dựa trên sự sáng tạo, khoa học công nghệ và bản quyền trí tuệ, phấn đấu đạt mục tiêu doanh thu của các ngành công nghiệp văn hóa đóng góp 7% GDP vào năm 2030; gắn phát triển văn hóa với phát triển du lịch, đưa du lịch thành một ngành kinh tế mũi nhọn, đồng thời bảo vệ, gìn giữ tài nguyên văn hóa cho các thế hệ mai sau.

Thứ sáu, quan tâm, dành nguồn lực thỏa đáng để đầu tư cho văn hóa. Văn hóa giữ vai trò điều tiết xã hội bằng hệ thống giá trị, chuẩn mực văn hoá của cộng đồng, văn hóa giữ vai trò định hướng sự phát triển của xã hội bằng mục đích nhân văn của mình và cột mốc văn hóa trong tâm trí con người luôn là cột mốc vững chắc nhất. Do vậy, đầu tư cho văn hóa là đầu tư lâu dài để hướng tới tương lai.

Mối quan tâm xuyên suốt của Đảng và Nhà nước dành cho văn hóa, cùng sứ mệnh “văn hóa soi đường cho quốc dân đi” không chỉ là niềm vinh dự, tự hào mà còn khắc sâu hơn ý thức trách nhiệm của mỗi trí thức, văn nghệ sĩ, nhà văn hóa, nhà quản lý, những người thực hành văn hóa.

Dưới sự Lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, sự đồng thuận của Nhân dân bởi sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, Ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch tin tưởng và kỳ vọng sau Hội nghị có tính lịch sử này, văn hóa Việt Nam sẽ được đầu tư đúng mức, được phát triển có trọng tâm, có những đột phá mạnh mẽ trong việc thúc đẩy năng lực sáng tạo, giải phóng sức sản xuất, hình thành những giá trị tốt đẹp, có khả năng kết nối mạnh mẽ với các trụ cột kinh tế, chính trị, xã hội và khoa học công nghệ để trở thành động lực, mục tiêu của sự phát triển bền vững.

Đảng bộ Hà Nội quán triệt sâu sắc, vận dụng sáng tạo đường lối phát triển văn hóa của Đảng

Đồng chí Nguyễn Văn Phong, Phó Bí thư Thành uỷ Hà Nội nhận định: Trong 35 năm đổi mới, Đảng bộ Hà Nội đã liên tục có sự đổi mới tư duy, nâng cao nhận thức, là thành phố đi đầu cả nước trong việc cụ thể hóa quan điểm chỉ đạo của Trung ương về phát triển văn hóa, xây dựng con người. Đến nay, nhiệm kỳ 2020 - 2025 là kỳ đại hội thứ tám sau đổi mới (từ Đại hội X đến Đại hội XVII), Đảng bộ Thành phố đã luôn quán triệt sâu sắc và vận dụng linh hoạt, sáng tạo những quan điểm, chủ trương của Đảng về phát triển văn hóa, xây dựng con người phù hợp với điều kiện Thủ đô. Cụ thể, nhận thức về vị trí của văn hóa trong xã hội được phát triển qua từng giai đoạn.

Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ XVII nêu rõ nhiệm vụ trọng tâm: “Chú trọng phát triển văn hóa Hà Nội trên cơ sở phát huy truyền thống ngàn năm văn hiến và anh hùng; Thành phố vì hòa bình, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại. Xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh, phát triển toàn diện với những giá trị nhân văn và tinh thần yêu nước sâu sắc, tôn trọng pháp luật; giàu lòng tự hào dân tộc, ý chí, khát vọng phát triển; coi đây là sức mạnh nội sinh, động lực tinh thần to lớn để phát triển Thủ đô”; đồng thời xác định khâu đột phá: “Đưa văn hóa và con người Hà Nội thực sự trở thành giá trị tinh thần to lớn, nguồn lực quan trọng quyết định phát triển bền vững Thủ đô”.

Tại sao phải phát triển con người
Tại sao phải phát triển con người
Tại sao phải phát triển con người
Tại sao phải phát triển con người
Tại sao phải phát triển con người
Các đại biểu tham dự hội nghị

Nhằm cụ thể hóa các quan điểm mới về phát triển văn hóa, con người Việt Nam được đặt ra tại Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng, bám sát tình hình thực tiễn của Thủ đô, Thành phố Hà Nội tập trung triển khai toàn diện, đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp vừa bảo đảm tính trước mắt, vừa có tính căn cơ, lâu dài trên tinh thần đổi mới sáng tạo, có tính đột phá, với những nhóm nội dung trọng tâm. Theo đó, tập trung nâng cao nhận thức về văn hóa và nhiệm vụ phát triển văn hóa, con người Việt Nam của toàn xã hội, trước hết là của cán bộ, đảng viên, các tổ chức Đảng, chính quyền của Thành phố; Định vị tầm nhìn rộng để hoạch định chiến lược phát triển văn hóa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của Thủ đô; Chú trọng xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh và nhân văn trong hệ thống chính trị, trong từng cộng đồng thôn làng, khu dân cư, tổ dân phố, trường học, cơ quan, doanh nghiệp và mỗi gia đình; Tiếp tục kiên trì mục tiêu xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh, phát triển toàn diện, hình thành hệ giá trị văn hóa mới trên cơ sở kế thừa và phát huy những giá trị nhân văn sâu sắc của Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội ngàn năm văn hiến; Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước, đảm bảo hài hòa mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển; Phát huy tối đa mối quan hệ hữu nghị, hợp tác với hơn 100 thành phố, thủ đô các nước, quan hệ kinh tế thương mại với gần 200 quốc gia và vùng lãnh thổ.

Để hoàn thành trọng trách nặng nề và vẻ vang ấy, Đảng bộ, chính quyền, các tầng lớp nhân dân Thủ đô, xác định phải có quyết tâm cao, nỗ lực lớn, đoàn kết, sáng tạo, vừa phát huy truyền thống vẻ vang và những thành tựu đạt được, vừa khai thác hiệu quả các tiềm năng, lợi thế, tận dụng tối đa những cơ hội, huy động được nguồn lực tổng hợp và nhất là nguồn lực từ niềm tin, sự đồng lòng, nhất trí, ý chí và khát vọng vươn lên của mỗi cán bộ, đảng viên và Nhân dân để phục vụ sự nghiệp xây dựng và phát triển nhanh, bền vững Thủ đô.

Nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của văn hóa

Theo PGS.TS Vũ Minh Giang, Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Đào tạo, Đại học Quốc gia Hà Nội: Để có thể biến văn hóa thành nguồn lực, khai thác các di sản như những tài nguyên, điều quan trọng đầu tiên là phải đổi mới tư duy nhận thức một cách căn bản. Trước hết phải thấm nhuần sâu sắc quan điểm văn hóa không chỉ là một lĩnh vực hoạt động thuộc phạm vi quản lý của ngành Văn hóa mà là nền tảng tinh thần của xã hội, là hồn cốt, khí chất của dân tộc.

Cùng với đổi mới tư duy, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của văn hóa, cũng phải đánh giá đúng và thấy hết những khó khăn khi khai thác các nguồn lực văn hóa.

Trước hết, đó là những trở ngại trước các thói quen, tập tính và hạn chế của cư dân nông nghiệp khi bước vào thời kỳ công nghiệp hóa và hiện đại hóa mà một trong những nhược điểm lớn, gây rất nhiều hậu quả tai hại là không có thói quen nhìn xa, là tâm lý “ăn xổi”. Suy cho cùng, thói quen này cũng là biểu hiện của những tàn dư lịch sử, nằm trong di tồn văn hóa. Nếu không có nhận thức thật sâu sắc để có biện pháp khắc phục hữu hiệu thì đây là một cản trở lớn cho sự phát triển. Trong thời đại ngày nay, người ta trù liệu trước cho sự phát triển ít nhất là vài chục năm.

Một trong những hạn chế lớn khác của di tồn văn hóa có hại cho sự phát triển là tâm lý bình quân cào bằng. Đây là sản phẩm của cơ cấu kinh tế - xã hội nông nghiệp - công xã. Trong lịch sử, sự bình đẳng làng xã, sự phân hóa xã hội không mấy sâu sắc đã từng đóng vai trò quan trọng cho sự cố kết/đoàn kết cộng đồng. Quan niệm “dàn hàng ngang mà tiến” hay “xấu đều hơn tốt lợi” đôi khi là những yếu tố cần thiết để điều chỉnh hành vi của mỗi cá nhân. Tuy nhiên, mặt trái chính là tâm lý ghét sự vượt trội - một biểu hiện của tâm lý bình quân. Trong phát triển nói chung, đây là yếu tố có sức cản vô cùng mạnh mẽ...

Một trong những điều quyết định thành công trong sự nghiệp phát triển, đưa đất nước đi tới phồn vinh là phải khơi dậy khát vọng của cả dân tộc, đặc biệt là giới trẻ như tinh thần Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã chỉ ra. Giáo dục văn hóa, lịch sử cho mọi tầng lớp từ lãnh đạo đến nhân dân, nhất là tầng lớp thanh thiếu niên cần được coi như một nhiệm vụ mang tầm chiến lược. Khát vọng sẽ dẫn tới tự tin và có thể biến những gì mình có thành lợi thế, thành sức mạnh.

Trong thời kỳ hội nhập, văn hóa không chỉ là tài sản để cất giữ, để tự hào mà phải được coi là sức mạnh mềm của đất nước để có thể mở rộng hợp tác và cạnh tranh bình đẳng trên trường quốc tế. Trên ý nghĩa này, đẩy mạnh ngoại giao văn hóa không chỉ dừng ở những hoạt động giới thiệu hình ảnh Việt Nam ra bên ngoài mà phải có những tính toán dài hơi và hiệu quả, trong đó đặc biệt coi trọng thế mạnh của con người Việt Nam.

Bên cạnh việc phát huy sức mạnh mềm, việc làm sống dậy các di sản, di tích cũng là một giải pháp quan trọng, cần được đặc biệt quan tâm. Việt Nam là một quốc gia có nền văn hiến lâu đời và rực rõ, có truyền thống dựng nước và giữ nước vô cùng vẻ vang. Lịch sử đã để lại cho chúng ta một truyền thống hào hùng và gắn với nó là vô vàn những di tích quý giá. Tuy nhiên, đến nay, những di sản này chưa được khai thác hiệu quả. Phần nhiều mới chỉ được giữ gìn theo cách bảo quản và đôi khi được tôn tạo bằng những khoản kinh phí rất hạn chế. Thế giới hiện đang có rất nhiều kinh nghiệm làm sống dậy di sản văn hóa, khai thác di sản như những tài nguyên góp phần vào sự nghiệp phát triển đất nước.

Xây dựng, đào tạo thế hệ khán giả trẻ của sân khấu

NSND Trịnh Thúy Mùi, Ủy viên Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam, Chủ tịch Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam khẳng định: Thực hiện tốt Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị khóa về việc “Tiếp tục xây dựng và phát triển VHNT trong thời kỳ mới” và Nghị quyết 33-NQ/TW Hội nghị lần thứ 9 BCH TW Đảng khóa XI về “Xây dựng và phát triển văn hóa con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước nền văn nghệ hiện đại Việt Nam trong hai thập niên đầu thế kỉ 21 đã có nhiều thành tựu trong hoạt động sáng tạo tác phẩm văn học nghệ thuật có giá trị tư tưởng và chất lượng nghệ thuật cao, để lại dấu ấn tốt đẹp trong lòng công chúng và bạn bè quốc tế. Nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật đi sâu vào việc tuyên truyền nghị quyết của đảng, đã tác động đến tư tưởng tình cảm và làm thay đổi nhận thức để hoàn thiện về nhân cách con người. Điều ấy chứng tỏ, các chủ thể là văn nghệ sĩ đã và đang thực hiện thắng lợi đường lối văn hóa văn nghệ của Đảng, đã kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của nền văn hóa Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.

Tuy nhiên, để hoạt động sân khấu vượt qua khó khăn, thách thức, NSND Trịnh Thúy Mùi cho rằng, ngành sân khấu rất cần đến sự quan tâm, đầu tư hơn nữa và có các cơ chế đặc thù theo đặc thù của nghệ thuật biểu diễn sân khấu, đảm bảo đời sống ,giảm bớt khó khăn cho văn nghệ sĩ, tạo động lực cho văn học nghệ thuật phát triển hài hòa cùng các thành phần khác. Những khó khăn về nhân lực, tài lực khiến cho nhiều đơn vị nghệ thuật đang tồn tại rất vất vả và chênh vênh. Chính sách tiền lương dù đã “cải cách”,vẫn chưa tạo ra động lực đủ mạnh cho người hưởng lương phát huy tài năng và cống hiến.

Bên cạnh đó, cần đầu tư nguồn nhân lực, xây dựng cơ chế đặc thù để đào tạo trong nước nhằm khôi phục dần sự khủng khoảng về đội ngũ sáng tạo của văn học nghệ thuật.

Một trong những đề án cần được quan tâm nhất của Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam là Đề án cho chiến lược phát triển nghệ thuật sân khấu, bằng cách“Giới thiệu nghệ thuật truyền thống trong các trường học” nhằm bảo tồn và phát huy những giá trị tinh hoa nghệ thuật truyền thống đang có nguy cơ thất truyền, đồng thời nhằm xây dựng, đào tạo thế hệ khán giả trẻ của sân khấu. Đây là hoạt động hết sức cần thiết, mang tính khả thi cao, vừa trang bị kiến thức lịch sử nước nhà cho giới trẻ, vừa có tác dụng đào tạo định hướng khán giả chung cho nghệ thuật sân khấu.

Cùng với đó, Nhà nước nên đầu tư và kêu gọi đầu tư cho “Quỹ hỗ trợ phát triển văn học nghệ thuật ” để đặt hàng sáng tác cho cả các đơn vị công lập và ngoài công lập tạo sự công bằng bình đẳng, nhằm tạo điều kiện tiếp tục đẩy mạnh công tác xã hội hóa văn hóa nghệ thuật trong tiến trình phát triển văn hóa xã hội.

Vì sự thôi thúc khẩn thiết của đòi hỏi xã hội, nên sân khấu phải đầu tư mạnh mẽ hơn nữa cho những tác phẩm mang đề tài hiện đại nhằm tổ chức đối thoại với người xem, bằng những vở diễn phản ánh sâu sắc, sinh động vấn đề đồng thuận giữa ý Đảng và lòng dân trong cuộc sống hôm nay. Đặc biệt là đề tài chính luận về thế sự, mang ý nghĩa giáo dục tư tưởng, của Đảng. Những tác phẩm này rất cần Đảng và nhà nước quan tâm tạo điều kiện cho vở diễn được biểu diễn trong các trường Đảng, các kỳ họp Quốc hội, Hội đồng nhân dân để cán bộ đảng viên phải là người học tập và thẩm thấu trước tiến, nhằm thực hiện quyết tâm lớn của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, để nghệ thuật góp phần tích cực nhất vào việc “phát huy giá trị văn hóa và sức mạnh của con người Việt Nam” vượt qua những thách thức trong quá trình đưa đất nước phát triển và hội nhập quốc tế...

Hội nghị sẽ tiếp tục làm việc trong buổi chiều!

Nhóm PV

NGUỒN LỰC CON NGƯỜI - YẾU TỐ CƠ BẢN ĐẢM BẢO CHO SỰ PHÁT TRIỂN NHANH VÀ BỀN VỮNG

Dù ở thời đại nào, hay hình thái kinh tế - xã hội nào thì con người cũng luôn giữ vai trò quyết định, tác động trực tiếp đến tiến trình phát triển của lịch sử xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi ra đời tới nay luôn chăm lo phát triển nguồn nhân lực, nhất là trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Vì vậy, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn chú trọng yếu tố con người, coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển của xã hội. Trong các văn kiện các Đại hội của Đảng đã khẳng định: “Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội”, “Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh chóng và bền vững”. Các quan điểm trên đặt ra cho vấn đề phát triển nguồn lực con người ở nước ta những nhiệm vụ to lớn, liên quan đến nhiều lĩnh vực cơ bản, có tính quyết định đối với việc nâng cao chất lượng con người như: Giáo dục và đào tạo,chăm sóc sức khỏe, dân số và môi trường sống của con người. Phát triển giáo dục và đào tạo - nhiệm vụ chủ yếu để phát triển nguồn lực con người.

Nhân lực lại càng là yếu tố số một, là nguồn cội, động lực chính tạo nên lực lượng sản xuất - nhân tố quyết định tốc độ và sự phát triển bền vững của phương thức sản xuất mới ở nước ta trong điều kiện hội nhập quốc tế. Vì thế, muốn đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa một cách bền vững không thể không chăm lo phát triển con người.

Nguồn nhân lực quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia, trong đó giáo dục và đào tạo là phương tiện chủ yếu quyết định chất lượng con người. Giáo dục và đào tạo chuẩn bị con người cho sự phát triển bền vững, vì lợi ích hiện tại và vì tương lai của đất nước, của dân tộc. Ở nước ta, truyền thống hiếu học, trọng hiền tài, coi “hiền tài là nguyên khí quốc gia” đã được hình thành và phát triển từ hàng ngàn năm trước. Đến Hồ Chí Minh, tư tưởng của Người về “trồng người” vì “lợi ích trăm năm” của dân tộc đã được Đảng ta nhận thức, quán triệt sâu sắc.

Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay, đặc biệt, văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã xác đinh giáo dục và đào tạo là “quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”. Giáo dục và đào tạo được coi là con đường cơ bản để phát triển nguồn lực con người, tăng cường năng lực nội sinh để công nghiệp hóa, hiện đại hóa thành công.

Mặt khác, để phát triển nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cùng với việc phát triển giáo dục và đào tạo, Nhà nước ta rất quan tâm đến các vấn đề y tế, chăm sóc sức khỏe, vấn đề dân số và nâng cao chất lượng dân số.... những năm qua đã đem lại những kết quả thiết thực, nâng cao một bước chất lượng dân số nước ta.

Tuy nhiên, thực tế cho thấy, tầm vóc và thể lực của người Việt Nam so với các nước trong khu vực vẫn còn nhiều hạn chế. Do vậy, việc chăm sóc sức khỏe, nâng cao thể lực cho người lao động vẫn là vấn đề cấp thiết, vừa cơ bản, vừa lâu dài với hướng ưu tiên và quan tâm hàng đầu là chăm sóc sức khỏe trẻ em. Đây là tiền đề quan trọng để phát triển toàn diện người lao động, là sự chuẩn bị cần thiết nguồn lực con người cho những bước phát triển tiếp theo. Ngoài ra, cần chú ý các chính sách thu hút và sử dụng có hiệu quả nhiều nguồn lực khác nhau, đầu tư cho công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe người dân, trong đó đầu tư của Nhà nước phải giữ vai trò chính....

Bên cạnh chính sách về y tế, cần quan tâm hơn nữa đến chính sách dân số vì đây cũng đang là vấn đề quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của con người. Hiện tỷ lệ tăng dân số ở Việt Nam còn khá cao, có thể dẫn đến làm triệt tiêu những thành quả đạt được trong phát triển kinh tế - xã hội, làm gay gắt thêm những vấn đề xã hội và là vật cản đối với việc cải thiện chất lượng dân số. Kinh nghiệm cho thấy, những người có mức sống khá và trình độ học vấn cao trong xã hội thường không có nhu cầu sinh nhiều con mà quan tâm nhiều hơn đến chất lượng sống. Vì vậy, trong chính sách dân số cần chú ý kết hợp việc hạn chế số dân với việc cải thiện, nâng cao chất lượng dân số. Mặt khác, cần chú trọng đưa nội dung giáo dục, bảo vệ môi trường vào chương trình giáo dục quốc dân.Cùng với môi trường tự nhiên, môi trường xã hội cũng có ảnh hưởng nhiều mặt đến sự phát triển của con người về thể lực, chiều cao, trí tuệ, tâm sinh lý... Do đó, cần quan tâm xây dựng một cơ chế mới bảo đảm thực hiện giải phóng người lao động về mọi mặt để phát huy tối đa sức mạnh của trí tuệ, tài năng, phẩm giá con người. Cũng cần nhận thức rõ rằng, sức khỏe của con người không chỉ là thể lực mà còn là sức khỏe tinh thần, chịu ảnh hưởng trực tiếp của cả môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Vì vậy, cần thiết phải xây dựng được một chiến lược tổng thể đảm bảo sự trong sạch của các loại môi trường để con người phát triển toàn diện cả về thể chất lẫn tinh thần. Từ đó cho thấy, để phát triển nguồn lực con người, toàn Đảng, toàn dân, các cấp, các ngành cần đặc biệt coi trọng các nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, nâng cao chất lượng dân số, cải thiện môi trường sống của con người.

Trong điều kiện ngày nay, nguồn lực con người là yếu tố nội sinh quan trọng nhất quyết định sự phát triển của một đất nước. Hơn lúc nào hết, Đảng và Nhà nước ta cần quan tâm chăm lo hơn nữa vấn đề phát triển toàn diện con người, đồng thời phải có những chính sách thể hiện sự quan tâm đặc biệt và khai thác tốt nhất tiềm năng trí tuệ của đội ngũ lao động chất xám để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hải Đăng

Lần xem: 50112
Tại sao phải phát triển con người
Go top