Tại sao muốn phát triển kinh tế - xã hội cần phải sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường

Tại sao phải gắn chặt phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường?

Thứ sáu - 16/04/2021 08:40
Nhưng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội tồn tại nhiều bất cập, đặc biệt tình hình ô nhiễm môi trường ngày càng nghiêm trọng và trở thành vấn đề cản trở sự phát triển của Việt Nam.
Trong những năm gần đây, Việt Nam đã gặt hái được nhiều thành tựu trên mọi lĩnh vực, đặc biệt là kinh tế. Nhưng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội tồn tại nhiều bất cập, đặc biệt tình hình ô nhiễm môi trường ngày càng nghiêm trọng và trở thành vấn đề cản trở sự phát triển của Việt Nam. Vậy nên gắn chặt phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường là vấn đề cấp bách.
Tại sao muốn phát triển kinh tế - xã hội cần phải sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường

Điểm nóng ô nhiễm môi trường

Ô nhiễm môi trường có sức ảnh hưởng lớn khi tình trạng ô nhiễm môi trường có diễn biến phức tạp, ngày càng nghiêm trọng với nhiều điểm nóng, chất lượng môi trường nhiều nơi suy giảm mạnh, không còn khả năng tiếp nhận chất thải, đặc biệt ở các khu vực tập trung nhiều hoạt động phát triển; đa dạng sinh học và chất lượng rừng suy thoái đến mức báo động, nguồn gen bị thất thoát; hạn hán và xâm nhập mặn gia tăng; sự cố môi trường xảy ra nhiều, gây hậu quả nghiêm trọng, an ninh sinh thái bị đe dọa.

Cùng với đó, các lĩnh vực trong xã hội và người dân đang ngày ngày phải đối mặt với nhiều nguy cơ, khi mức độ ô nhiễm tăng cao đe dọa tính mạng và cuộc sống. Hiện tại Việt Nam đang gánh chịu ô nhiễm nước, ô nhiễm không khí, ô nhiễm biển, ô nhiễm công nghiệp - làng nghề, ô nhiễm đất. . .

Nước thải sinh hoạt - “điểm nóng” khiến nhà quy hoạch, nhà khoa học đau đầu vì quy hoạch tại các thành phố lớn luôn là bài toán khó. Và các con sông ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh cụ thể: sông Nhuệ - Đáy, Bắc Hưng Hải, Cầu, Vu Gia - Thu Bồn, Đồng Nai - Sài Gòn đều đã ô nhiễm mặt nước.

Tại sao muốn phát triển kinh tế - xã hội cần phải sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường

Nguyên nhân gây ra sự ô nhiễm nghiêm trọng và diễn biến theo chiều hướng xấu của những dòng sông trên nằm ở lượng nước thải đô thị phát sinh, chưa xử lý ngày càng lớn, xả trực tiếp ra môi trường, gây ô nhiễm nguồn nước mặt trong các đô thị, khu dân cư; hạ tầng thu gom, xử lý nước thải chưa đáp ứng yêu cầu. Nhiều nguồn nước mặt đã hết khả năng tiếp nhận chất thải, trong khi hàng ngày đang phải tiếp nhận một lượng lớn nước thải.

Không chỉ ô nhiễm mặt nước hiện tại ô nhiễm biển Đông trở thành vấn đề phức tạp tại Việt Nam. Hiện chưa có biện pháp ứng phó hiệu quả, khi sự cố môi trường biển có xu hướng gia tăng. Biển Đông trở thành con đường lưu thông quan trọng không chỉ của Việt Nam mà còn của các nước trên thế giới, vậy nên tàu thuyền di chuyển qua lại cũng ảnh hưởng đến môi trường biển, xảy ra tai nạn tràn dầu, khai thác dầu khí, ngoài ra còn có rác thải nhựa, nạo vét nhận chìm vật liệu nạo vét, . . .những vấn đề đó đã và đang gây ảnh hưởng tới chất lượng nước biển ven bờ.

Ô nhiễm không khí được Tổ chức Y tế thế giới WHO, nhiều tổ chức, đội nhóm thanh niên lên tiếng, hành động khi ô nhiễm bụi (PM10, PM2.5) đang trở thành vấn đề báo động ở Việt Nam, trực tiếp ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, gây tâm lý bất an và lo lắng cho nhân dân. Đặc biệt số người tử vong vì ô nhiễm không khí trên thế giới và Việt Nam đang có xu hướng tăng.

Cuối năm 2020 đầu năm 2021 chỉ số AQI liên tục chuyển đỏ, tím tại một số thành phố lớn và địa phương có nhiều nhà máy hoạt động. Bên cạnh đó, ở một số thời điểm trong ngày và một số ngày trong năm, khi gia tăng các nguồn phát thải vào không khí kết hợp với các yếu tố khí tượng, khí hậu, hiện tượng thời tiết sương mù đã làm cho tình trạng ô nhiễm không khí trở nên trầm trọng hơn.

Tình trạng ô nhiễm không khí đang có xu hướng gia tăng khi có nhiều nguyên nhân tác động vào không khí nhưng có hai nguyên nhân chính đến từ ô nhiễm từ tự nhiên và ô nhiễm không khí do con người gây nên trong đó ô nhiễm không khí do con người tạo ra là yếu tố chính dẫn đến tình trạng ô nhiễm nặng nề như hiện nay.

Việt Nam là nước đang phát triển, sau 35 Đổi mới nền kinh tế được phục hồi và có sự phát triển vượt bậc, các nhà máy, khu công nghiệp, cụm công nghiệp mọc lên nhiều, nhanh và xen lẫn khu vực sinh sống của người dân. Bên cạnh những điểm tích cực sự phát triển này còn tồn tại nhiều yếu điểm khi hàng chục triệu tấn rác thải sinh hoạt, chất thải rắn công nghiệp, hàng trăm nghìn tấn chất thải nguy hại, rác thải nhựa phát sinh mỗi năm.

Trong khi đó, hầu hết chất thải rắn chưa được phân loại tại nguồn, năng lực thu gom còn nhiều hạn chế, phần lớn chất thải rắn được xử lý theo hình thức chôn lấp, nhiều bãi chôn lấp không hợp vệ sinh gây phát tán mùi ra các khu dân cư, gây bức xúc trong nhân dân.

Theo Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư - ông Nguyễn Thế Phương cho biết: “Việt Nam được đánh giá là 1 trong 10 nước chịu ảnh hưởng trực tiếp và nghiêm trọng của biến đổi khí hậu toàn cầu. Điều này đòi hỏi phải có chính sách phù hợp nhằm thích ứng, giảm nhẹ các tác động của biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường đến sự triển của kinh tế xã hội cần được thực hiện một cách nghiêm túc, trên cơ sở khoa học để đưa ra những dự báo, cảnh báo sớm, phục vụ công tác hoạch định, xây dựng chính sách phát triển kinh tế xã hội phù hợp.

Cho đến nay, Việt Nam còn tồn tại nhiều khu vực ô nhiễm tồn lưu, chưa xử lý triệt để nguồn gây ô nhiễm. Những vấn đề này gây ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế vì vậy cần phải có chính sách phù hợp nhằm thích ứng, hạn chế, giảm nhẹ tác động của biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường cho phát triển bền vững, dài hạn.

Gắn phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường

Mô hình kinh tế tuần hoàn được cả thế giới đánh giá cao vì đáp ứng được yêu cầu giải quyết ô nhiễm môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu hướng đến mục tiêu phát triển bền vững.

Cụ thể, mô hình có các hoạt động thiết kế, sản xuất và dịch vụ đều phục vụ để kéo dài tuổi thọ của vật chất và loại bỏ tác động tiêu cực đến môi trường, đặt yếu tố bảo vệ môi trường lên hàng đầu.

Và Việt Nam đang quan tâm, định hướng phát triển nhằm giảm thiểu tác động xấu đến môi trường và nỗ lực phát triển bền vững. Ví dụ điển hình của mô hình này là biến chất thải của nhà máy này làm vật liệu cho nhà máy khác, giảm tối thiểu chất thải ra môi trường, dần tiến gần đến không phát sinh chất thải để có sự phát triển kinh tế.

Điều này có ý nghĩa rất quan trọng đối với lĩnh vực môi trường và kinh tế. Với mô hình này chi phí sản xuất của các khu công nghiệp sẽ được giảm, hơn thế mô hình giúp giảm thiểu rác thải, ô nhiễm cho môi trường. Phát triển kinh tế xanh không làm hại đến môi trường đó là cơ chế phát triển bền vững.

Tại sao muốn phát triển kinh tế - xã hội cần phải sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường

Theo PGS.TS Trương Mạnh Tiến, Chủ tịch TW Hội Kinh tế Môi trường Việt Nam, trong bối cảnh tài nguyên ngày càng suy thoái, cạn kiệt, môi trường bị ô nhiễm, biến đổi khí hậu diễn biến khốc liệt, phát triển kinh tế không thể đơn thuần mà phải gắn với bảo vệ môi trường, để cho cuộc sống của mỗi người dân được tốt lên. Phải phấn đấu làm sao để "kinh tế xanh" thay cho "kinh tế nâu" đây cũng chính là thông điệp mà Chính phủ đang hướng tới.

PGS.TS Trương Mạnh Tiến cũng giải thích thêm: “Kinh tế xanh có nhiều định nghĩa khác nhau, tuy nhiên cùng chung mục tiêu hướng đến một nền kinh tế không có chất thải. Để hướng đến kinh tế xanh, các nước đi một bước trung gian là kinh tế tuần hoàn. Và đương nhiên, kinh tế tuần hoàn lấy càng ít nguyên nhiên vật liệu từ tài nguyên càng ít càng tốt, quay vòng quy trình sản xuất và tiêu dùng, quay lại quy trình sản xuất càng nhiều càng tốt. Đó được hiểu là nền kinh tế tuần hoàn”.

“Luật Bảo vệ môi trường 1993, đó là vấn đề giảm thiểu thu gom, phân loại, tái chế tái sử dụng chất thải…, của tất cả các chất thải khác nhau ở tất cả các ngành nghề lĩnh vực khác nhau. Việc đưa vào trong quy định của pháp luật khái niệm này thì đến năm 2020 mới được đưa vào Luật Bảo vệ môi trường 2020 tại Điều 142, sắp tới mới có hiệu lực và quy định nhiều công đoạn khác nhau từ thiết kế sản phẩm trong quá trình sản xuất cho đến tiêu dùng”, ông Tiến chia sẻ về yếu tố manh nha kinh tê tuần hoàn về mặt pháp luật.

Ngoài kinh tế còn có nhiều lĩnh vực ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường không chỉ riêng kinh tế nhưng đây là lĩnh vực hàng đầu ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường. Giảm thiểu vấn đề ô nhiễm môi trường, Việt Nam cần đặt mục tiêu xây dựng nền kinh tế tuần hoàn dựa trên yếu tố cấu thành nó nhằm gắn chặt kinh tế với môi trường và hướng đến sự phát triển bền vững.

Tác giả bài viết: HOÀNG THOA (T/H),

Nguồn tin: www.moitruongvadothi.vn

KHÍ TƯỢNG THỦY VĂN KHÍ TƯỢNG THỦY VĂN

Giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với bảo vệ tài nguyên, môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu

Đó là chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ Trịnh Đình Dũng Hội nghị Sơ kết công tác 6 tháng đầu năm và triển khai nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2016 ngành tài nguyên và môi trường (TN&MT) sáng ngày 18/7, tại Hà Nội.
Tại sao muốn phát triển kinh tế - xã hội cần phải sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường

Phó Thủ tướng Chính phủ Trịnh Đình Dũng phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị
sơ kết công tác 6 tháng đầu năm và triển khai nhiệm vụ 6 tháng cuối năm
2016 của ngành TN&MT
Chủ trì Hội nghị có Bộ trưởng Bộ TN&MT Trần Hồng Hà và các Thứ trưởng Bộ TN&MT: Chu Phạm Ngọc Hiển, Nguyễn Linh Ngọc, Võ Tuấn Nhân. Tham dự Hội nghị có Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Nguyễn Cao Lục, Thứ trưởng Bộ Nội vụ Nguyễn Duy Thăng cùng đại diện các Bộ, ngành Trung ương và lãnh đạo các đơn vị trực thuộc Bộ TN&MT.

Tại sao muốn phát triển kinh tế - xã hội cần phải sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường

Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng cùng Lãnh đạo Bộ TN&MT chủ trì Hội nghị

Nhiều chuyển biến tích cựctrong công tác quản lý nhà nước về TN&MT

Phát biểu khai mạc Hội nghị, Bộ trưởng Trần Hồng Hà cho biết, bước vào năm 2016, tình hình đất nước có những thuận lợi nhưng cũng không ít khó khăn, thách thức tác động trực tiếp đến ngành TN&MT. Quán triệt chỉ đạo của Đảng, Quốc hội, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, toàn ngành TN&MT đã cụ thể hóa, triển khai quyết liệt các nhiệm vụ, giải pháp; hoàn thành nhiều nhiệm vụ quan trọng trên tất cả các mặt công tác, các lĩnh vực được phân công.

Công tác quản lý nhà nước về TN&MT trên tất cả các lĩnh vực trong 6 tháng đầu năm có nhiều chuyển biến tích cực. Hệ thống chính sách, pháp luật về TN&MT tiếp tục được hoàn thiện, bám sát yêu cầu thực tiễn, cải cách hành chính, công khai, minh bạch, phát huy nguồn lực TN&MT; tổ chức bộ máy của ngành được quan tâm kiện toàn; công tác cải cách hành chính có nhiều chuyển biến rõ rệt; những vướng mắc từ thực tiễn ở địa phương trong quá trình thực thi pháp luật từng bước được tháo gỡ; nhiều vấn đề bức xúc liên quan đến đời sống người dân và môi trường hoạt động của doanh nghiệp đã được tập trung giải quyết kịp thời.

Tại sao muốn phát triển kinh tế - xã hội cần phải sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường

Bộ trưởng Bộ TN&MT Trần Hồng Hà phát biểu khai mạc tại Hội nghị.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, Bộ trưởng Trần Hồng Hà cũng thẳng thắn nhìn nhận những hạn chế, tồn tại trong công tác quản lý TN&MT như tiến độ xây dựng một số văn bản quy phạm pháp luật còn chậm; một số quy định chưa theo kịp thực tiễn, chưa bắt kịp cơ chế thị trường và yêu cầu hội nhập; mạng lưới cơ sở quan trắc, dự báo chưa hợp lý, trang thiết bị còn lạc hậu; việc thực thi chính sách, pháp luật ở địa phương còn hạn chế; công tác thanh tra, kiểm tra chưa trở thành công cụ sắc bén để nâng cao hiệu lực hiệu quả thực thi chính sách, pháp luật... Đây là những trở lực khiến bộ máy hành chính từ Trung ương đến địa phương hoạt động kém hiệu quả, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh và đời sống của người dân.

"Do đó, tôi đề nghị Thủ trưởng các đơn vị, từ thực tiễn công tác quản lý, thảo luận, đóng góp những ý kiến cụ thể về các vấn đề trọng tâm, làm rõ các tồn tại, vướng mắc, nguyên nhân và đề xuất các giải pháp nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng Toàn quốc lần thứ XII; giải quyết tốt, hài hòa giữa vấn đề quản lý, bảo vệ TN&MT cho phát triển bền vững với tăng trưởng nhanh kinh tế - xã hội" - Bộ trưởng Trần Hồng Hà nhấn mạnh.

Tại sao muốn phát triển kinh tế - xã hội cần phải sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường

Thứ trưởng Chu Phạm Ngọc Hiển báo cáo tóm tắt kết quả công tác
ngành TN&MT 6 tháng đầu năm và kế hoạch, nhiệm vụ 6 tháng
cuối năm 2016

Báo cáo tóm tắt kết quả đạt được của ngành TN&MT trong 6 tháng qua, Thứ trưởng Chu Phạm Ngọc Hiển cho biết, năm 2016, cùng với việc tiếp tục hoàn thiện thể chế chính sách, pháp luật về TN&MT, Bộ TN&MT đã tập trung chỉ đạo tăng cường hiệu lực hiệu quả thực thi chính sách, pháp luật, thanh tra, kiểm tra; đẩy mạnh cải cách hành chính, chấn chỉnh kỷ luật, kỷ cương hành chính; đối mới trong công tác điều hành, tác phong, lề lối làm việc với phương châm hướng về địa phương cơ sở, phục vụ người dân.

Bộ đã xây dựng, ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng; trình Chính phủ ban hành 04 Nghị định, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành 02 Quyết định; ban hành theo thẩm quyền 11 Thông tư; 07 Thông tư liên tịch. Các văn bản quy phạm pháp luật về TN&MT được ban hành bám sát yêu cầu của thực tiễn; đẩy mạnh cải cách hành chính; tăng cường công khai, minh bạch; phát huy nguồn lực TN&MT cho phát triển KT-XH.

Công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo và giải quyết vụ việc tồn đọng, kéo dài được tăng cường. Toàn ngành đã tiến hành 1.038 cuộc thanh tra, kiểm tra đối với hơn 3.000 tổ chức, cá nhân; đã xử phạt vi phạm hành chính 600 tổ chức với số tiền hơn 35,5 tỷ đồng, kiến nghị thu hồi 3.160 ha đất; tiếp nhận, phân loại và xử lý gần 6.000 lượt đơn khiếu nại, tố cáo. Bộ đã thẩm tra, xác minh 15/21 vụ việc Thủ tướng Chính phủ giao; 20/30 vụ việc thuộc thẩm quyền, trách nhiệm của Bộ; tiếp 2.848 lượt công dân đến khiếu nại, tố cáo.

Đồng thời, Bộ tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách TTHC. Bộ tập trung triển khai thực hiện Nghị quyết số 19/2016/NQ-CP về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia hai năm 2016-2017 và Nghị quyết số 35/NQ-CP về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020; triển khai xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia, cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4 cho người dân, doanh nghiệp. Bộ đã thiết lập 2 đường dây nóng tiếp nhận, giải quyết phản ánh của người dân, doanh nghiệp về tình trạng vi phạm pháp luật về TN&MT, vi phạm pháp luật về đất đai và nhũng nhiễu trong quá trình cấp GCN; lập tổ công tác kiểm tra giải quyết các phản ánh của người dân, doanh nghiệp. Bộ đã đi đầu trong việc chấm điểm xác định chỉ số cải cách hành chính (PAR INDEX) đối với các Tổng cục, các Cục; điểm trung bình đã tăng từ 74,93/100 điểm (2013) lên 81,59/100 điểm (2015).

Bên cạnh đó, tổ chức bộ máy, nguồn nhân lực của ngành tiếp tục được kiện toàn từ Trung ương tới địa phương; công tác kế hoạch, tài chính và đầu tư phát triển được thực hiện đúng kế hoạch, mục tiêu đề ra; công tác khoa học và công nghệ tiếp tục được đổi mới theo hướng gắn nghiên cứu với yêu cầu thực tiễn của ngành; hợp tác, hội nhập quốc tế tiếp tục được đẩy mạnh trong các lĩnh vực của Bộ.

Tại Hội nghị, các đại biểu đã thẳng thắn, nhìn nhận một số vấn đề còn hạn chế, tồn tại và đề xuất, kiến nghị các giải pháp để khắc phục trong thời gian tới như: rà soát, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật thể chế hóa phù hợp với những nội dung đổi mới của Nghị quyết Đại hội XII, đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn và hội nhập; đẩy mạnh cải cách hành chính, dịch vụ công trực tuyến đối với các lĩnh vực TN&MT, xây dựng Chính phủ điện tử theo hướng minh bạch, thân thiện, phục vụ nhân dân và doanh nghiệp tốt hơn; tăng cường đầu tư công tác điều tra cơ bản trong các lĩnh vực khoáng sản, biển và hải đảo...; đẩy mạnh đầu tư hiện đại hóa hệ thống quan trắc TN&MT; xây dựng quy hoạch, kế hoạch đảm bảo tính liên kết, liên vùng, đồng bộ tích hợp vấn đề BĐKH để phát huy được nguồn lực TN&MT cho phát triển đất nước; Nâng cao hiệu quả, hiệu lực công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực thi chính sách, pháp luật trong các lĩnh vực TN&MT, bảo đảm mục tiêu ngăn chặn, phát hiện và xử lý vi phạm....

Tại sao muốn phát triển kinh tế - xã hội cần phải sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường

Toàn cảnh Hội nghị

Cần giải quyết tốt bài toán quản lý TN&MT phục vụ phát triển bền vững và tăng trưởng kinh tế nhanh

Phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị, thay mặt Thủ tướng Chính phủ, Phó Thủ tướng Chính phủ Trịnh Đình Dũng đánh giá cao các kết quả mà Bộ TN&MT đạt được trong hoàn thiện chính sách, pháp luật ngành TN&MT, tạo hành lang pháp lý quan trọng để nâng cao hiệu quả quản lý tài nguyên, tăng cường bảo vệ môi trường và chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu. Bộ TN&MT cũng đã nỗ lực tập trung giải quyết các vấn đề nóng, cấp bách; đặc biệt, Bộ đã chủ động, tham gia tích cực giải quyết sự cố môi trường gây hải sản chết bất thường tại ven biển 4 tỉnh miền Trung; đã tìm ra và buộc thủ phạm phải nhận sai phạm, đền bù và hỗ trợ cho người dân vùng bị ảnh hưởng và cam kết thực hiện phục hồi môi trường biển.

Phó Thủ tướng cho rằng, đất nước ta đang trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa, phấn đấu sớm trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, thoát khỏi nhóm nước có thu nhập trung bình thấp. Tuy nhiên, với yêu cầu phát triển kinh tế nhanh, đất nước đang phát triển chưa bền vững với hệ thống hạ tầng, trình độ công nghệ còn lạc hậu; chất lượng nguồn nhân lực thấp, nhân công giá rẻ, năng suất chưa cao; chất lượng môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng do nhiều công nghệ, máy móc lạc hậu không đảm bảo yêu cầu môi trường và giảm phát thải khí nhà kính.

"Quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu ngày càng có vai trò, ý nghĩa lớn đối với phát triển kinh tế - xã hội, phát triển bền vững đất nước. Đó là thách thức lớn đối với tất cả các nước trên thế giới, nhất là với Việt Nam khi tài nguyên phải khai thác để phục vụ phát triển, môi trường sống phải chịu áp lực lớn do quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Đây là mâu thuẫn lớn mà đất nước phải giải quyết để có thể phát triển nhanh và bền vững" - Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng nhấn mạnh.

Vì vậy, với nhiệm vụ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, Phó Thủ tướng đề nghị Bộ TN&MT tập trung thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm nhằm tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu như sau:

Một là, rà soát, hoàn thiện chính sách, pháp luật ngành TN&MT theo định hướng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục sự chồng chéo; tập trung cải cách hành chính, cải cách TTHC, xây dựng Chính phủ hiện đại, tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư và phát triển.

Hai là,rà soát, cập nhật, điều chỉnh, bổ sung các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch về quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu, nhằm tái cấu trúc các ngành kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng; trong đó, Bộ TN&MT phải đi đầu trong các lĩnh vực như điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; xây dựng kịch bản nước biển dâng; quy hoạch tài nguyên nước… làm nền tảng cho các ngành, các cấp xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế.

Ba là,tăng cường an ninh nguồn nước, xây dựng cơ chế chính sách tiết kiệm nước; xây dựng chiến lược, quy hoạch tài nguyên nước để kiểm soát khai thác sử dụng nước trên các dòng sông; trong đó, Bộ TN&MT phối hợp với Bộ Công thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để quản lý hoạt động thủy điện và an toàn hồ chứa để đảm bảo nước cho hạ lưu, ổn định đời sống người dân và bảo vệ hệ sinh thái của các dòng sông.

Bốn là,chú trọng công tác bảo vệ môi trường, kiểm soát các cơ sở sản xuất công nghiệp, dịch vụ có xả thải ra môi trường, từ khâu lập đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường đến khi công trình hoạt động, chỉ cấp phép khi có chất thải được xử lý đảm bảo vệ sinh môi trường theo các quy chuẩn, tiêu chuẩn Việt Nam; xử lư nghiêm vi phạm về bảo vệ môi trường; trước mắt, Bộ TN&MT phối hợp với các Bộ, ngành và các nhà khoa học, chuyên gia để giám sát thực hiện cam kết của Công ty Formosa Hà Tĩnh, đánh giá và công bố an toàn môi trường biển để người dân sớm ổn định sinh hoạt và sản xuất.

Năm là,tập trung rà soát tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và hàng rào kỹ thuật để kiểm soát chặt chẽ các thiết bị nhập khẩu vào Việt Nam, không nhập các công nghệ lạc hậu tránh để Việt Nam trở thành bãi thải công nghiệp thế giới; các công nghệ phải theo hướng tăng trưởng xanh và giảm phát thải khí nhà kính, phục vụ phát triển bền vững.

Sáu là,tăng cường năng lực dự báo, cảnh báo khí tượng thủy văn; đổi mới phương thức truyền thông, thông tin để người dân tiếp cận thông tin dự báo sớm; xây dựng hạ tầng không gian dữ liệu địa lý quốc gia, nâng cao hiệu quả công tác viễn thám; tổ chức thi hành và hoàn thiện văn bản hướng dẫn thi hành Luật tài nguyên, môi trường biển và hải đảo.

Bảy là,tăng cường thanh tra, kiểm tra, giải quyết các vấn đề bức xúc trong lĩnh vực đất đai; xử lý các khiếu nại, tố cáo về tranh chấp đất đai nhằm sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên đất đai; xử lý nghiêm các hoạt động khai thác trái phép khoáng sản và các hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường.

Tám là,rà soát lại các dự án lớn có xả thải ra sông, biển và các dự án có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường, từ khâu đánh giá tác động môi trường để chuẩn bị đầu tư đến vận hành dự án để kiên quyết xử lý theo quy định của pháp luật; có kế hoạch đầu tư hệ thống quan trắc môi trường ở các điểm xả thải có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao có nối mạng tới các Sở TN&MT các địa phương để kiểm soát thường xuyên sau khi xử lý.

Chín là,có các giải pháp nâng cao tiềm lực ngành TN&MT như đầu tư thiết bị công nghệ cao; nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý điều hành; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, cán bộ khoa học công nghệ trình độ cao…

Mười là,tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực TN&MT, nhất là trong ứng phó biến đổi khí hậu, tăng trưởng xanh và để thực hiện các nhiệm vụ như tìm kiếm, điều tra khoáng sản sâu trong đất liền và ngoài biển; hợp tác dự báo, cảnh báo sớm và xử lý sự cố thiên tai; bảo vệ nguồn nước xuyên biên giới…

Đối với các đề xuất, kiến nghị cụ thể của Bộ, Phó Thủ tướng đề nghị Văn phòng Chính phủ tổng hợp và bố trí các buổi làm việc chuyên đề có sự tham gia của các Bộ, ngành, địa phương có liên quan.

"Tôi mong với những thành tích đã đạt được, với sự nỗ lực, cố gắng, trách nhiệm, tâm huyết và bản lĩnh của đội ngũ cán bộ lãnh đạo và toàn thể công chức, viên chức, ngành TN&MT sẽ tiếp tục đạt được những kết quả quan trọng, góp phần phát triển kinh tế - xã hội đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa." - Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng nói.

Tiếp thu ý kiến của Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng, thay mặt lãnh đạo Bộ TN&MT, Bộ trưởng Trần Hồng Hà đã trân trọng cảm ơn Đảng, Chính phủ luôn quan tâm chỉ đạo sát sao và kịp thời, đặc biệt là Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng đã luôn động viên, chỉ đạo kịp thời giải quyết các vấn đề nóng của Bộ và ngành TN&MT. Bộ TN&MT mong thời gian tới sẽ tiếp tục nhận được sự quan tâm chỉ đạo của lãnh đạo Đảng và Chính phủ để ngành TN&MT ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn nữa.

Phó Thủ tướng đã phân tích, chỉ ra những tồn tại, hạn chế từ vĩ mô như chính sách, pháp luật đến cụ thể từng lĩnh vực; đến cơ chế phối hợp hiệu quả giữa các Bộ, ngành trung ương và địa phương trong quản lý TN&MT.

"Các ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng cũng là những nhiệm vụ Chính phủ giao cho ngành ở tầm vĩ mô, là tầm nhìn chiến lược, quy hoạch, kế hoạch dài hạn đến bảo đảm sự đồng bộ trong tổ chức thực hiện; nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra; nâng cao tiềm lực của ngành,... Đây là những nhiệm vụ cấp bách và dài hạn đối với Bộ và ngành TN&MT nhằm giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với bảo vệ tài nguyên, môi trường; hài hòa mối quan hệ trong chuyển đổi các mô hình tăng trưởng, khơi thông nguồn lực cho phát triển,..." - Bộ trưởng Trần Hồng Hà nói.

Bộ TN&MT sẽ nghiêm túc, rút kinh nghiệm và những chỉ đạo của Phó Thủ tướng sẽ được đưa vào Chương trình hành động của Bộ TN&MT; sẽ cụ thể hóa đối với từng lĩnh vực trong triển khai các nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2016 và những năm tiếp theo, để phát triển ngành TN&MT mạnh mẽ hơn nữa, góp phần quan trọng vào phát triển bền vững đất nước.

CTTĐT
Nguồn:http://www.monre.gov.vn/

  • Tweet

Tin liên quan
Mẫu phiếu cung cấp thông tin báo cáo công tác Bảo vệ môi trường năm 2021 06/10/2021
Công văn số 3401/STNMT-QLM Về việc triển khai thực hiện công tác thu phí BVMT đối với nước thải theo ý kiến trả lời của Bộ Tài chính 09/09/2021
Nghị quyết: Quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường trên địa bàn tỉnh Tiền Giang, Số: 09/2020/NQ-HĐND 19/08/2021
Nghị quyết: Quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí thẩm định phương án cải tạo, phục hồi môi trường; phương án cải tạo, phục hồi môi trường bổ sung trên địa bàn tỉnh Tiền Giang, số 10/2020/NQ-HĐND 19/08/2021
Quyết định về việc công bố Danh mục thủ tục hành chính trong lĩnh vực môi trường và khí tượng thủy văn thuộc phạm vi chức năng quản lý của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Tiền Giang 13/08/2021
Quyết định về việc công bố Danh mục thủ tục hành chính trong lĩnh vực môi trường thuộc phạm vi chức năng quản lý của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Tiền Giang 13/08/2021
Các hoạt động của tháng hành động vì môi trường hưởng ứng ngày môi trường thế giới 05/06 và ngày quốc tế đa dạng sinh học 2021 trên địa bàn tỉnh Tiền Giang 07/06/2021
Kết quả quan trắc chất lượng môi trường, đợt 1 năm 2021 trên địa bàn tỉnh Tiền Giang 18/05/2021
Thông báo tuyển dụng viên chức của Trung tâm Quan trắc Môi trường và Tài nguyên 07/04/2021
Thông báo về việc hướng dẫn và yêu cầu thực hiện trách nhiệm của chủ dự án sau khi báo cáo Đánh giá tác động môi trường được phê duyệt 30/03/2021
Tại sao muốn phát triển kinh tế - xã hội cần phải sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường
Tại sao muốn phát triển kinh tế - xã hội cần phải sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường
Tại sao muốn phát triển kinh tế - xã hội cần phải sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường
Tại sao muốn phát triển kinh tế - xã hội cần phải sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường
Tại sao muốn phát triển kinh tế - xã hội cần phải sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường
Tại sao muốn phát triển kinh tế - xã hội cần phải sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường
Tại sao muốn phát triển kinh tế - xã hội cần phải sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường
Tại sao muốn phát triển kinh tế - xã hội cần phải sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường
Tại sao muốn phát triển kinh tế - xã hội cần phải sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường
Tại sao muốn phát triển kinh tế - xã hội cần phải sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường
Tại sao muốn phát triển kinh tế - xã hội cần phải sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường
Tại sao muốn phát triển kinh tế - xã hội cần phải sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường
Tại sao muốn phát triển kinh tế - xã hội cần phải sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường
Tại sao muốn phát triển kinh tế - xã hội cần phải sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường
Tại sao muốn phát triển kinh tế - xã hội cần phải sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường
Tại sao muốn phát triển kinh tế - xã hội cần phải sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường