Sự kiện nào được gọi là cuộc cách mạng tiến bộ vĩ đại

Vì sao phong trào Văn hóa Phục hưng được đánh giá là một “Cuộc cách mạng tiến bộ vĩ đại”?

...

Cuộc cách mạng vĩ đại nhất của dân tộc ta trong thế kỷ XX

Cập nhật: Thứ ba , 18/08/2020 20:52

Năm nay, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta kỷ niệm 75 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc Khánh 2/9 – là sự kiện mang tầm vóc thời đại, mở ra trang sử mới vô cùng rạng rỡ trong quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, đó là đưa đất nước ta, dân tộc ta bước vào kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội.

Sự kiện nào được gọi là cuộc cách mạng tiến bộ vĩ đại
Quần chúng cách mạng và tự vệ chiến đấu Hà Nội chiếm Phủ Khâm sai (Bắc Bộ phủ), ngày 19/8/1945. Ảnh tư liệu

Theo dòng lịch sử, đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn cuối. Hồng quân Liên Xô liên tiếp giành thắng lợi quyết định trên chiến trường châu Âu, giải phóng một loạt nước và tiến thẳng vào sào huyệt phát xít Đức tại Béc-lin. Ngày 9/5/1945, phát xít Đức đầu hàng vô điều kiện, chiến tranh kết thúc ở châu Âu. Ngày 8/8/1945, Hồng quân Liên Xô tiến công như vũ bão vào quân đội Nhật. Ngày 14/8/1945, phát xít Nhật đầu hàng vô điều kiện, chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc. Theo thỏa thuận của các nước Đồng minh, sau khi phát xít Nhật đầu hàng, quân đội Anh và Tưởng sẽ vào Đông Dương để giải giáp quân đội Nhật. Trong khi đó, thực dân Pháp lăm le dựa vào phe Đồng minh hòng khôi phục địa vị thống trị của mình; đế quốc Mỹ đứng sau các thế lực này cũng sẵn sàng can thiệp vào Đông Dương; những phần tử phản động, ngoan cố trong chính quyền tay sai Nhật đang âm mưu thay thầy đổi chủ, chống lại cách mạng nước ta.

Ở trong nước, trải qua ba cao trào Cách mạng lớn, ba cuộc diễn tập cách mạng: Cao trào Xô viết Nghệ Tĩnh (1930-1931); Cao trào dân chủ (1936-1939) và Cao trào cách mạng giải phóng dân tộc (1939-1945), đến năm 1945, phong trào cách mạng dâng cao. Ngày 9/3/1945, phát xít Nhật làm cuộc đảo chính hất cẳng thực dân Pháp. Ngay trong đêm đó, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng mở rộng quyết định phát động một cao trào cách mạng làm tiền đề cho tổng khởi nghĩa giành chính quyền, thay đổi các hình thức tuyên truyền, cổ động, tổ chức và đấu tranh cho thích hợp. Tháng 3/1945, Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Tháng 4/1945, Trung ương triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ, quyết định nhiều vấn đề quan trọng, thống nhất các lực lượng vũ trang thành Việt Nam giải phóng quân. Ngày 16/4/1945, Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị tổ chức các Ủy ban Dân tộc giải phóng các cấp và chuẩn bị thành lập Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam, tức Chính phủ lâm thời cách mạng Việt Nam.

Từ tháng 4/1945 trở đi, cao trào kháng chiến chống Nhật cứu nước diễn ra mạnh mẽ, phong phú về nội dung và hình thức. Đầu tháng 5/1945, Bác Hồ từ Cao Bằng về Tuyên Quang, chọn Tân Trào làm căn cứ chỉ đạo cách mạng cả nước và chuẩn bị Đại hội quốc dân. Ngày 4/6/1945, Khu giải phóng Việt Bắc được thành lập, đặt dưới sự lãnh đạo của Ủy ban chỉ huy lâm thời, trở thành căn cứ địa của cả nước. Tháng 8/1945, Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào, Tuyên Quang trên cơ sở phân tích đánh giá tình hình cách mạng trong nước đã có sự phát triển mạnh mẽ, sôi sục và rộng khắp và bối cảnh quốc tế đang có những diễn biến thuận lợi đã đi đến khẳng định: “Cơ hội rất tốt cho ta giành độc lập đã tới” và quyết định phát động toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và tay sai trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương; đề ra ba nguyên tắc bảo đảm tổng khởi nghĩa thắng lợi, đó là: Tập trung, thống nhất, kịp thời. Đến 23 giờ ngày 13/8/1945, Ủy ban Khởi nghĩa ra Quân lệnh số 1 hiệu triệu toàn dân tổng khởi nghĩa. Ngày 16/8/1945, Đại hội Quốc dân họp tại Tân trào thông qua “10 chính sách lớn của Việt Minh”; thông qua “Lệnh tổng khởi nghĩa”; quy định quốc kỳ, quốc ca; thành lập Ủy ban Dân tộc giải phóng Trung ương, tức Chính phủ Lâm thời do đồng chí Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi nhân dân cả nước tổng khởi nghĩa, trong đó chỉ rõ: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đồng loạt vùng dậy, tiến hành tổng khởi nghĩa, giành chính quyền. Từ ngày 14 đến ngày 18/8, cuộc tổng khởi nghĩa nổ ra giành được thắng lợi ở nông thôn đồng bằng Bắc bộ, đại bộ phận miền Trung, một phần miền Nam và ở các thị xã: Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Hội An, Quảng Nam... Ngày 19/8, khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi ở Hà Nội. Ngày 23/8, khởi nghĩa thắng lợi ở Huế và ở Bắc Kạn, Hòa Bình, Hải Phòng, Hà Đông, Quảng Bình, Quảng Trị, Bình Định, Gia Lai, Bạc Liêu... Ngày 25/8, khởi nghĩa thắng lợi ở Sài Gòn - Gia Định, Kon Tum, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Trà Vinh, Biên Hòa, Tây Ninh, Bến Tre... Ở Côn Đảo, Đảng bộ nhà tù Côn Đảo đã lãnh đạo các chiến sĩ cách mạng bị giam cầm nổi dậy giành chính quyền. Chỉ trong vòng 15 ngày cuối tháng 8/1945, cuộc tổng khởi nghĩa đã giành thắng lợi hoàn toàn, chính quyền trong cả nước về tay nhân dân. Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, trước cuộc mít tinh của gần một triệu đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố trước quốc dân và thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Từ đó, ngày 2/9 là Ngày Quốc khánh của nước ta.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công mau lẹ do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân quan trọng, có ý nghĩa quyết định là sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt, tài tình của Đảng; là sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện cụ thể của nước ta một cách đúng đắn, độc lập, tự chủ và sáng tạo. Đảng có phương pháp, chiến lược, chiến thuật cách mạng phù hợp, linh hoạt; nhận thức được thời cơ, chủ động đón thời cơ và kiên quyết chớp thời cơ, tiến hành tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Nguyên nhân thứ hai rất quan trọng là do tinh thần yêu nước, đoàn kết, ý chí quật cường của các tầng lớp nhân dân ta, không chịu sống mãi kiếp nô lệ của người dân mất nước; một lòng đi theo Đảng và được Đảng lãnh đạo qua các cuộc tổng diễn tập, đã quyết vùng lên giành độc lập cho dân tộc. Cuộc Tổng khởi nghĩa năm 1945 là thành tựu tuyệt vời của tinh thần, ý chí, trí tuệ con người Việt Nam. Tinh thần, trí tuệ ấy xuất hiện từ buổi đầu lịch sử dân tộc, đã được nâng lên một tầm cao mới sau 15 năm đấu tranh quật cường dưới dự lãnh đạo của Đảng. Trải qua 15 năm đấu tranh cực kỳ gian khổ và anh dũng dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã có biết bao đồng bào, chiến sĩ đã không hề tiếc máu xương, hy sinh oanh liệt vì mục tiêu độc lập dân tộc. Cách mạng Tháng Tám thành công cũng do được tiến hành trong bối cảnh quốc tế có những thuận lợi nhất định khi mà chủ nghĩa phát xít Đức, Ý, Nhật đã bị đánh bại, phong trào đấu tranh giải phóng của các dân tộc bị áp bức và của các lực lượng tiến bộ trên thế giới phát triển mạnh.

Cách mạng Tháng Tám thành công có ý nghĩa lịch sử vô cùng quan trọng. Đó là thắng lợi vĩ đại đầu tiên của nhân dân ta từ khi có Đảng lãnh đạo, mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Chính quyền về tay nhân dân, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời - Nhà nước Công Nông đầu tiên ở Đông Nam Á; chấm dứt chế độ quân chủ phong kiến ở Việt Nam; kết thúc hơn 80 năm nhân dân ta sống dưới ách kìm kẹp của thực dân, phát xít. Nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành người dân một nước độc lập, làm chủ vận mệnh của mình. Nước Việt Nam từ một nước thuộc địa nửa phong kiến trở thành một nước độc lập, tự do và dân chủ. Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành một Đảng cầm quyền. Từ đây, đất nước, xã hội, dân tộc và con người Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của chủ nghĩa Mác-Lênin được vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của cách mạng Việt Nam; là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối cách mạng của Đảng ta gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, gắn sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; là sự thể nghiệm thành công đầu tiên chủ nghĩa Mác-Lênin tại một nước thuộc địa ở châu Á. Đây còn là quá trình phát triển tất yếu của lịch sử dân tộc trải qua mấy nghìn năm phấn đấu, đỉnh cao của ý chí quật cường, sức mạnh cố kết cộng đồng, tầm cao trí tuệ của dân tộc hòa quyện với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với xu thế của thời đại vì hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội, vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám cổ vũ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước bị chủ nghĩa đế quốc thực dân áp bức, thống trị. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám khẳng định rằng, trong điều kiện trào lưu của cách mạng vô sản, cuộc cách mạng do một đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo không chỉ có thể thành công ở một nước tư bản kém phát triển, nơi mắt xích yếu nhất của chủ nghĩa đế quốc mà còn có thể thành công ở ngay một nước thuộc địa nửa phong kiến lạc hậu để đưa cả dân tộc đó đi lên theo con đường của chủ nghĩa xã hội.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 để lại nhiều bài học quý báu, nổi bật là:

Một là,có một đảng tiên phong thật sự cách mạng, tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin, được tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng đã nắm vững hoàn cảnh cụ thể của mỗi giai đoạn lịch sử, đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, có phương pháp và hình thức đấu tranh phù hợp; biết nắm bắt thời cơ, xây dựng lực lượng và tổ chức, sử dụng lực lượng; phát huy được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để dẫn dắt quần chúng đứng lên giành thắng lợi.

Hai là,vấn đề giành và giữ chính quyền của cuộc cách mạng. Đảng ta đã biết chăm lo xây dựng lực lượng cách mạng, làm cho lực lượng cách mạng đủ mạnh, thu hút được đông đảo quần chúng tham gia, từ đó làm thay đổi so sánh lực lượng giữa ta và địch, tạo ra thời cơ cách mạng để đưa cuộc cách mạng đến thành công. Để giữ vững chính quyền, Đảng và Nhà nước ta đã dựa chắc vào nhân dân, tạo nên sức mạnh vật chất và tinh thần để đấu tranh thắng lợi với thù trong giặc ngoài. Đảng ta biết kiên quyết dùng bạo lực cách mạng và sử dụng bạo lực cách mạng thích hợp và đúng lúc để đập tan bộ máy nhà nước cũ, lập ra nhà nước mới của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

Ba là,vấn đề nắm bắt được thời cơ ngàn năm có một, đề ra được những quyết định chính xác và kịp thời. Nghệ thuật chỉ đạo tài tình của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc chọn đúng thời cơ, ra quyết định Tổng khởi nghĩa đúng lúc thể hiện cụ thể trong Chỉ thị của Thường vụ Trung ương Đảng tháng 3/1945 “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” và bản Quân lệnh số 1 của Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc phát đi đêm 13/8/1945. Chọn thời điểm 13/8 để phát động Tổng khởi nghĩa là vô cùng sáng suốt. Bởi vì vào thời điểm đó, Cách mạng đã lên tới cao trào, lực lượng cách mạng đã lôi kéo được cả những tầng lớp trung gian, lưng chừng lúc đó quân Nhật bại trận mất tinh thần cao độ, chỉ ngồi chờ quân Đồng minh đến tước vũ khí, ngụy quân tay sai tan rã và đã tỏ thái độ đầu hàng lực lượng cách mạng. Thời cơ khởi nghĩa ngàn năm có một đã được chọn một cách chính xác trong khoảng 15 ngày trước khi quân Tưởng và quân Anh đổ bộ vào Đông Dương. Nếu phát động Tổng khởi nghĩa muộn hơn, khi quân Đồng minh đã vào Đông Dương thì Cách mạng Việt Nam sẽ mất đi thế chủ động của mình và sẽ gặp khó khăn khác. Điều đó đúng như V.Lê-nin đã nhấn mạnh khi nói về thời cơ: Chiều nay quá sớm nhưng sáng mai quá muộn. Có thể đêm thì vừa! Cũng nhờ chọn đúng thời cơ mà sức mạnh của nhân dân ta trong Cách mạng Tháng Tám được nhân lên gấp bội, đã tiến hành tổng khởi nghĩa thành công trong phạm vi cả nước trong thời gian ngắn.

Kỷ niệm 75 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9 trong bối cảnh toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang ra sức thi đua lập thành tích chào mừng Đại hội Đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội lần thứ XIII của Đảng, trong đó cả hệ thống chính trị đang được phát huy sức mạnh với tinh thần: “Chống dịch như chống giặc” để chiến thắng đại dịch COVID-19. Hơn bao giờ hết, chúng ta càng hiểu rõ hơn giá trị và những bài học kinh nghiệm quý giá của Cách mạng Tháng Tám để vận dụng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay./.

TS. Bùi Thế Đức, Phó Chủ tịch Hồi đồng lý luận, phê bình Văn học, Nghệ thuật TW; nguyên Phó Trưởng ban Tuyên giáo TW
Theo dangcongsan.vn

Tags:

Cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga nổ ra cách nay gần tròn một thế kỷ. Cuộc cách mạng ấy đã đi vào lịch sử nhân loại như một bản anh hùng ca của những ai tha thiết với số phận các dân tộc bị áp bức, những người nô lệ lầm than trên trái đất, của hoà bình và tiến bộ xã hội - “Cái ngày vĩ đại ấy càng cách xa chúng ta thì ý nghĩa của cuộc Cách mạng vô sản ở Nga càng trở nên rõ rệt, chúng ta càng suy nghĩ sâu về toàn bộ kinh nghiệm thực tiễn công tác của chúng ta”.

Sự kiện nào được gọi là cuộc cách mạng tiến bộ vĩ đại
V.I.Lê-nin (1870 – 1924)

Trên con đường đấu tranh đầy đau thương và anh dũng của mình, nhân loại cần lao đều mang những ảnh hưởng, dấu ấn tinh thần của cuộc cách mạng ấy: Cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại năm 1917! Tinh thần anh dũng vô song, lý tưởng cách mạng, chủ nghĩa nhân văn và ý nghĩa mở thời đại của cuộc cách mạng ấy sống mãi. Thực vậy: “Nhiệm vụ trực tiếp và cấp bách của cuộc cách mạng ở Nga là một nhiệm vụ dân chủ tư sản”, một cuộc cách mạng dân chủ tư sản hoàn toàn mới, triệt để, sâu sắc, tạo ra ảnh hưởng to lớn đối với quần chúng nhân dân trên toàn thế giới mà so với Đại cách mạng tư sản Pháp trước đó trên một thế kỷ thì cuộc Cách mạng Nga “đã làm cuộc tẩy rửa một cách kiên quyết, nhanh chóng và mạnh dạn hơn nhiều, có kết quả và sâu rộng hơn nhiều”. V.I. Lê-nin nhấn mạnh: “Nội dung dân chủ tư sản của cách mạng, tức là trừ bỏ những tập quán thời trung cổ, trừ bỏ chế độ nông nô, trừ bỏ chế độ phong kiến trong các mối quan hệ xã hội (các luật lệ, các thiết chế)”. Những biểu hiện, những tàn dư và di tích chủ yếu của chế độ nông nô ở nước Nga trước năm 1917 là chế độ quân chủ, chế độ đẳng cấp, chế độ chiếm hữu ruộng đất và quyền sử dụng ruộng đất, địa vị của phụ nữ, tôn giáo, sự áp bức dân tộc… Bất cứ một vấn đề nào trong số những “chuồng ngựa” hỗn loạn, lộn xộn và bẩn thỉu đó, các cuộc cách mạng do giai cấp tư sản lãnh đạo đều không quét được hoàn toàn sạch sẽ. Chính cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga đã quét đống rác quân chủ, phá tan tành, đập nát vụn cái lâu đài cũ kỹ nghìn năm là chế độ đẳng cấp, nhổ tận gốc rễ chế độ phong kiến, kết liễu nạn dân tộc này đi áp bức dân tộc khác. Nước Nga Sa hoàng – nhà tù của các dân tộc – bị đập tan. Lần đầu tiên trong lịch sử, quyền dân tộc tự quyết được thực hiện. Cũng nhờ có cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga mà ước mơ của loài người về quyền bình đẳng nam, nữ trở thành hiện thực. Cái quyền thiêng liêng ấy, cái chân lý hiển nhiên ấy phải đợi đến cuộc cách mạng này mới được khẳng định trong một văn bản pháp lý cao nhất của nhà nước Liên Xô.

Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã đưa tới thành lập một nhà nước kiểu mới, nhà nước Xô-viết. Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, những người lao động, chủ yếu là công nhân và nông dân biết liên minh chặt chẽ với nhau, do một đảng cách mạng chân chính của giai cấp công nhân lãnh đạo, dùng sức mạnh quần chúng đập tan nhà nước của giai cấp tư sản. Cái nhãn hiệu nhà nước của dân, do dân, vì dân mà giai cấp tư sản dán lên ngọn cờ của nó chỉ là nhà nước của một thiểu số dân cư – của những người hữu sản giàu có – dùng để đàn áp những người lao động, bảo vệ lợi ích cơ bản của chúng. Nhà nước Xô-viết đã hiện thực hoá những điều tốt đẹp mà giai cấp tư sản đã nói rất hay nhưng chỉ làm nửa vời. V.I.Lê-nin đã gọi nhà nước Xô-viết là nhà nước của số đông, do số đông và vì số đông. Nhà nước ấy công khai tuyên bố bản chất của một nền dân chủ mới, một nền dân chủ của tất cả mọi người lao động.

Cách mạng Tháng Mười Nga và sự tồn tại 74 năm của Nhà nước Xô-viết (1917-1991) đã minh chứng cho luận điểm: Giành được chính quyền đã khó nhưng giữ vững chính quyền, kiến tạo một xã hội mới còn khó khăn gấp bội. Để làm được sự nghiệp đó thì cuộc cách mạng dân chủ tư sản phải chuyển thành cuộc cách mạng XHCN, phải củng cố chính quyền Xô-viết trên cơ sở tiến hành CNH, HĐH đất nước và đặc biệt là phải biết quản lý. V.I.Lê-nin luôn lưu ý: Chúng ta đã giành được nước Nga, vấn đề bây giờ là quản lý lấy nước Nga; đồng thời phải mở rộng quan hệ quốc tế, phá thế cô lập, bao vây của chủ nghĩa đế quốc; phải học tập cách quản lý và kỹ thuật tư sản, mạnh dạn sử dụng chuyên gia. Để làm được những việc đó thì phải củng cố Đảng, phải thanh lọc những phần tử lạc hậu, cơ hội ra khỏi Đảng, giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, xây dựng Đảng vững mạnh, tăng cường vai trò lãnh đạo và tính tiên phong chiến đấu của Đảng trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Chính Cách mạng Tháng Mười Nga và suốt quá trình tồn tại của nó đã dạy cho tất cả những người cách mạng trên thế giới phải nhanh chóng nhận ra sai lầm và kiên quyết sửa chữa một cách tích cực. V.I.Lê-nin đã đề ra chính sách kinh tế mới (NEP). Người chỉ rõ không được nóng vội, đốt cháy giai đoạn mà phải biết bắc những chiếc cầu nhỏ vững chắc đi xuyên qua CNTB nhà nước mà tiến lên CNXH; phải biết phát huy nhiệt tình cách mạng của quần chúng bằng cách khuyến khích lợi ích của từng người, áp dụng chế độ hạch toán kinh tế. V.I.Lê-nin đã nghiêm khắc phê phán bệnh kiêu ngạo cộng sản chủ nghĩa, tệ quan liêu, tham nhũng, ăn hối lộ và nạn thiếu văn hoá, thiếu học vấn…

Với tầm nhìn của một thiên tài, V.I.Lê-nin đã chỉ ra rằng: Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga 1917 chưa phải là thắng lợi cuối cùng và để tới ngày toàn thắng “không lúc nào chúng ta quên rằng, chúng ta đã mắc và còn mắc phải vô số những thất bại và sai lầm”, bởi đấu tranh với kẻ thù là chủ nghĩa đế quốc quốc tế thì đây chưa phải là trận cuối cùng. Theo Người, một dân tộc lạc hậu làm sao lại không phải trải qua thất bại và không phạm sai lầm. Nhưng không phải vì thế mà có thể phủ định ý nghĩa to lớn và bài học vô giá của cuộc Cách mạng Tháng Mười, một cuộc cách mạng mở đầu sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Dù cho những biến động, những khúc quanh co, gập ghềnh của lịch sử, nhân loại sẽ vẫn ghi nhớ nhận định của V.I.Lê-nin về ý nghĩa của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại: “Chính chúng ta đã bắt đầu sự nghiệp ấy. Bao giờ, trong thời hạn nào thì những người vô sản nước nào sẽ hoàn thành sự nghiệp ấy, điều đó không quan trọng. Điều quan trọng chính là băng đã tan, đường đã mở, lối đã vạch ra rồi” (1).

Nói về Cách mạng Tháng Mười Nga, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Mười đã chiếu rọi lịch sử các dân tộc, tạo nên một thời đại mới… Thắng lợi của cuộc cách mạng XHCN Tháng Mười có một ý nghĩa hết sức quan trọng đối với số phận các dân tộc phương Đông. Nó đã thức tỉnh các dân tộc bị áp bức ở châu Á, chỉ cho nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc con đường giải phóng, nêu gương tự do, dân chủ thực sự. Đi theo con đường Cách mạng Tháng Mười Nga, nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân và Đảng Mác-Lênin, đã kiên quyết đấu tranh chống bọn thực dân”(2). Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại đã có ảnh hưởng trực tiếp, toàn diện đến việc ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, đến hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ giành độc lập, tự do, thống nhất đất nước, đi lên CNXH ở Việt Nam.

Những chỉ dẫn của V.I.Lê-nin về thanh Đảng, về dự báo những nguy cơ dẫn đến mất chính quyền… vẫn đang là bài học nóng hổi đối với Đang ta hiện nay. Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI và khóa XII đã cho thấy Đảng ta đã rút ra được nhiều kinh nghiệm thành công và thất bại từ cuộc cách mạng vĩ đại ấy. Giống như C.Mác khi nói về sự thất bại của Công xã Paris, chúng ta có thể nói về Cách mạng Tháng Mười Nga: dù Liên Xô đã tan rã nhưng kinh nghiệm và bài học của cuộc cách mạng ấy vẫn ngàn năm sáng chói.


(1) V.I.Lênin, Toàn tập, tập 4, NXB Tiến bộ, M.1978, tr.179-191.

(2) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 8, NXB CTQG, H.2000, tr.576. 185.

Hứa Khánh Vy/xaydungdang.org.vn

Mục lục

  • 1 Tiền sử
  • 2 Thời cổ đại
    • 2.1 Hy Lạp cổ đại
    • 2.2 Sự trỗi dậy của La Mã
    • 2.3 Hậu kỳ cổ đại và Thời kỳ Di cư
    • 2.4 Sự suy tàn của Đế chế La Mã
  • 3 Trung Cổ
    • 3.1 Giai đoạn đầu Trung Cổ
      • 3.1.1 Một đốm sáng Đông La Mã
      • 3.1.2 Phong kiến Kitô giáo
    • 3.2 Giai đoạn giữa Trung Cổ
      • 3.2.1 Một Giáo hội chia rẽ
      • 3.2.2 Các cuộc chiến tranh tôn giáo
    • 3.3 Giai đoạn cuối Trung Cổ
  • 4 Buổi đầu châu Âu hiện đại
    • 4.1 Phục hưng
    • 4.2 Cải cách
    • 4.3 Thám hiểm và chinh phục
    • 4.4 Cuộc chiến tranh Ba mươi năm và trào lưu Khai sáng
  • 5 Từ năm 1789 tới 1914
    • 5.1 Cách mạng công nghiệp
    • 5.2 Biến động chính trị và sự hình thành các quốc gia
      • 5.2.1 Sự trỗi dậy của các quốc gia
  • 6 Từ năm 1914 tới 1991
    • 6.1 Khải huyền
    • 6.2 Chiến tranh Lạnh
  • 7 Lịch sử gần đây
  • 8 Xem thêm
  • 9 Tham khảo
  • 10 Liên kết ngoài

Tiền sửSửa đổi

Hình thế châu Âu

Người Homo erectus và Neanderthals đã di cư từ châu Phi tới châu Âu sau sự xuất hiện của con người hiện đại, người thông minh. Các xương cốt của những người châu Âu đầu tiên được tìm thấy tại Dmanisi, Gruzia, có niên đại 1.8 triệu năm trước. Hình thái giải phẫu học hiện đại sớm nhất về con người tại châu Âu có từ 35,000 năm trước Công Nguyên. Bằng chứng về khu định cư cố định có từ 7,000 năm trước Công Nguyên tại Balkans. Thời kỳ đồ đá mới bắt đầu tại Trung Âu từ 6,000 năm trước Công Nguyên và tại nhiều vùng khác ở Bắc Âu từ 5,000 tới 4,000 năm trước Công Nguyên. Văn hóa Cucuteni-Trypillian 5508-2750 trước Công Nguyên là nền văn minh lớn đầu tiên tại châu Âu và cũng là một trong những nền văn minh sớm nhất thế giới.

Bắt đầu từ Thời kỳ đồ đá mới đã có nền văn minh Camunni tại Valle Camonica, Ý, với di tích hơn 350,000 hình khắc trên đá, địa điểm lớn nhất tại Châu Âu.

Cũng được gọi là Thời kỳ đồ đồng, Chalcolithic châu Âu là khoảng thời gian của những sự thay đổi và hỗn loạn. Nguyên nhân trực tiếp nhất là sự thâm nhập và xâm lấn phần lớn các vùng lãnh thổ bởi người từ Trung Á, được đa số các học giả cho là có nguồn gốc Ấn-Âu, tuy vẫn có nhiều lý thuyết tranh cãi khác. Một hiện tượng khác là sự mở rộng của Megalithism và sự xuất hiện của sự phân tầng kinh tế đáng chú ý và, liên quan đến nó, những chế độ quân chủ đầu tiên tại vùng Balkan. Nền văn minh chữ viết nổi tiếng đầu tiên ở châu Âu là nền văn minh của người Minos trên đảo Crete và sau này là của người Mycenae trên những vùng liền kề Hy Lạp, bắt đầu từ đầu thiên niên kỷ thứ 2 trước Công Nguyên.

Dù việc sử dụng sắt đã được người Aegea biết tới từ khoảng năm 1100 trước Công Nguyên, mãi tới năm 800 trước Công Nguyên nó mới được biết đến ở Trung Âu, mở đường cho văn hóa Hallstatt, một sự phát triển văn hóa Thời kỳ đồ sắt của Urn Fields. Có lẽ như một tác dụng phụ của sự khác biệt kỹ thuật này của người Ấn-Âu, ngay sau đó, họ rõ đã củng cố vững vị trí tại Ý và Iberia, thâm nhập sâu vào các bán đảo đó (kinh thành Rô-ma ra đời vào năm 753 trước Công Nguyên).

Thời cổ đạiSửa đổi

Sự mở rộng của La Mã trong các giai đoạn từ 264 trước Công Nguyên tới 180 Công Nguyên

Người Hy Lạp và người La Mã đã để lại một di sản tại châu Âu trong ngôn ngữ, tư tưởng, luật pháp và tâm trí hiện tại. Hy Lạp cổ đại là một tập hợp các thành bang, từ đó hình thái dân chủ đầu tiên phát triển. Athena là thành phố mạnh và phát triển nhất, và một cái nôi của học thuật từ thời Pericles. Các diễn đàn công dân bàn luận và luật hóa chính sách của nhà nước, và từ đó một số nhà triết học cổ đại nổi tiếng nhất đã xuất hiện, như Socrates, Plato, và Aristotle, Aristotle là thầy học của vua Alexandros Đại Đế. Là vua của Vương quốc Macedonia tộc Hy Lạp, các chiến dịch quân sự của Alexandros Đại Đế đã đưa văn hóa và trí thức Hy Lạp tới các vùng ven Sông Ấn. Nhưng Đế chế La Mã, trở nên hùng mạnh nhờ chiến thắng trước quân Carthage trong Các cuộc chiến tranh Punic đã nổi lên trong vùng. Sự thông thái Hy Lạp đã được chuyển vào các định chế La Mã, khi chính Athena bị hấp thu vào trong Thượng viện và Nhân dân La Mã (Senatus Populusque Romanus). Người La Mã mở rộng từ Ả Rập tới xứ Britannia. Năm 44 trước Công nguyên họ đạt tới cực điểm, lãnh đạo của họ là Julius Caesar bị ám sát khi bị nghi ngờ muốn lật đổ nền Cộng hoà, để trở thành nhà độc tài. Trong cuộc hỗn loạn sau đó, Octavian chiếm quyền cai trị và mua chuộc Thượng viện La Mã. Tuy công bố tái lập nền Cộng hoà, trên thực tế ông đã biến Cộng hòa La Mã thành Đế chế La Mã.

Hy Lạp cổ đạiSửa đổi

Một bức tranh khảm thể hiện Alexandros Đại đế đánh nhau với Darius III

Nền văn minh Hy Lạp có hình thực một tập hợp các thành bang, hay poleis (các thành bang quan trọng nhất là Athena, Sparta, Thebes, Corinth, và Syracuse), với nhiều kiểu chính phủ và văn hóa khác biệt, gồm những khác biệt chưa từng có trước đó trong nhiều hình thái chính phủ, triết học, khoa học, toán học, chính trị, thể thao, sân khấu và âm nhạc. Athena, thành bang mạnh nhất, tự trị bằng một hình thức dân chủ trực tiếp đầu tiên do giới quý tộc Cleisthenes Athena lập ra. Ở nền dân chủ Athena, chính các công dân tự bỏ phiếu đề ra pháp luật và thực thi chúng. Socrates là người của thành bang này, ông được coi là một trong những người sáng lập triết học phương Tây.[14] Socrates cũng tạo ra Phương pháp Socrates, hay elenchus, một kiểu khoa giáo dục được dùng ngày nay trong việc giảng dạy triết học, theo đó một loạt câu hỏi được đặt ra không chỉ để thu thập những câu trả lời của cá nhân, mà để khuyến khích cái nhìn sâu nền tảng vào trong vấn đề cần giải quyết. Vì triết học này, Socrates bị đem ra xét xử và kết tội tử hình vì "ăn cướp tuổi trẻ" của thành Athena, bởi những bài tranh luận của ông xung đột với các đức tin tôn giáo đã được thiết lập ở thời điểm đó. Plato, một học sinh của Socrates và là người thành lập Học viện Plato, đã ghi lại thời kỳ này trong các tác phẩm của mình, và bắt đầu phát triển triết học duy nhất của riêng ông, Chủ nghĩa Plato.

Điện Parthenon, một Đền thờ nữ thần Athena cổ đại tại Acropolis (đỉnh đồi thành phố) rơi vào tay La Mã năm 176 trước Công nguyên

Các thành bang Hy Lạp đã thành lập một lượng lớn thuộc địa trên các bờ Biển Đen và Địa Trung Hải, Tiểu Á, Sicilia và phía Nam Ý tại Đại Hy Lạp (Magna Graecia). Ở Tiểu Á có Vương quốc Lydia không thực sự là của người Hy Lạp, nhưng thuộc về thế giới Hy Lạp. Vua Kroisos đã chinh phạt các phần lớn các thành phố Hy Lạp vùng ven biển, và người Lydia cũng áp dụng nhiều truyền thống văn hóa Hy Lạp.[15] Từ năm 550 TCN cho đến năm 530 TCN, có Hoàng đế Cyrus Đại Đế dấy lên, kiến lập Đế quốc Ba Tư ở phương Đông. Là một vị danh tướng trong lịch sử[16], ông ta xua quân đi vua Kroisos phồn thịnh. Xứ Sparta cũng liên minh với vua Kroisos, và quân Ba Tư ít ỏi hơn phải chống nhau với quân Lydia trong trận Thymbra vào năm 546 TCN.[17] Với chiến thuật "đánh dọc sườn" (oblique order),[18] quân Ba Tư thắng trận, hai tuần sau chiếm được kinh đô Sardis của xứ Lydia.[17] Theo Napoléon Bonaparte, đây là lần đầu tiên chiến thuật "đánh dọc sườn" được sử dụng.[19] Hoàng đế Cyrus Đại Đế cũng phải ấn tượng với nền quân sự Sparta và noi theo.[17]

Vào thế kỷ thứ 5 TCN, trong Những cuộc chiến tranh Hy Lạp-Ba Tư, các thành bang Hy Lạp đã lập một liên minh và đánh bại Đế chế Ba Tư tại Trận Plataea, đẩy lùi những cuộc xâm lược của Ba Tư. Người Hy Lạp lập ra Liên minh Delian để tiếp tục chiến đấu với người Ba Tư, nhưng vị thế lãnh đạo của Athena trong liên minh đã khiến Sparta thành lập Liên minh Peloponnesus đối trọng. Hai liên minh bắt đầu cuộc Chiến tranh Peloponnesus giành quyền lãnh đạo Hy Lạp, cuối cùng Liên minh Peloponnesus giành thắng lợi. Không bằng lòng với sự bá chủ của Sparta sau đó cuộc Chiến tranh Corinth đã nổ ra và quân Liên minh do Thebes đứng đầu chống nhau với quân Sparta tại Trận Leuctra (371 TCN). Danh tướng Epamonidas thực hiện chiến thuật "đánh dọc sườn", nhờ đó ông đánh tan tác quân Sparta.[20] Những cuộc đánh nhau trong nội bộ khiến các thành bang Hy Lạp trở thành con mồi dễ dàng cho vua xứ Macedonia là Philippos II ra tay thống nhất tất cả các thành bang Hy Lạp. Các cuộc chinh chiến con trai ông là vua Alexandros Đại đế đã đưa văn hóa Hy Lạp tới Ba Tư, Ai Cập và Ấn Độ, nhưng cũng đưa lại sự tiếp xúc với tri thức cổ của các quốc gia đó, mở ra một thời kỳ phát triển mới, được gọi là Hy Lạp Hóa. Vua Alexandros Đại Đế mất vào năm 323 trước Công Nguyên, phân chia đế chế của ông thành nhiều nền văn minh Hy Lạp Hóa.

Sự trỗi dậy của La MãSửa đổi

Cicero phát biểu trước Nghị viện La Mã tố cáo âm mưu của Catiline lật đổ nền Cộng hoà, của Cesare Maccari

Đa số tri thức Hy Lạp đã được nhà nước La Mã mới xuất hiện hấp thu khi nó mở rộng ra khỏi Ý, lợi dụng ưu thế khi kẻ thù không thể thống nhất: nguy cơ duy nhất cho sự trỗi dậy của La Mã là từ thuộc địa Phoenicia của Carthage, và sự thất bại của nó ở thế kỷ thứ 3 trước Công Nguyên đánh dấu sự khởi đầu của quyền bá chủ La Mã. Ban đầu La Mã thuộc sự cai quản của các vị vua, sau đó là một nền cộng hòa nghị viện (Cộng hòa La Mã), cuối cùng vào cuối thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên La Mã trở thành một đế chế, dưới sự cai trị của Augustus và những người kế tục độc tài của ông ta. Đế chế La Mã có trung tâm tại Biển Địa Trung Hải, kiểm soát toàn bộ các nước trên bờ biển này; biên giới phía bắc là các con sông Rhine và Danube. Dưới thời hoàng đế Trajan (thế kỷ thứ 2 Công Nguyên) đế chế ở thời điểm rộng lớn nhất, kiểm soát khoảng 5,900,000km² (2,300,000 dặm vuông) đất đai, gồm Anh, România và nhiều vùng của Mesopotamia. Đế chế mang lại hòa bình, nền văn minh và một chính phủ trung ương hiệu quả cho các vùng đất phụ thuộc, nhưng vào thế kỷ thứ 3 một loạt các cuộc nội chiến đã làm suy mòn sức mạnh kinh tế và xã hội của nó. Trong thế kỷ thứ 4, các hoàng đế Diocletian và Constantine đã làm giảm quá trình suy tàn bằng cách phân chia đế chế thành một vùng phía Tây và một vùng phía Đông. Trong khi Diocletian ngược đãi Kitô giáo, Constantine tuyên bố sự chính thức chấm dứt của sự bách hại Kitô giáo do nhà nước bảo trợ vào năm 313 với Sắc lệnh Milan, vì thế lập ra cơ sở để đế chế sau này trở thành nhà nước Kitô giáo chính thức vào khoảng năm 380 (sẽ khiến Giáo hội trở thành một định chế quan trọng).

Hậu kỳ cổ đại và Thời kỳ Di cưSửa đổi

Năm 526 châu Âu nằm dưới sự quản lý của người Goths, và năm 600 của Byzantium ở thời cực thịnh

Khi Hoàng đế Constantine I đã chinh phục La Mã dưới ngọn cờ thập giá năm 312, ngay sau đó ông ra Sắc lệnh Milan năm 313, tuyên bố hợp pháp hóa hóa Kitô giáo tại Đế chế La Mã. Ngoài ra, Constantine I còn dời đô từ Rô-ma tới thị trấn Byzantium Hy Lạp, được ông đổi tên thành Constantinopolis ("Thành phố của Constantine"). Năm 395 Theodosius I, người đã biến Kitô giáo thành tôn giáo chính thức của Đế chế La Mã, sẽ trở thành vị hoàng đế cuối cùng chỉ huy một Đế chế La Mã thống nhất, và từ đó, đế chế sẽ bị chia thành hai vùng: Đế chế Tây La Mã với trung tâm ở Ravenna, và Đế chế Đông La Mã (sau này sẽ được gọi là Đế chế Byzantine) với trung tâm tại Constantinopolis. Đế chế Tây La Mã bị các bộ lạc Giéc-manh cướp bóc tấn công liên tục (xem: Thời kỳ Di cư), và cuối cùng vào năm 476 rơi vào tay Heruli thủ lĩnh Odoacer. Quyền lực của La Mã ở phía tây hoàn toàn sụp đổ và các tỉnh phía tây nhanh chóng trở thành một miếng chắp vá của các vương quốc Giéc-manh. Tuy nhiên, thành phố Rô-ma, dưới sự lãnh đạo của Giáo hội Công giáo Rôma, vẫn là một trung tâm của học thuật, và đã làm rất nhiều để gìn giữ tư tưởng La Mã cổ đại ở Tây Âu. Cùng thời gian ấy, hoàng đế La Mã tại thành Constantinopolis, Justinian I, đã thành công trong việc hệ thống hóa toàn bộ luật La Mã vào trong Corpus Juris Civilis (529-534). Trong thế kỷ thứ 6, Đế chế Đông La Mã đã bị lôi kéo vào một loạt cuộc xung đột nguy hiểm, đầu tiên với Đế chế Sassanid của người Ba Tư (xem Các cuộc chiến tranh La Mã-Ba Tư), sau đó là sự tấn công của đế quốc Hồi giáo (dưới các triều đại Rashidun và Umayyad) đang phát triển. Tới năm 650, các tỉnh của Ai Cập, Palestine và Syria đã bị chiếm bởi các lực lượng Hồi giáo, tiếp đó bởi Hispania và phía nam Ý ở thế kỷ thứ 7 và thứ 8 (xem Các cuộc chinh phục Hồi giáo).

Ở Tây Âu, một cơ cấu chính trị xuất hiện: trong khoảng trống quyền lực sau khi La Mã sụp đổ, các tổ chức tôn giáo địa phương dựa trên sự liên kết của người dân với đất đai của họ. Thuế thập phân được trả cho chúa đất, và chúa đất có trách nhiệm trước vị hoàng thân của vùng. Thuế thập phân được sử dụng để trả cho nhà nước và các cuộc chiến tranh. Đó chính là hệ thống phong kiến, trong đó các hoàng thân và nhà vua mới xuất hiện, người mạnh nhất trong số họ là Charlemagne của người Frank. Năm 800, vua Charlemagne, trở nên hùng mạnh bởi các cuộc chinh phục lãnh thổ rộng lớn của mình, được phong làm Hoàng đế La Mã (Imperator Romanorum) bởi Giáo hoàng Leo III, củng cố vững chắc quyền lực của ông tại Tây Âu. Sự cai trị của Charlemagne đánh dấu sự khởi đầu của một Đế chế La Mã mới của dân tộc Đức ở phía Tây, Đế quốc La Mã Thần thánh. Bên ngoài các biên giới của ông, các lực lượng khác đang tập hợp. Kievan Rus' đang vạch rõ lãnh thổ của họ, một Đại Moravia đang phát triển, trong khi người Angles và Sachsen đang phòng giữ các biên giới của họ.

Sự suy tàn của Đế chế La MãSửa đổi

Romulus Augustus đầu hàng người Giéc-manh năm 476

Đế chế La Mã đã nhiều lần bị các đội quân xâm lược từ Bắc Âu tấn công và cuối cùng vào năm 476, thành Rô-ma sụp đổ. Romulus Augustus, vị Hoàng đế cuối cùng của Đế chế Tây La Mã đầu hàng vua người Giéc-manh Odoacer. Nhà sử học Anh Edward Gibbon viết trong cuốn Sự suy tàn và Sụp đổ của Đế chế La Mã (1776) của ông rằng người La Mã đã trở nên suy đồi, họ đã đánh mất đạo đức dân sự. Gibbon nói rằng sự chấp nhận Kitô giáo, có nghĩa là đức tin vào một cuộc sống tốt đẹp hơn sau khi chết, và vì đó khiến con người trở nên lười biếng và tránh xa hiện thực. Glen W. Bowersock đã viết "Từ thế kỷ mười tám trở về sau",[21] "chúng ta đã ám ảnh với sự sụp đổ: nó đã được đánh giá như một nguyên mẫu cho mọi sự suy tàn có nhận thức, và, vì thế, như một biểu tượng cho những nỗi sợ hãi của riêng chúng ta." Nó vẫn còn là một trong những vấn đề lịch sử lớn nhất, và rất đáng chú ý với giới học giả.

Một số thời điểm đáng chú ý khác là Trận Adrianople năm 378, cái chết của Theodosius I năm 395 (lần cuối cùng Đế chế La Mã còn thống nhất về chính trị), cuộc vượt sông Rhine năm 406 của các bộ lạc Giéc-manh sau sự rút lui của các quân đoàn La Mã để bảo vệ đất Ý chống lại Alaric I, cái chết của Stilicho năm 408, tiếp theo là sự tan rã của các quân đoàn phía tây, cái chết của Justinian I, Hoàng đế La Mã cuối cùng tìm cách tái chinh phục phương Tây, năm 565, và sự xuất hiện của Hồi giáo sau năm 632. Nhiều học giả cho rằng còn hơn cả một sự "sụp đổ", những thay đổi có thể được miêu tả chính xác hơn như một sự chuyển tiếp phức tạp.[22] Cùng với thời gian nhiều lý thuyết đã được đề ra về nguyên nhân Đế chế sụp đổ.

Cách mạng tháng Mười Nga và sự ảnh hưởng của nó đối với cách mạng Việt Nam

1. Giá tr lch s ca Cách mng tháng Mười Nga
Cách mạng tháng Mười Nga nổ ra cách đây đã hơn 100 năm, nhưng nhân loại yêu chuộng hòa bình trên thế giới hiện nay không bao giờ quên được ý nghĩa và mục đích to lớn của nó. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu, hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái đất đứng lên tự giải phóng...
Ngày 25 tháng 10 năm 1917, theo lịch cũ của nước Nga (tức ngày 7/11/1917) đã ghi nhận ngày thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa vĩ đại đầu tiên ở nước Nga (được gọi là Cách mạng tháng Mười). Cách mạng tháng Mười được đánh dấu là một sự kiện vĩ đại nhất của thế kỷ XX, đánh dấu cột mộc mới trong lịch sử phát triển của nhân loại; đánh dấu sự ra đời của một thời đại mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
Với thắng lợi của Cách mạng tháng Mười, lần đầu tiên trong lịch sử, chủ nghĩa xã hội từ ước mơ, lý tưởng ngàn đời của nhân dân lao động bị áp bức, bóc lột, từ lý luận khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân trở thành hiện thực trên đất nước Nga Xô viết. Sau thắng lợi đó, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Liên bang Xô Viết ra đời (gọi tắt là Liên Xô), bắt tay vào xây dựng chế độ xã hội mà ở đó giai cấp công nhân và nhân dân lao động là người làm chủ xã hội.
Lịch sử cũng ghi nhân sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa tư bản đã đem lại bước tiến mới, tiến bộ trên các lĩnh vực khoa học - công nghệ, kinh tế - xã hội cả ở trình độ và quy mô phát triển so với các xã hội trước đó. Tuy nhiên, xét đến cùng bản chất những giá trị đó không thể thoát khỏi bản chất của xã hội có giai cấp, có áp bức, bóc lột, bất công. Những lợi ích đó chỉ phục vụ cho một thiểu số giai cấp, còn đại bộ phận nhân dân lao động vẫn khổ cực. Dân chủ trong xã hội tư bản chỉ là hình thức. Các dân tộc lạc hậu trên thế giới vẫn là mồi ngon cho chủ nghĩa tư bản. Vì vậy, nhân loại vẫn muốn xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn.
Sau ngày cách mạng thành công, chính quyền Liên bang Xô Viết đã ra sắc luật xoá bỏ phân biệt đẳng cấp, chức vị, dân tộc chỉ còn một tên chung công dân của Nhà nước Xô Viết. Đầu tháng 1 năm 1918, chính quyền Liên bang Xô Viết đã ban hành sắc luật khẳng định: mục tiêu của nhà nước là xoá bỏ chế độ người bóc lột người, xoá bỏ giai cấp, đem lại quyền bình đẳng cho toàn nhân dân. Vậy từ một nước phong kiến lạc hậu và trì trệ, Liên Xô đã vươn lên thành siêu cường thứ hai trên thế giới. Lịch sử ghi nhận để trở thành một nước công nghiệp, nước Anh cần 200 năm; nước Mỹ cần 120 năm; nước Nhật Bản mất 40 năm. Trong khi đó Liên Xô chỉ cần 18 năm đã hoàn thành về cơ bản quá trình công nghiệp hóa, đây là quá trình công nghiệp hóa nhanh nhất trong lịch sử nhân loại.
Nếu không có những chính sách công nghiệp hoá đúng đắn, thì Liên Xô không thể duy trì được nền độc lập chính trị và kinh tế của đất nước, không thể chiến thắng trong chiến tranh thế giới thứ hai. Trên các lĩnh vực văn hoá, xã hội Liên Xô cũng nhanh chóng vươn lên trở thành cường quốc tạo nên những giá trị ưu việt mà không phải quốc gia tư bản nào cũng sánh được. Trước Cách mạng tháng Mười, 2/3 dân số Nga mù chữ. Cuối năm 1980, Liên Xô là một trong những nước có trình độ học vấn cao nhất thế giới với 164 triệu người có trình độ trung học và đại học. Số lượng các nhà khoa học trên các lĩnh vực cũng đứng tốp đầu thế giới. Liên Xô của những thập niên 70 là nước dẫn đầu thế giới ở một số lĩnh vực như: khoa học vũ trụ, luyện kim,... Trong lĩnh vực chinh phục vũ trụ Liên Xô đã có những bước phát triển vượt bậc, mở màn cho kỷ nguyên thám hiểm vũ trụ của xã hội loài người. Năm 1957, Liên Xô là nước phóng thành công vệ tinh nhân tạo vào vũ trụ. Năm 1961, Liên Xô là nước đầu tiên đưa người vào vũ trụ, mở ra kỷ nguyên mới, kỷ nguyên chinh phục vũ trụ. Năm 1959, Liên Xô thử thành công bom nguyên tử, phá vỡ thế độc quyền của Mỹ, trở thành một trong hai cường quốc có sức mạnh quốc phòng to lớn, là cột trụ trong việc ngăn chặn thảm họa phát xít, bảo vệ hoà bình thế giới.
Liên Xô bảo đảm cho quần chúng công nông được hưởng quyền chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, sức khoẻ và rất nhiều quyền khác của con người. Liên Xô là nước đầu tiên trên thế giới quy định ngày làm việc 8 giờ, người lao động được nghỉ một tháng trong năm và vẫn được hưởng lương bình thường. Người dân được đưa đến nơi làm việc bằng phương tiện công cộng, được miễn học phí ở các cấp học cho tới đại học. Người dân được khám phá chữa bệnh miễn phí hoàn toàn....
Những thành quả của Cách mạng tháng Mười và các giá trị xã hội ưu việt do Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa đã mang lại đã những tác động sâu sắc đến tiến trình phát triển của nhân loại. Buộc chủ nghĩa tư bản phải tự điều chỉnh, tô vẽ lại bộ mặt của mình theo hướng nhân văn, tiến bộ hơn. Thành quả của cách mạng tháng Mười, đã góp phần ngăn chặn cuộc chiến tranh tàn ác của chủ nghĩa đế quốc, giảm bớt sự hy sinh cho nhân loại. Vì mục tiêu hòa bình, Đảng Cộng sản và Nhà nước Xô Viết đã động viên và lãnh đạo nhân dân Liên Xô liên minh với nhân dân thế giới tiến hành cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại, bảo vệ chủ nghĩa xã hội, bảo vệ hòa bình thế giới, cứu nhân loại thoát khỏi thảm hoạ phát xít. Trong cuộc chiến tranh thế giới thứ hai nhân dân Liên Xô đã hy sinh hơn 2 triệu người con ưu tú cho nền độc lập, hòa bình.
Dưới ánh sáng soi đường của Cách mạng Tháng Mười và nhà nước Xô Viết, những năm 1945 đến 1970 phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc nổ ra mạnh mẽ ở các châu lục hơn 100 quốc gia trên thế giới, 70% dân số thế giới đã thoát khỏi ách thực dân, đế quốc. Một số quốc gia sau khi giành được độc lập dân tộc đã chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Tiếng súng đại bác của chiếc tàu Rạng Đông báo hiệu một giai đoạn mới trong lịch sử của loài người nói chung và của các dân tộc bị áp bức nói riêng... Cách mạng tháng Mười đã giáng một đòn sấm sét vào chủ nghĩa đế quốc và đẩy mạnh làn sóng dân tộc ở Châu Á, Châu Phi ”. Thực tiễn lịch sử đã và đang chứng minh hơn một thế kỷ qua những giá trị của Cách mạng tháng Mười Nga vẫn luôn toả sáng, những giá trị tích cực đó luôn được nhân dân yêu chuộng hòa bình, tiến bộ gìn giữ, bảo vệ và phát triển.
2. S nh hưởng sâu sc ca Cách mng tháng Mười đi vi cách mng Vit Nam
Bôn ba tìm đường cứu nước, đến tháng 7 năm 1920 Nguyễn Ái Quốc đã đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa. Từ đó, Người xác định cách mạng Việt Nam phải đi theo Cách mạng tháng Mười Nga. Cũng từ thực tiễn của cuộc cách mạng đó, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã đúc kết những bài học quý báu của cách mạng Việt Nam trong cách mạng giải phóng dân tộc. Theo Người, Cách mạng Tháng Mười dạy cho chúng ta rằng: muốn cách mệnh thành công thì phải có quần chúng công, nông làm gốc, phải có đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Cách mạng Tháng Mười đã thúc đẩy phòng trào giải phóng dân tộc, làm cho nó trở thành làn sóng mãnh liệt trong tất cả các nước phương Đông: Trung Quốc, Ấn Độ, Nam Dương, Việt Nam”. Với cách mạng Việt Nam, Cách mạng Tháng Mười đã cổ vũ nhân dân Việt Nam đứng lên đấu tranh giải phóng dân tộc, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà năm 1945, cũng từ đây, tinh thần đoàn kết hữu nghị đặc biệt giữa hai nước Việt Nam - Liên Xô nảy nở và không ngừng được củng cố và phát triển.
Với tinh thần quốc tế vô sản cao cả, Liên Xô đã luôn ủng hộ cuộc cách mạng giành độc lập dân tộc của nhân dân Việt Nam trên mọi mặt trận. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Đảng, Nhà nước ta và Nhân dân ta đã nhận được sự giúp đỡ, ủng hộ to lớn về nhiều mặt, nhất là trong các lĩnh vực về quốc phòng – an ninh, khoa học – kỹ thuật, y tế, giáo dục. Những bài học kinh nghiệm chủ yếu của Cách mang tháng mười Nga về vai trò lãnh đạo của giai cấp vô sản; về xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân; về xây dựng củng cố khối liên minh công nông; về phương pháp bạo lực cách mạng... luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng một cách sáng tạo trong thực tiễn cách mạng.
Hiện nay, lợi dụng sự sụp đổ, tan rã của chế độ xã hội chủ nghĩa của Liên Xô và Đông Âu, các thế lực thù địch tăng cường xuyên tạc, phủ nhận giá trị và ý nghĩa của Cách mạng tháng Mười Nga; của chủ nghĩa hiện thực; của chủ nghĩa Mác - Lênin. Chúng cho rằng Cuộc cách mạng tháng Mười là ý muốn ngông cuồng của Lênin và Đảng Bôn -Sê -Vích Nga, theo đó Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa là quái thai của chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa Mác - Lênin cũng chỉ là một học thuyết mới của chủ nghĩa xã hội không tưởng mà thôi. Tất cả các luận điểm đó đều là sai lầm phản khoa học, nhằm chống phá, thủ tiêu và hạ bệ chủ nghĩa Mác - Lênin.
Nhận thức sâu sắc những nguyên nhân và bài học sau các sự kiện chính trị xảy ra ở Liên Xô và các nước Đông Âu, Đảng Cộng sản Việt Nam đã kiên quyết khắc phục những sai lầm, thiếu sót trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đi theo con đường Cách mạng Tháng Mười, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và chủ tịch Hồ Chí Minh, sự nghiệp cách mạng Việt Nam 90 năm qua đã giành được những thắng lợi to lớn, mang tính bước ngoặt lịch sử.
Tóm lại, đối với chúng ta và nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới cuộc cách mạng Tháng Mườilà sự kiện vĩ đại nhất của thế kỷ XX, đánh dấu cột mốc trong lịch sử phát triển của nhân loại hơn một thế kỷ qua. Đó là, bản anh hùng ca của những ai tha thiết với số phận các dân tộc bị áp bức, những nô lệ lầm than trên trái đất, của hòa bình và tiến bộ xã hội. Lý tưởng và giá trị tốt đẹp của Cách mạng Tháng Mười đem lại vẫn tiếp tục dẫn đường cho nhân loại bước tới tương lai./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
  1. Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, NXB LLCT – Hà Nội – 2015
  2. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 12 NXB CTQG, Hà Nội - 2002
  3. https://vi.wikipedia.org
Th.S Văn Thị Hồng - Khoa LLCT-TLGD
Xem tin theo ngày: