So sánh phương pháp tính chi phí theo quá trình và phương pháp tính chi phí theo công việc.
Phương pháp này thường được vận dụng trong các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm theo quy trình công nghệ sản xuất liên tục hoặc song song qua nhiều bước chế biến. Sản phẩm được tập hợp chi phí theo quá trình sản xuất qua phân xưởng, đội, tổ...thường có đặc điểm sau: Show
Trong phương pháp tập hợp chi phí theo quá trình sản xuất, người ta không xác định chi phí cho từng lô sản phẩm cụ thể nào, thay vào đó, chi phí sản cuất được tập hợp theo từng công đoạn hoặc từng phân xưởng sản xuất khác nhau của doanh nghiệp Quá trình sản xuất ở các doanh nghiệp thường được tổ chức theo một trong hai quy trình công nghệ: quy trình sản xuất liên tục và quy trình sản xuất song song. * Quy trình sản xuất liên tục:Với quá trình sản xuất liên tục, hoạt động sản xuất diễn ra ở các phân xưởng, nguyên vật liệu chính là đầu vào của phân xưởng đầu tiên, sau đó chuyển sang phân xưởng 2 và cứ thế cho tới phân xưởng cuối cùng ra thành phẩm kết quả của quá trình sản xuất. Quy trình công nghệ sản xuất liên tục thường được vận dụng ở các doanh nghiệp dệt - may, sản xuất xi măng, thép, đồ hộp... * Quy trình sản xuất song song:Với quy trình sản xuất song song, quá trình sản xuất diễn ra đồng thời tại các phân xưởng tạo ra các chi tiết của sản phẩm, sau đó mới lắp ráp ở phân xưởng cuối cùng tạo ra thành phẩm. Phương pháp xác định chi phí theo quá trình sản xuất song song thường phù hợp với các ngành chế tạo ô tô, xe máy, thiết bị điện, xe đạp... Việc tính giá thành sản phẩm của các chi tiết góp phần tăng cường công tác hạch toán nội bộ 2. Nội dung xác định chi phí sản xuất sản phẩm theo quá trình sản xuấtQuá trình tập hợp chi phí sản xuất theo quá trình sản xuất liên tục, sản phẩm từ phân xưởng khác và cho tới phân xưởng xuối cùng mới tạo ra thành phẩm Từ sơ đồ hạch toán này ta rút ra một số điều cầu chú ý sau:
Phương pháp xác định chi phí theo quá trình sản xuất cũng sử dụng các tài khoản "Chi phí nguyên vật liệu", "Chi phí nhân công trực tiếp" và "Chi phí sản xuất chung" để phản ánh chi phí sản xuất. Ngoài ra, từng phân xưởng sản xuất hoặc công đoạn sản xuất có một tài khoản "Sản phẩm dở dang" riêng để tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm hoàn thành của phân xưởng đó. Thành phẩm hoàn thành của phân xưởng cuối cùng, chuyển vào kho thành phẩm chờ tiêu thụ, sẽ được phản ánh qua tài khoản "Thành phẩm". Giá vốn của thành phẩm tiêu thụ được phản ánh vào tài khoản "Giá vốn hàng bán". Phương pháp kế toán đơn giản nhất đối với chi phí sản xuất chung xác định chi phí theo quá trình sản xuất là hạch toán theo chi phí sản xuất chung thực tế phát sinh, thay vì chi phí sản xuất chung ước tính như ở phương pháp xác định chi phí theo công việc. Do chi phí sản xuất chung được hạch toán ngay vào tài khoản "Sản phẩm dở dang" của các phân xưởng sản xuất khi chung phát sinh nên tài khoản "Chi phí sản xuất chung" không cí siis dư như phương pháp xác định chi phí theo công việc. Tuy nhiên, cách làm này được thực hiện khi sản lượng sản phẩm sản xuất ổn định từ kỳ này qua kỳ khác và chi phí sản xuất chung thực tế phát sinh đều đặn không có biến động giữa các kỳ. Nếu sản lượng sản xuất không ổn định và chi phí sản xuất chung biến động giữa các kỳ thì ta có thể phân bổ chi phí theo công việc, nghĩa là mỗi phân xưởng sản xuất phải xác đinhỵ đơn giá phân vổ chi phí sản xuất chung tiêng để phân bổ cho sản phẩm phân xưởng. Khi quá trình sản xuất đã hoàn thành trong phân xưởng, thành phẩm của phân xưởng đó sẽ được chuyển sang phân xưởng kế tiếp. Quá trình lưu chuyển sản phẩm giữa các phân xưởng cứ thế tiếp tục cho đến phân xưởng cuối cùng. Thành phẩm của phân xưởng cuối cùng là thành phẩm của doanh ghiệp do đó được chuyển vào kho chờ tiêu thụ. Khi thành phẩm trong kho được đem bán cho khách hàng, giá vốn của hàng đem ván được phản ánh vào " Giá vốn hàng bán" Tóm lại:Quá trình phản ánh vào các tài khoản của phương pháp xác định chi phí theo công việc và xác định chi phí theo quá trình sản xuất về cơ bản giống nhau, chỉ khác nhau ở hai điểm:
Bài tiếp theo: "Phương pháp xác định chi phí sản xuất sản phẩm hiện đại"
Phương pháp xác định chi phí sản xuất sản phẩm theo công việc thường được vận dụng tại các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh sản phẩm dịch vụ theo đơn đặt hàng, quy trình công nghệ sản xuất khép kín. Để áp dụng phương pháp này thì sản phẩm thường có những đặc điểm sau
Tóm lại, phương pháp xác định chi phí theo công việc được áp dụng cho những sản phẩm được thực hiện theo đơn đặt hàng và theo yêu cầu của từng khách hàng riêng biệt. Sản phẩm dễ nhận diện, có giá trị caio và cí kích thước lớn. Phương pháp này thường áp dụng trong các doanh nghiệp xây dựng, sản phẩm là các công trình, hạng mục công trình, hạng mục công trình, các doanh nghiệp thiết kế, khảo sát, dịch vụ sửa chữa ô tô... 2. Nội dung và quá trình tập hợp chi phí sản xuất sản phẩm theo công việcĐể tập hợp chính xác và đúng đối tượng chi phí theo công việc, kế kế toán cầ phải nắm chắc được trình tự công việc phải thực hiện:
Quá trình tập hợp chi phí sản xuất theo đơn đặt hàng thường được tiến hành theo sơ đồ sau: Thông thường mỗi sản phẩm gồm ba khoản mục chi phí sản xuất chủ yếu sau:
Theo phương pháp tập hợp chi phí theo công việc đối tượng được tập hợp chi phí là sản phẩm hay đơn đặt hàng của khách. Từ các chứng từ kế toán chi phí, kế toán tập hợp theo các đối tượng sản phẩm hay đơn đặt hàng. Theo mô hình này, chi phí nguyên vật liệu được xác định trên cơ sở phiếu xuất kho nguyên vật liệu sử dụng trực tiếp không qua nhập kho. Chi phí nhân công trực tiếp, được xác định dựa trên bảng chấm công của công nhân hoặc phiếu giao nhận sản phẩm, hợp đồng giao khoán công việc. Chi phí sản xuất chung được xác định theo mức phân bổ dự toán, mức phân bổ chi phí sản xuất chung thường được xác định như sau: Mức phân bổ chi phí sản xuất chung ước tính cho đơn hàng 1:
Mức độ hoạt động ước tính tuỳ thuộc vào đặc điểm kinh doanh của từng doanh nghieeph để luwacj chọn, có thể là số giờ lao động trực tiếp của công nhân, chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp... Tất cả các chi phí sản xuất được tập hợp vào phiếu chi công việc hoạc đơn đặt hàng là một chứng từ chi tiết dùng để tổng hợp các chi phí sản xuất phát sinh khi đơn đặt hàng được thực hiện. Phiếu tập hợp chi phí sẽ được lưu tại phân xưởng sản xuất trong quá trình sản xuất, sau đó là căn cứ để tính tổng giá thành sản phẩm, dịch vụ hoàn thành trong kỳ. Thông thường phiếu tập hợp chi phí theo công việc thường có mẫu sau: Phiếu xuất kho nguyên vật liệu ;à căn cứ để tập hợp chi phí vật liệu chính, phụ cho từng đơn đặt hàng. Phiếu theo dõi lao động, giao nhận sản phẩm, hợp đồng giao khoán công việc là căn cứ để xác định chi phí nhân công trực tiếp cho từng đơn đặt hàng. Mức phân bổ ước tính của chi phí nhân công trực tiếp cho từng đơn đặt hàng. Mức phân bổ ước tính của chi phí sản xuất chung. Chi phí sản xuất chung thường là các khoản chi phí hỗn hợp vừa mang tính chất định phí, vừa mang tính chất biến phí và phát sinh từ khi phân xưởng bước vào sản xuất cho tới khi phân xưởng kết thúc quá trình sản xuất. Do vậy xác định chi phia sản xuất chung cho một đơn vị sản phẩm khó chính xác trong giai đoạn đầu tiên vì thế ta thường phân bổ theo chi phí sản xuất chung ước tính sau đó điều chỉnh.
3. Quá trình phản ánh chi phí sản xuất vào sổ sách:Cùng với sự vận động của chúng từ và việc tập hợp chi phí vào phiếu chi phí của từng đơn hàng độc lập, chi phí còn được bộ phận kế toán phản ánh vào các tài khoản liên quan. Sơ đồ hạch toán chi phí vào phiếu chi phí của từng đơn đặt hàng độc lập, chi phí còn được bộ phận kế toán phản ánh vào các tài khoản liên quan. Sơ đồ hạch toán chi phí theo công việc được trình bày (sơ đồ 3.2). Phương pháp tập hợp chi phí theo công việc sử dụng các tài khoản sau đây để phản ánh chi phí sản xuất từ khi phát sinh cho đến khi hoàn thành:
Về nguyên tắc, chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và mức phân bổ chi phí sản xuất chung được hạch toán vào tài khoản: Sản phẩm dở dang. Đồng thời các khoản chi phí này cũng được phán ánh vào các phiếu chi phí công việc tương ứng. Song song với quá trình vận động của chi phí qua các tài khoảnchữ T là sự vận động của các phiếu chi phí công việc tương ứng quá các khâu sản xuất và tiêu thị. Bên nợ TK chi phí sản xuất chung phản ánh chi phí thực tế phát sinh gồm chi phí nhân viên phân xưởng, chi phí vật liệu, công cụ, dụng cụ, chi phí khấu hao TSCĐ, dịch vụ mua ngoài...dùng trong phân xưởng... Bên có TK chi phí sản xuất chung phản ánh chi phí sản xuất chung được phân bổ đầu kỳ theo chi phí ước tính. Mức phân bổ là mức ước tính dựa trên tổng chi phí sản xuất chung với mức hoạt động của đối tượng cần phân bổ. Do bên Nợ là số thực tế, bên Có là số phân bổ ước tính, nên bên Nợ và Có của tài khoản chi phí sản xuất chung thường có chênh lệch vào lúc kết chuyển cuối kỳ. nếu hai bên Nợ, Có của TK chi phí sản xuất chung bằng nhau thì chỉ là trường hợp ngẫu nhiên. Nếu bên Nợ > bên có, chi phí sản xuất chung thực tế nhiều hơn chi phí sản xuất chung ước tính phân bổ, ta có số dư Nợ là mức phân bổ thiếu. Ngược lại, nếu bên Có > bên Nợ thì chi phí sản xuất chung trong kỳ đã bị phân bổ thừa ta có số dư phân bổ thừa. Cách giải quyết các mức phân bổ thừa và thiếu của chi phí sản xuất chung là:
Khi công việc hoàn thành, thành phần từ khâu sản xuất được chuyển qua kho chứa thành phẩm. Khi thành phẩm đem giao cho khách hàng, giá trị của thành phẩm được chuyển từ khâu thành phẩm qua khâu tiêu thụ.
|