So sánh chương trình Tiếng Việt lớp 2 mới với chương trình hiện hành

Phân tích chương trình tiếng việt lớp2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.12 KB, 17 trang )

PHÂN TÍCH CHƯƠNG TRÌNH
TIẾNG VIỆT LỚP 2
I. MỤC TIÊU CỦA MÔN TIẾNG VIỆT
Môn Tiếng Việt ở trường tiểu học nhằm:
 Hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng tiếng Việt (nghe,
nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của
lứa tuổi.
Thông qua việc dạy và học tiếng Việt, góp phần rèn luyện các thao tác tư
duy.
 Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về tiếng Việt và những
hiểu biết sơ giản về xã hội, tự nhiên và con người, văn hóa, văn học của
Việt Nam và nước ngoài.
 Bồi dưỡng tình yêu tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong
sáng, giàu đẹp của tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người
“Việt Nam xã hội chủ nghĩa.”
Ở lớp 2, mục tiêu nói trên được cụ thể hóa thành những yêu cầu về kiến thức
và kĩ năng đối với học sinh như sau:
 Đọc
• Đọc đúng và trôi chảy một đoạn văn, đoạn đối thoại hoặc một bài văn
ngắn; bước đầu biết đọc thầm.
• Hiểu được ý chính của đoạn văn.
• Biết dùng mục lục sách giáo khoa (SGK) khi đọc.
• Thuộc lòng một số bài văn vần trong SGK.
 Viết
• Biết viết chữ hoa cỡ vừa, cỡ nhỏ; viết đúng và điều nét các tiếng, từ, câu.
• Viết đúng chính tả các cặp từ có vần khó hoặc dễ lẫn phụ âm đầu, phụ âm
cuối hay dấu thanh do cách phát âm địa phương; bước đầu biết cách viết
hoa tên người, tên địa lí Việt Nam; viết đùng chính tả một đoạn văn hoặc
một bài văn trên dưới 50 chữ (tiếng) với hai hình thức tập chép và nghe
viết.
• Viết được những đoạn văn, những bức thư ngắn.


 Nghe
• Nghe – hiểu và trả lời được câu hỏi của người đối thoại; biết dùng câu hỏi
để hỏi lại người đối thoại nhằm hiểu rõ yêu cầu của họ; có thái độ lịch sự
khi nghe người khác nói.
1


• Nghe – hiểu những văn bản có độ dài thích hợp và nội dung gần gũi với
HS lớp 2
 Nói
• Nói thành câu, nói rõ ràng, mạch lạc.
• Bước đầu biết chào hỏi, cảm ơn, xin lỗi, chia tay, mời, nhờ, yêu cầu, chia
vui, chia buồn…đúng ngữ điệu và đúng nghi thức khi giao tiếp ở gia đình,
trường học hoặc nơi công cộng.
• Biết giới thiệu đơn giản về bản thân, gia đình, lớp học, bạn bè theo mục
đích nhất định.
• Kể lại được một đoạn truyện đã nghe, đã đọc.
 Kiến thức tiếng Việt và văn học (chỉ làm quen và nhận biết thông qua các
bài thực hành kĩ năng)
• Ngữ âm và chữ viết
- Nắm được một số quy tắc chính tả.
- Nhớ được bảng chữ cái.
• Từ vựng
Học thêm khoảng 300 – 350 từ ngữ, trong đó có một số thành ngữ, tục
ngữ và một số từ Hán Việt thong dụng.
• c. Ngữ pháp
- Nhận biết các từ chỉ người, vật, hành động, tính chất.
- Nắm được cách đặt một số kiểu câu trần thuật đơn và cách dùng các
dấu chấm, phẩy, chấm hỏi, chấm than.
• Văn học

- Biết phân biệt văn xuôi, văn vần.
- Nhận biết các nhân vật trong truyện.
- Nhận biết đoạn văn, khổ thơ.
II. CẤU TRÚC CHƯƠNG TRÌNH TIẾNG VIỆT
Sách bao gồm 15 đơn vị học, mỗi đơn vị gắn với một chủ điểm, học trong hai
tuần (riêng chủ điểm nhân dân học 3 tuần)

1. Tập đọc
a) Hệ thống chủ điểm trong Tiếng Việt 2
– Tập 1 (8 chủ điểm): Em là học sinh (tuần 1,2) – Bạn bè (tuần 3,4) –
Trường học(tuần 5,6) – Thầy cô(tuần 7,8) – Ông bà(tuần 10,11) – Cha
mẹ (tuần 12,13) - Anh em (tuần 14,15) – Bạn trong nhà(tuần 16,17), (tập
trung vào các mảng: Học sinh – Nhà trường – Gia đình).
– Tuần 9 dành để ôn tập giữa học kì 1; tuần 18 ôn tập cuối học kì 1.
– Tập 2 (7 chủ điểm): Bốn mùa(tuần 19,20) – Chim chóc (tuần 21,22) –
Muông thú (tuần 23,24) – Sông biển (tuần 25,26) – Cây cối (tuần 28,29)
2


– Bác Hồ(tuần 30,31) – Nhân dân (tuần 32,33,34), (tập trung vào các
mảng: Thiên nhiên – Đất nước).
– Tuần 27 dành để ôn tập giữa học kì 2; tuần 35 ôn tập cuối học kì 2
b) Sự phân bố các bài Tập đọc ở mỗi đơn vị học
– Tuần thứ nhất: 1 truyện kể (2 tiết), 1 văn bản thông thường (1 tiết), 1 văn
bản thơ (1 tiết).
– Tuần thứ hai: 1 truyện kể (1 tiết), 1 văn bản miêu tả (1 tiết), 1 truyện vui
(1 tiết). (Văn bản truyện kể có độ dài khoảng 100 – 250 chữ, các văn bản
khác có độ dài khoảng 100- 120 chữ).
c) Số lượng bài và thời lượng học
– Trung bình mỗi tuần học sinh được học ba bài tập đọc, trong đó có một

bài học 2 tiết, hai bài còn lại – mỗi bài học 1 tiết.
– Như vậy tính cả năm, học sinh được học 93 bài tập đọc với 124 tiết: Học
kì 1 là 48 bài, 64 tiết; Học kì 2 là 45 bài, 60 tiết.
d) Các loại bài tập đọc
– Văn bản văn học: Văn xuôi và thơ. Trung bình, trong mỗi chủ điểm (2
tuần), học sinh được học một truyện vui (học kì 1), những câu chuyện
này vừa để giải trí vừa có tác dụng rèn tư duy và phong cách sống vui
tươi, lạc quan cho các em.
– Văn bản khác: Văn bản khoa học, báo chí, hành chính (tự thuật, thời
khóa biểu, thời gian biểu, mục lục sách,…). Thông qua những văn bản
này, SGK cung cấp cho các em một số kiến thức và kĩ năng cần thiết
trong đời sống, bước đầu xác lập mối quan hệ giữa học với hành, giữa
nhà trường và xã hội.

2. Kể chuyện
Trong hai học kì, HS được học 31 tiết kể chuyện. Mỗi tuần HS được học
1 tiết kể chuyện. Cụ thể ở học kì 1 là 16 tiết, học kì 2 là 15 tiết.

3. Chính tả
Học sinh được học tất cả 62 tiết Chính tả trong cả năm học: học kì 1 là
32 tiết, học kì 2 là 30 tiết. Mỗi tuần HS được học 2 tiết chính tả.

4. Tập viết
Mỗi tuần có một bài tập viết, học trong một tiết. Trong cả năm học học sinh
được học 31 tiết tập viết.
– Nội dung và yêu cầu tập viết trong tiết học luôn bám sát nội dung bài
học ở SGK Tiếng Việt 2 (Viết chữ hoa – Viết ứng dụng). Theo đó, trong
cả năm học, học sinh sẽ được học toàn bộ bảng chữ cái viết hoa do Bộ
Giáo dục và Đào tạo mới ban hành (gồm 29 chữ cái viết hoa theo kiểu 1
và 5 chữ cái viết hoa theo kiểu 2), cụ thể:


3


+ 26 chữ cái viết hoa (kiểu 1 và kiểu 2) được dạy trong 26 tuần (mỗi
tuần 1 tiết, mỗi tiết dạy 1 chữ cái viết hoa theo thứ tự bảng chữ cái
tiếng Việt).
+ 8 chữ cái viết hoa (kiểu 1) được dạy trong 4 tuần (mỗi tuần 1 tiết,
mỗi tiết dạy 2 chữ cái viết hoa có hình dạng gần giống nhau: A –
Ă – Â, E – Ê, Ô – Ơ, U – Ư).
+ Cuối năm học (tuần 34), chương trình Tập viết lớp 2 dành 1 tiết để
ôn các chữ hoa theo kiểu 2. Bốn tuần Ôn tập và Kiểm tra định kì
không có tiết dạy Tập viết trên lớp nhưng trong vở Tập viết 2 đều
có nội dung ôn luyện ở nhà để học sinh có cơ hội rèn kĩ năng viết
chữ.

5. Luyện từ và câu
Trong cả năm học, học sinh được học 31 tiết Luyện từ và câu: 16 tiết ở
học kì 1 và 15 tiết ở học kì 2. Mỗi tuần HS được học 1 tiết Luyện từ và câu.

6. Tập làm văn
Cả năm học, học sinh được học 31 tiết Tập làm văn. Trong đó, học kì 1
là 16 tiết, học kì 2 là 15 tiết (mỗi tuần học 1 tiết).
III.

NỘI DUNG TỪNG PHÂN MÔN

1. Kiến thức và kĩ năng
a. Tập đọc
∗ Kiến thức:

− Nắm bảng chữ cái.
− Hiểu nghĩa các từ mới.
− Nắm nội dung, ý chính của đoạn văn bản, bài thơ ngắn, một số văn bản
thông thường.
− Bồi dưỡng vốn văn học ban đầu, mở rộng hiểu biết về cuộc sống.
∗ Kĩ năng:
− Đọc trơn từ, câu, bài văn, đoặn văn, bài thơ ngắn có nội dung đơn giản,
đọc lời hội thoại, văn bản thông thường.
− Đọc thầm.
− Đọc thuộc một số đoạn văn hoặc bài thơ ngắn.
− Đọc diễn cảm.
− Hình thành một số kĩ năng phục vụ cho đời sống và việc học tập của bản
thân.
− Rèn luyện một số thao tác tư duy cơ bản (phân tích, tổng hợp,…)
b. Chính tả
∗ Kiến thức:
− Biết phân biệt khi nào dùng các chữ mở đầu bằng c/k, g/gh, ng/ngh.
4


− Biết viết hoa chữ cái đầu câu, viết hoa tên người, địa lí Việt Nam.
− Biết phân biệt một số cặp từ dễ nhầm lẫn âm đầu(l/n, s/x,d/gi/r), vần

(an/ang, iu/iêu, ưu/ươu), thanh (hỏi, ngã).
∗ Kĩ năng:
− Viết đúng các từ có vần khó.
− Viết nhanh đạt tốc độ khoảng 50 chữ/15 phút.
− Trình bày sạch sẽ.
c. Luyện từ và câu
∗ Kiến thức:

− Nhận biết các từ ngữ chỉ sự vật, hoạt động, đặc điểm, tính chất.
− Nhận biết câu trong đoạn.
− Nhận biết kiểu câu kể, câu hỏi.
− Biết cách dùng dấu chấm, dấu chấm hỏi, dấu chấm than, dấu phẩy.
− Biết các từ ngữ chỉ sự vật, hành động, tính chất thông thường; một số
thành ngữ, tục ngữ dễ hiểu.
− Nhận biết các từ ngữ có quan hệ đồng nghĩa, trái nghĩa.
− Biết thêm nhiều từ vựng mới.
∗ Kĩ năng:
− Sử dụng nghi thức lời nói (lời xin lỗi, cám ơn, lời chào…).
− Đặt và trả lời câu hỏi.
− Viết đúng nhữ pháp những câu đơn giản.
d. Tập viết
∗ Kiến thức:
− Biết viết chữ hoa cỡ vừa.
− Biết nối chữ cái viết hoa với chữ cái viết thường.
∗ Kĩ năng:
− Viết đẹp và đúng mẫu chữ hoa và chữ thường.
− Viết nhanh, sạch sẽ.
e. Tập làm văn
∗ Kiến thức:
− Biết viết đoạn văn kể, tả đơn giản có độ dài từ 3 đến 5 câu.
− Biết điền vào bản khai lí lịch, giấy in sẵn, viết danh sách tổ, thời gian biểu,
tin nhắn, bưu thiếp.
− Nhận biết đoạn văn .
− Hiểu ý chính của đoạn văn.
∗ Kĩ năng:
− Viết đoạn văn hoàn chỉnh theo yêu cầu.
− Rèn luyện cho HS kĩ năng nghe, nói, đọc, viết.
5



f. Kể chuyện
∗ Kiến thức:
− Biết kể lại chuyện theo gợi ý (tranh ảnh, câu hỏi, lời thoại của nhân vật).
− Hiểu được nội dung chính của câu chuyện.
∗ Kĩ năng:
− Nói lưu loát, kể truyền cảm.
− Tự rút ra bài học cho bản thân.
− Rèn kĩ năng trình bày trước tập thể.

2. Thái độ
− Yêu tiếng Việt.
− Yêu thích môn Tiếng Việt.
− Thích đọc sách.
− Có ý thức giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
− Lễ phép trong giao tiếp.
− Bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm và tâm hồn lành mạnh, trong sang tình yêu

cái đẹp, cái thiện và thái độ ứng xử đúng mực trong cuộc sống.
IV.

NHẬN XÉT

1. Thời lượng các phân môn
Ở lớp 1 Hs đã được làm quen với các chữ cái và được học cách đọc, viết
thông qua phân môn học vần và tập viết sang lớp 2 phân môn tập đọc sẽ giúp
hs củng cố lại kiến thức ở lớp 1 đồng thời nội dung được nâng cao hơn giúp
hs rèn luyện khả năng nghe và nói hiểu biết về thiên nhiên, xã hội và con
người đồng thời cung cấp vốn từ, vốn diễn đạt cho các em.

Về phân môn luyện từ và câu phần lớn thời gian các em sẽ được luyện tập
thực hành thông qua các bài tập qua đó giúp các em mở rộng vốn từ theo từng
chủ điểm, rèn luyện kĩ năng dùng từ, đặt câu (nói, viết), kĩ năng đọc.
Đối với môn chính tả GV sẽ tập trung rèn cho hs kỹ năng nghe và viết qua
đó các em sẽ rèn luyện được các kĩ năng sử dụng ngôn ngữ. Các bài viết
chính tả còn cung cấp cho HS vốn từ, vốn hiểu biết về các mảng khác nhau
của đời sống.
Phân môn tập viết ở lớp 2 các em sẽ được học toàn bộ bảng chữ cái viết
hoa chủ yếu là rèn luyện kĩ năng viết chữ.
Còn đối với phân môn kể chuyện ở lớp 2 thì nội dung gắn bó với phân
môn tập đọc và các chủ điểm của từng tuần học giúp rèn các kĩ năng nói,
nghe và đọc cho hs.
Cuối cùng phân môn tập làm văn chủ yếu gv sẽ luyện cho các em kỹ năng
nghe, nói, đọc, viết và quan sát.
Theo qui định là 35 phút cho 1 tiết dạy (phân môn) như thế thời lượng các
phân môn của chương trình đã tương đối phù hợp. Tuy nhiên tùy thuộc vào
6


điều kiện và hoàn cảnh thực tế mà giáo viên có thể linh hoạt điều chỉnh số
lượng tiết dạy cũng như thời gian của mỗi tiết cho hợp lí.

2. Hệ thống tranh ảnh, câu hỏi


Tranh ảnh:
+ Phong phú, đa dạng phù hợp với nội dung từng chủ điểm.
+ Nhiều màu sắc sinh động, tập trung được sự chú ý của HS.

+ Phù hợp với tâm sinh lý của HS lớp 2.


Câu hỏi: hầu hết rõ ràng, cụ thể, dễ hiểu
+ Giúp HS tìm ra kiến thức mới.
+ Đảm bảo tính vừa sức cho HS.
+ Giúp HS nắm vững nội dung bài học.
+ Phát huy khả năng tư duy sáng tạo của HS.

3. Các nguyên tắc xây dựng chương trình
3.1. Tính khoa học
Nguyên tắc khoa học yêu cầu xem xét một cách nghiêm túc cả cấu trúc
lẫn nội dung của môn học. Mỗi khoa học điều có logic riêng, không thể đưa
nó vào một cách tùy tiện. cấu trúc chương trình phải phù hợp với logic phát
triển của khoa học Tiếng Việt, đồng thời hệ thống các tri thức của môn học,
trật tự sắp xếp các tài liệu phải phù hợp với logic phát triển tâm lý và khả
năng nhận thức của học sinh. Vì vậy, không thể đưa kiến thức vào chương
trình một cách thiếu hệ thống.
SGK Tiếng Việt 2 đã thể hiện tính khoa học, hệ thống thông qua các phân
môn, cụ thể như:
Phân môn tập đọc: Các chủ điểm được sắp xếp theo hệ thống từ gần gũi
đến lạ dần. Từ tuần 1 đến tuần 8 là các chủ điểm nói về trường lớp (học sinh,
bạn bè, trường học, thầy cô). Từ tuần 10 đến tuần 17 là các chủ điểm nói về
gia đình (ông bà, cha mẹ, anh em, bạn trong nhà). Từ tuần 19 đến tuần 29 là
các chủ điểm nói về tự nhiên (muông thú, sông biển, cây cối). Từ tuần 30 đến
tuần 34 là các chủ điểm nói về đất nước (Bác Hồ, nhân dân).
Phân môn LTVC: Các đơn vị bài học được sắp xếp hợp lý. Trước khi HS
học từ ngữ theo chủ đề như từ ngữ về học tập, từ chỉ sự vật… thì đã được học
về từ . Trước khi HS học kiểu câu “ai là gì?” thì đã được học về câu và dấu
chấm hỏi.
Phân môn chính tả: HS được dạy phân biệt những âm, vần từ dễ đến khó.
Đầu tiên là phân biệt c/k, sau đó là những âm, vần khó hơn như an/ang,

ăng/ăn, ngh/ng, ch/tr, dấu hỏi/dấu ngã…

7


3.2. Tính sư phạm
Nguyên tắc sư phạm đòi hỏi chương trình môn học phải thống nhất với
những mục tiêu giáo dục chung mà đích cuối cùng là hình thành cho học sinh
những phẩm chất tốt đẹp của người lao động mới. chương trình tiếng việt
phải chỉ dẫn phạm vi ngữ liệu cần lựa chọn để tiến hành dạy học. Nội dung
các văn bản được chọn điều hướng đến giáo dục lý tưởng sống và những
phẩm chất tốt đẹp của học sinh.
SGK tiếng Việt 2 cũng đã thể hiện nguyên tắc trên rất rõ thông qua các
phân môn: Các chủ đề, văn bản được chon điều hướng đến giáo dục những
phẩm chất đẹp cho hoc sinh như: Lòng kiên nhẫn (Có công mài sắt, có ngày
nên kim). Tính siêng năng chăm chỉ (Phần thưởng). Tình bạn (bạn của Nai
Nhỏ, Bím tóc đuôi sam). Nhơ ơn và vâng lời thầy cô (Người thầy cũ, Người
mẹ hiền). Lòng kính trọng ông bà cha mẹ (Sáng kiến của bé Hoa, bà cháu, Sự
tích cây vú sữa…). Tình yêu thiên nhiên đất nước (Chuyện bốn mùa, Chim
sơn ca và bong cúc trắng, Cây dừa, Cây và hoa bên lăng Bác, Bóp nát quả
cam…)
3.3. Tính thực tiễn
Chương trình xác định được chuẩn tối thiểu của môn học đồng thời có độ
mềm dẻo để thực thi ở những vùng miền khác nhau.
Ví dụ:
Tiếng Việt lớp 2 : Đọc đúng, rõ ràng toàn bài,... (Tập đọc) ; không mắc
quá 5 lỗi trong bài (Chính tả), chữ viết rõ ràng, tương đối đều nét, thẳng
hàng... (Tập viết).
Riêng về tốc độ đọc (đọc thông), tốc độ viết (viết chính tả), căn cứ các văn
bản hướng dẫn chuyên môn của Bộ GDĐT.

Giaiđoạn
Giữa
Cuối
Giữa
Cuối
học kì I
học kì I
học kì II
học kì II
Tốc độ
(Cuối năm
học)
cần đạt
Đọc

Khoảng
35 tiếng/phút

Khoảng
40 tiếng/phút

Khoảng
45 tiếng/phút

Khoảng
50tiếng/phút

Viết

Khoảng


Khoảng

Khoảng

Khoảng

35chữ/15phút

40 chữ/15phút

45 chữ/15phút

50 chữ/15
phút
Tuỳ điều kiện dạy học cụ thể, trong từng giai đoạn, HS có thể đạt tốc độ
quy định ghi trong bảng ở những thời điểm khác nhau.
Còn về chính tả: đối với khu vực Bắc Trung Bộ GV cần chú trọng hơn
trong việc cho HS phân biệt rõ hai thanh hỏi và ngã. Còn khu vực Nam Bộ
8


HS dễ nhầm lẫn cặp phụ âm cuối t/c vì vậy việc phân biệt cặp phụ âm t/c sẽ
GV chú trọng hơn khi dạy,..

4. Quan điểm xây dựng chương trình
4.1. Quan điểm giao tiếp

Quan điểm giao tiếp được thể hiện trên cả hai phương diện nội dung
và phương pháp dạy học.

− Về nội dung, thông qua các phân môn Tập đọc, Kể chuyện, Luyện từ

và câu, Chính tả, Tập làm văn, môn Tiếng Việt tạo ra những môi
trường giao tiếp có chọn lọc để học sinh mở rộng vốn từ theo định
hướng, trang bị những tri thức nền và phát triển các kĩ năng sử dụng
tiếng Việt trong giao tiếp. SGK dạy HS từ những nghi thức lời nói như
chào hỏi, cám ơn, xin lỗi, đồng ý, từ chối…đến các kĩ năng làm việc và
giao tiếp cộng đồng như lập danh sách lớp, tra mục lục sách, đọc thời
khóa biểu, lập thời gian biểu, gọi điện,…
− Về phương pháp dạy học, các kĩ năng nói trên được hình thành thông

qua nhiều bài tập, phù hợp với những tình huống giao tiếp mang tính tự
nhiên.


Bộ SGK Tiếng Việt Tiểu học mới tổ chức rèn luyện kỹ năng sử dụng
tiếng Việt cho học sinh thông qua các phân môn Tập đọc, Từ ngữ - Ngữ
pháp, Chính tả, Tập viết, Kể chuyện và Tập làm văn.
− Phân môn Tập đọc rèn cho HS các kĩ năng đọc (đọc thành tiếng, đọc

thầm, đọc hiểu, đọc diễn cảm), nghe và nói. Bên cạnh đó, thông qua hệ
thống bài đọc theo chủ điểm và các câu hỏi, những bài tập khai thác
nội dung bài học, phân môn Tập đọc cung cấp cho HS những hiểu biết
về thiên nhiên, xã hội và con người, cung cấp vốn từ, vốn diễn đạt,
những hiểu biết về tác phẩm văn học (như đề tài, cốt truyện, nhân
vật,..) và góp phần rèn luyện nhân cách cho HS.
− Phân môn Từ ngữ - Ngữ pháp, được gọi bằng tên mới là Luyện từ và
câu, cung cấp những kiến thức sơ giản về tiếng Việt bằng con đường
quy nạp và rèn luyện kĩ năng dùng từ, đặt câu (nói, viết), kĩ năng đọc
cho HS.

− Phân môn Chính tả rèn các kĩ năng viết, nghe và đọc. Trong giờ Chính
tả, nhiệm vụ của học sinh là viết một đoạn văn (nhìn- viết, nghe- viết,
nhớ- viết) và làm những bài tập chính tả, qua đó rèn luyện các kĩ năng
sử dụng ngôn ngữ. Các bài viết chính tả còn cung cấp cho HS vốn từ,
vốn hiểu biết về các mảng khác nhau của đời sống.
− Phân môn Tập viết chủ yếu rèn luyện kĩ năng viết chữ.
9


− Phân môn Kể chuyện rèn các kĩ năng nói, nghe và đọc. Trong giờ Kể

chuyện, HS kể lại những câu chuyện phù hợp với chủ điểm mà các em
đã học (trong SGK hoặc trong các sách khác), nghe thầy, cô hoặc bạn
kể rồi kể lại một câu chuyện bằng lời của mình, trả lời câu hỏi hoặc ghi
lại những chi tiết chính của câu chuyện đó.
− Phân môn Tập làm văn rèn cả 4 kĩ năng nghe, nói, viết và đọc. Trong
giờ Tập làm văn, HS được cung cấp kiến thức về cách làm bài và cách
làm bài tập (nói, viết) xây dựng các loại văn bản và các bộ phận cấu
thành của văn bản.
4.2. Quan điểm tích hợp
Tích hợp nghĩa là tổng hợp trong một đơn vị học, thậm chí một tiết học
hay một bài tập nhiều mảng kiến thức và kỹ năng liên quan với nhau nhằm
tăng cường hiệu quả giáo dục và tiết kiệm thời gian học tập cho người học.
Quan điểm tích hợp trong dạy học Tiếng Việt lớp 2 được thể hiện ở hai
yêu cầu: tích hợp ngang (đồng quy) và tích hợp dọc (đồng tâm).
a. Tích hợp ngang:
− Tích hợp ngang là tích hợp kiến thức tiếng Việt với các mảng kiến thức
về văn học, thiên nhiên, con người và xã hội theo nguyên tắc đồng quy.
− SGK thực hiện mục tiêu tích hợp nói trên thông qua hệ thống các chủ
điểm học tập, các kiến thức được tích hợp với kỹ năng, tích hợp các kỹ

năng đọc, viết, nghe, nói với nhau. Tức là bằng việc tổ chức các bài
đọc, bài học theo chủ điểm, SGK dắt dẫn HS đi dần vào các lĩnh vực
của đời sống, qua đó tăng cường vốn từ, vốn diễn đạt của các em về
nhà trường, gia đình và xã hội, đồng thời cũng mở rộng cánh cửa cho
các em bước vào thế giới xung quanh và soi vào thế giới tâm hồn của
chính mình.
− Theo quan điểm tích hợp, các phân môn (Tập đọc, Kể chuyện, Chính
tả, Tập viết, Luyện từ và câu, Tập làm văn) trước đây ít gắn bó với
nhau, nay được tập hợp lại xung quanh trục chủ điểm và các bài đọc;
các nhiệm vụ cung cấp kiến thức và rèn luyện kĩ năng cũng gắn bó chặt
chẽ với nhau hơn trước.
Ví dụ: Chủ điểm “Trường học” học trong hai tuần (tuần 5 và tuần 6),
các phân môn mà học sinh được học đều liên quan,tập trung xoay quanh
chủ điểm. Cụ thể như:
 Ở phân môn tập đọc sẽ được học các bài: Chiếc bút mực, mục lục
sách, cái trống trường em, mấu giấy vụn, ngôi trường mới, mua
kính → nội dung bài đọc xoay quanh vấn đề học tập, những
chuyện diễn ra ở trường ở lớp, luôn tập trung xung quanh chủ
điểm.
10


 Ở phân môn kể chuyện: Truyện kể chính là bài Tập đọc vừa học
trong giờ tập đọc trước đó.
 Ở phân môn chính tả: Dựa trên bài tập đọc ở tiết học trước trong
tuần để cho học sinh tập chép hoặc nghe - viết.
 Ở phân môn tập viết: Ngoài viết các chữ cái viết hoa, học sinh còn
viết từ ứng dụng liên quan đến trường lớp như “đẹp trường đẹp
lớp”.
 Ở phân môn luyện từ và câu: Học sinh được mở rộng vốn từ về

“từ ngữ về đồ dùng học tập”.
 Ở phân môn tập làm văn: Học sinh được tìm hiểu về cách đặt tên
cho bài, tìm hiểu về mục lục sách.
b. Tích hợp dọc:
Tích hợp dọc là tích hợp mà ở một đơn vị kiến thức và kĩ năng mới cũng
tích hợp những kiến thức và kĩ năng đã học trước đó theo nguyên tắc đồng
tâm: kiến thức và kĩ năng của lớp trên bao hàm kiến thức và kĩ năng của lớp
dưới nhưng cao hơn, sâu hơn.
Ví dụ: Ở lớp 1, chưa có phân môn tập làm văn mà chỉ dạy cho HS cách
nói lời chào hỏi, chia tay trong gia đình, trường học; cách đặt một số câu hỏi
đơn giản (theo mẫu); nói về mình và người thân bằng một vài câu;…. Khi lên
lớp 2, HS bắt đầu được học phân môn tập làm văn, dựa trên những kiến thức
đã được học ở lớp 1 nhưng mở rộng hơn như tự giới thiệu, đáp lời chào hỏi,
chia tay, viết đoạn văn ngắn,…
c. Quan điểm tích cực hóa hoạt động của HS:
− Xây dựng chương trình theo quan điểm này nhằm tạo điều kiện cho
giáo viên và học sinh thực hiện phương pháp tích cực hóa hoạt động
của người học, trong đó GV đóng vai trò là người tổ chức hoạt động
của HS; mỗi HS đều được hoạt động, mỗi HS đều được bộc lộ mình và
được phát triển.
+ Hoạt động của HS được hiểu là:
• Hoạt động giao tiếp (đặc thù của môn Tiếng Việt)
• Hoạt động phân tích, tổng hợp, thực hành lý thuyết… (như ở các
môn học khác)
+ Cả hai hoạt động trên có thể được tổ chức theo nhiều hình thức
khác nhau:
• Làm việc độc lập.
• Làm việc theo nhóm.
• Làm việc theo lớp.
11



− Theo nguyên tắc tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh, SGK

không trình bày kiến thức như là những kết quả có sẵn mà xây dựng hệ
thống câu hỏi, bài tập hướng dẫn HS thực hiện các hoạt động nhằm
chiếm lĩnh kiến thức và phát triển kĩ năng sử dụng Tiếng Việt. Ngoài
ra, SGK cũng dựa vào đặc điểm tâm lý và nhu cầu giao tiếp của lứa
tuổi HS lớp 2, cụ thể như:
+ HS được học nhiều chủ điểm (một chủ điểm được học trong hai
tuần) phù hợp với sự phát triển nhận thức của lứa tuổi giúp các em
duy trì hứng thú học tập, loại trừ cảm giác nhàm chán dễ xảy ra khi
học một chủ điểm trong một thời gian quá dài.
+ Hình ảnh trong SGK phong phú, đa dạng làm cho bài học thêm sinh
động.
+ Chú ý đến tính đa dạng của bài tập để tránh sự đơn điệu, nhàm
chán, đồng thời hình thành cách nói, cách nghĩ, cách làm mềm dẻo,
linh hoạt ở HS.

5. So sánh chương trình cũ và mới
5.1. Tập đọc
− SGK mới đã kế thừa những ưu điểm của SGK cũ:
+ Dùng lại những bài đọc hay trong SGK Tiếng Việt và sách Truyện
đọc cũ.
+ Sắp xếp các “văn bản đọc” gần gũi, thiết thực với trẻ theo chủ
điểm để cung cấp cho học sinh những hiểu biết về tự nhiên, xã hội
và con người; tăng cường vốn từ, khả năng diễn đạt…
− Những đổi mới của chương trình SGK mới:

+ SGK mới xem HS là trung tâm của quá trình dạy học, coi trọng

những PPDH phát huy tính tích cực của HS, tổ chức các hoạt
động đọc của HS theo quan điểm thực hành giao tiếp.
+ Các chủ điểm được chia nhỏ hơn với thời lượng dành cho mỗi chủ
điểm ít hơn phù hợp với sự phát triển nhận thức của trẻ, giúp trẻ
duy trì hứng thú, loại trừ cảm giác nhàm chán khi học một chủ
điểm trong thời gian quá dài.
+ Các bài tập đọc trở thành nguyên liệu để cho các phân môn: KC,
CT, LT&C, thậm chí cả Tập Viết khai thác. Đặc biệt, hàng loạt
bài Tập Đọc đã được dùng làm mẫu để tạo lập văn bản trong phân
môn Tập làm văn. Ví dụ: Các văn bản thông thường được dạy
trong phân môn Tập đọc như Tự thuật, Bưu thiếp, Nhắn tin, Mục
lục sách, Điện thoại,… trang bị cho HS những hiểu biết ban đầu;
12


trên cơ sở đó rèn HS các kĩ năng viết tự thuật, bưu thiếp, nhắn tin,
tra mục lục sách, nhận và gọi điện thoại.
+ Kiểu loại văn bản phong phú: nghệ thuật, báo chí, khoa học (bạn
có biết,..), hành chính (tự thuật, thời khóa biểu, thời gian biểu,
mục lục sách…) …giúp HS biết đọc nhiều kiểu loại văn bản.
+ Có nhiều văn bản vui, khôi hài giúp trẻ phát triển trí tuệ, óc thông
minh, khiếu hài hước. (Cá sấu sợ cá mập, Mít làm thơ,..)
+ Văn bản có tính nghệ thuật cao hơn (sử dụng nhiều biện pháp tu
từ). Đó là nguồn ngữ liệu sinh động giúp HS tiếp xúc với vẻ đẹp
của Tiếng Việt trong nhiều tình huống giao tiếp khác nhau, từ đó
học được cách sử dụng Tiếng Việt chính xác, tinh tế, biểu cảm,…
Cũng do có tính nghệ thuật cao hơn, các văn bản này có tác động
giáo dục sâu hơn, thấm thía hơn.
+ SGK mới dạy Tập đọc theo quan điểm giao tiếp nhằm thực hiện
mục tiêu của Chương trình “hình thành và phát triển ở HS các kĩ

năng sử dụng Tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết)”. Phân môn Tập
đọc có nhiệm vụ rèn các kĩ năng đọc, nghe và nói, trọng tâm là kĩ
năng đọc (đọc thành tiếng, đọc – hiểu, đọc thầm).
+ Câu hỏi khai thác bài có khả năng phát triển tư duy, khơi gợi suy
nghĩ của trẻ nhiều hơn.
+ Câu hỏi thường được sắp xếp theo trình tự nội dung bài học (gồm
những câu hỏi tái hiện, câu hỏi gợi mở, câu hỏi bộc lộ ý kiến cá
nhân,..) không có câu hỏi phân loại HS như SGK cũ.
+ Rèn cho HS các kĩ năng: đọc trơn, đọc đồng thanh, đọc thầm, đọc
diễn cảm, đọc thuộc lòng, các biện pháp giải nghĩa từ…
+ Trong văn bản Tập đọc là truyện kể có ghi số (1,2,3,..) ở từng
đoạn truyện nhằm giúp HS nắm được bố cục, đọc – hiểu nội dung
để trả lời câu hỏi, đồng thời chuẩn bị cho yêu cầu luyện nói trong
giờ Kể chuyện sau.
− Hạn chế của chương trình cũ:

Phương pháp dạy Tập đọc trong SGK cũ lại nặng về thuyết trình,
giảng giải, chú trọng hoạt động của GV, chưa đề cao vai trò chủ động
tích cực của HS. Trong giờ Tập đọc, chỉ một số ít HS được luyện đọc
và phát biểu ý kiến về nội dung bài đọc. Quy trình dạy học chưa hợp
lí: nhiều GV sa đà vào nhiệm vụ day HS đọc diễn cảm trước khi các
13


em hiểu bài. Khâu luyện đọc trơn, đọc trôi chảy bị coi nhẹ: HS chỉ
luyện đọc qua loa trước khi tìm hiểu nội dung bài. Khi hướng dẫn HS
hiểu bài, GV cũng nặng về giảng từ ngữ, giảng bài, chưa chú ý tổ
chức cho HS hoạt động để rèn luyện kĩ năng đọc – hiểu văn bản.
5.2. Kể chuyện
− Chương trình SGK mới:

+ Nội dung phân môn KC gắn bó chặt chẽ với phân môn TĐ và chủ
điểm của từng tuần học, không có quyển Truyện đọc riêng.
+ Nội dung truyện kể là những câu chuyện các em vừa học đọc
trong tiết TĐ trước đó.
+ Các kiểu bài tập KC trong SGK mới rất đa dạng, phong phú: Kể
lại một đoạn hay toàn bộ câu chuyện theo tranh minh họa; KC
theo gợi ý (trang 105 tập 1, trang 84 tập 2); kể chuyện phân vai,
KC bằng lời của mình, KC theo lời một nhân vật (trang 102 tập
2),…
− Chương trình SGK cũ:

+ Kể chuyện đươc tách biệt với môn Tiếng Việt, có quyển sách Kể
chuyện riêng.
+ Toàn bộ là nội dung câu chuyện, không có tranh minh họa cho
từng đoạn.
+ Chủ yếu do giáo viên kể trước, học sinh nghe và kể lại toàn bộ câu
chuyện theo lời văn của SGK
5.3. Chính tả
− Nội dung phân môn CT trong bộ SGK mới và SGK cũ đều gắn bó
chặt chẽ với phân môn TĐ và chủ điểm của từng tuần học. Các văn bản
để tập chép và nghe – viết thường được trích hoặc tóm tắt từ các bài
TĐ trong tuần. Văn bản nhớ - viết là một đoạn thơ hoặc đoạn văn HS
đã học thuộc lòng. Bên cạnh đó, SGK mới cũng sử dụng một số văn
bản mới có nội dung phù hợp với chủ điểm đang học để viết chính tả.
Ngay các bài tập điền chữ, điền vần hay tìm tiếng có âm, vần cho trước
nhiều khi cũng gắn với chủ điểm, góp phần làm rõ thêm chủ điểm.
− SGK mới kế thừa một số bài tập của SGK cũ nhưng đưa thêm rất nhiều
kiểu bài tập mới phong phú, đa dạng. Nhiều mẩu chuyện vui (trang 85
tập 2) được dùng làm vật liệu cho các bài tập chính tả, góp phần làm
cho sách thêm thú vị, hấp dẫn. Bên cạnh kiểu bài tập chính tả bắt buộc,

trong SGK mới còn có kiểu bài tập lựa chọn (bài tập mở) đưa ra nhiều
phương án luyện tập khác nhau để GV và HS lựa chọn theo đặc điểm
14


phát âm của địa phương hay của bản thân HS và những loại lỗi CT mà
HS địa phương thường mắc phải.
− SGK mới tổ chức cho HS luyện tập bằng nhiều hình thức hoạt động,
nhiều trò chơi sinh động,…
5.4. Tập viết
− Hình dạng các chữ cái viết hoa về cơ bản đã kế thừa có chỉnh sửa lại từ
Bảng chữ hoa giới thiệu cho HS các lớp cuối cấp I (ban hành theo
Thông tư số 29/TT ngày 25-9-1986). Chữ cái viết hoa thường có
những nét cong, nét lượn, tạo dáng thẩm mĩ cho chữ cái, giúp cho HS
có thể viết liền nét, hạn chế số lần nhấc bút. Các nét cơ bản của chữ cái
viết hoa thường có biến điệu so với chữ cái viết thường.
− Nội dung tập viết trong tiết học luôn bám sát nội dung bài học trong
SGK. HS được học toàn bộ bảng chữ cái viết hoa.
− Trong vở Tập Viết, sau chữ viết mẫu, trên mỗi dòng kẻ đều có điểm
đặt bút (dấu chấm) nhằm giúp HS xác định rõ số lần viết theo mẫu,
giúp các em viết đúng hình dạng, quy trình, đảm bảo khoảng cách đều
nhau giữa các chữ, tăng tính thẩm mĩ cho trang vở.
− Chữ viết mẫu có kích thước phù hợp và có những mũi tên giúp cho HS
dễ nhớ và viết đúng quy trình.
5.5. Luyện từ và câu
− Trong SGK mới, phân môn Từ ngữ - Ngữ pháp được gọi bằng tên mới
là Luyện từ và câu. Phân môn này có nhiệm vụ mở rộng vốn từ cho HS
theo các chủ điểm của sách, cung cấp những kiến thức sơ giản về
Tiếng Việt bằng con đường quy nạp và rèn luyện kĩ năng dùng từ, đặt
câu (nói, viết), kĩ năng nghe và đọc cho HS. Thông qua đó, bồi dưỡng

cho HS thói quen dùng từ đúng, nói và viết câu theo một số mục đích
nói thông thường, dùng một số dấu câu phổ biến khi viết.
− Do hệ thống chủ điểm trong bộ sách Tiếng Việt mới phong phú hơn
nên vốn từ của HS cũng được mở rộng hơn. Sách Tiếng Việt mới
không cung cấp cho HS bảng từ cho trước mà huy động vốn từ của các
em để tạo nên bảng từ này. Cách làm này sẽ tạo được nhiều cơ hội để
các em có thể tích cực hóa vốn từ đã có của mình cũng như vốn từ mới
được trang bị.
− Phân môn Luyện từ và câu không có bài học lí thuyết. Các kiến thức từ
ngữ và ngữ pháp được thể hiện qua các bài tập thực hành. HS chủ yếu
luyện tập, thực hành để từ đó dần hình thành một cách tự nhiên các
nhận thức ban đầu về các kiến thức sẽ học ở các lớp trên. GV có thể
tóm lược một số ý thật ngắn gọn để HS nắm chắc bài, không sa vào
dạy lí thuyết.
5.6. Tập làm văn
15


− SGK mới vẫn có nội dung rèn kĩ năng KC và miêu tả cho HS, song nội

dung và hình thức luyện tập phong phú hơn. Đặc biệt, HS còn được
luyện kĩ năng quan sát tranh để kể chuyện hoặc miêu tả sự vật, sự việc
theo cách cảm nhận của riêng mình.
− SGK mới cung cấp, trang bị cho HS một số hiểu biết và kĩ năng phục
vụ cho việc học tập và sinh hoạt hằng ngày với nội dung khá đa dạng.
HS được học cách lập danh sách, viết tin nhắn, viết thời gian biểu, viết
nội quy,…
− SGK chú ý luyện kĩ năng nói cho HS, đặc biệt là dạy các nghi thức lời
nói tối thiểu gắn với những tình huống giao tiếp mà các em thường gặp
trong đời sống hằng ngày: các em được luyện nói lời tự giới thiệu, xin

lỗi, khẳng định, phủ định, nói lời chia vui, đồng ý, khen ngợi; đáp lời
tự giới thiệu, đáp lời đồng ý, đáp lời từ chối, đáp lời an ủi, đáp lời
khẳng định, phủ định, đáp lời chia vui, đáp lời khen ngợi,….Các bài
tập đã đưa ra những tình huống giao tiếp đa dạng, phù hợp với HS , tạo
được hứng thú học tập cho các em. Đây là nội dung dạy học mới mẻ
của phân môn TLV, nhằm rèn luyện kĩ năng giao tiếp thể hiện thái độ
lịch sự, tế nhị trong các mối quan hệ gia đình, nhà trường và xã hội.
− Nội dung các bài học của phân môn TLV đều thông qua hệ thống bài
tập (bài tập miệng và bài tập viết). Như vậy, hầu như tiết học nào các
em cũng được rèn luyện các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết và quan sát.

 Tuy nhiên, theo ý kiến của nhóm, SGK Tiếng Việt 2 còn tồn
tại một số vấn đề:


Tập đọc:
+“Quà của bố” (trang 106 TV2 tập 1) bài này HS còn phải luyện
đọc quá nhiều từ khó (cà cuống, niềng niễng, nhộn nhạo, quẫy tóe
nước, con muỗm,…).
+“Đôi giày” (trang 68 TV2 tập 1) là câu chuyện vui có nội dung
khó hiểu.
+Những bài tập đọc ở sách Tiếng Việt 2 nếu đã giảm tải thì không
nên đưa vào nội dung của sách nữa



Chính tả
+Các bài chính tả tập chép ở sách TV tập 2 nên thay bằng ngheviết. Vì trong học kì II HS đã được rèn kĩ năng nghe- viết. Nếu để
HS tập nhìn chép dễ dẫn đến cẩu thả, một số HS không viết theo
cở chữ.

16


+Một số bài tập chính tả khá khó so với HS: bài tập 3 trang 136 tập
1.


Tập làm văn:
+Phải có gợi ý đối với thể loại tả ngắn.
+Khối lượng kiến thức tương đối nhiều, các mảng kiến thức trong
một số bài không quan hệ chặt chẽ. Ví dụ: tiết TLV tuần 16 trang
137. Bài 1 yêu cầu đặt 1 câu tỏ ý khen ngợi. Bài 2: kể về một con
vật nuôi trong nhà mà em biết. Bài 3: lập thời gian biểu buổi tối
của em.



Lượng kiến thức quá nhiều so với lứa tuổi HS lớp 2.

17



Tại sao Bộ Giáo dục phải thay đổi chương trình giáo dục phổ thông?

Chương trình và sách giáo khoa hiện hành được triển khai trên toàn quốc từ 2002 đến nay. Dù có nhiều ưu điểm, nhưng trước yêu cầu phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, trước sự phát triển nhanh chóng của khoa học - công nghệ và khoa học giáo dục cũng như những đòi hỏi hội nhập quốc tế, chương trình và sách giáo khoa hiện hành khó đáp ứng yêu cầu của đất nước trong giai đoạn mới.

Các chương trình giáo dục phổ thông hiện hành và trước đây trả lời cho câu hỏi: “Học xong chương trình, học sinh biết được những gì?”; còn chương trình giáo dục phổ thông mới tập trung trả lời câu hỏi: “Học xong chương trình, học sinh làm được những gì?” - Giáo sư Nguyễn Minh Thuyết, Tổng chủ biên chương trình giáo dục phổ thông mới chia sẻ.

Chương trình giáo dục phổ thông mới có thể khắc phục được những hạn chế còn tồn tại của chương trình giáo dục phổ thông hiện hành, cụ thể ba mẹ có thể thấy rõ qua bảng so sánh sau của Monkey:

Chương trình giáo dục phổ thông hiện hànhChương trình giáo dục phổ thông mới

- Định hướng nội dung nặng về truyền thụ kiến thức, chưa chú trọng giúp học sinh vận dụng kiến thức học được vào thực tiễn=> Học sinh phải học và ghi nhớ rất nhiều nhưng khả năng vận dụng vào đời sống rất hạn chế.

- Xây dựng theo mô hình phát triển năng lực, thông qua những kiến thức cơ bản, thiết thực, hiện đại và các phương pháp tích cực hóa hoạt động của người học. => Học sinh hình thành và phát triển những phẩm chất và năng lực mà nhà trường và xã hội kỳ vọng.

- Các môn học theo chương trình hiện hành còn chưa kết nối chặt chẽ với nhau, khiến học sinh khó vận dụng kiến thức liên môn.- Chú ý hơn đến tính kết nối giữa chương trình của các lớp học, cấp học trong từng môn học và giữa chương trình của các môn học trong từng lớp học, cấp học.
- Thiếu tính mở nên hạn chế khả năng chủ động và sáng tạo của địa phương và nhà trường cũng như của tác giả SGK và giáo viên.

- Bảo đảm định hướng thống nhất và những nội dung giáo dục cốt lõi, bắt buộc đối với học sinh toàn quốc.

- Trao quyền chủ động và trách nhiệm cho địa phương và nhà trường trong việc lựa chọn, bổ sung một số nội dung giáo dục và triển khai kế hoạch giáo dục phù hợp với đối tượng giáo dục và điều kiện của địa phương, của cơ sở giáo dục, góp phần bảo đảm kết nối hoạt động của nhà trường với gia đình, chính quyền và xã hội.

3 đổi mới của môn Tiếng Việt cấp Tiểu học theo chương trình giáo dục phổ thông mới

Tăng thời lượng học môn tiếng Việt

Với chương trình giáo dục hiện hành, học sinh tiểu học chỉ học 1 buổi/ngày, mỗi tiết 45 phút, nhưng theo chương trình giáo dục phổ thông mới, các bé sẽ học 2 buổi/ngày, mỗi ngày bố trí không quá 7 tiết học, mỗi tiết 35 phút.

Đặc biệt, thời lượng học môn Tiếng Việt ở tiểu học nhất là lớp 1, lớp 2 chiếm số tiết lớn, trong chương trình giáo dục phổ thông mới, ở cấp tiểu học, thời lượng dành cho môn Tiếng Việt là 1.505 tiết (trung bình 43 tiết/tuần), chiếm 31% tổng thời lượng chương trình dành cho các môn học bắt buộc. Mục đích của việc tăng thời lượng học môn Tiếng Việt là để bảo đảm học sinh đọc thông viết thạo, tạo tiền đề học các môn học khác.

Như vậy, có thể thấy tiếng Việt là môn học vô cùng quan trọng trong những năm tháng đầu đời của trẻ, đặc biệt là khi trẻ bắt đầu vào tiểu học. Bởi vậy việc chuẩn bị trước kiến thức, kĩ năng tiếng Việt cho con ngay tại nhà là rất cần thiết, nhưng không phải phụ huynh nào cũng có đủ học liệu, phương pháp hay kĩ năng sư phạm cần thiết để có thể dạy con học tiếng Việt hiệu quả tại nhà.

Trong tình huống này, nhiều ba mẹ sẽ cần đến một công cụ có thể hỗ trợ ba mẹ dạy con tiếng Việt, cung cấp nguồn học liệu dồi dào, phong phú và chất lượng, đồng thời có thể rèn kĩ năng Nghe - Đọc hiểu cho con với giọng đọc chuẩn và nuôi dưỡng tâm hồn con với những nội dung mang tính giáo dục cao.

Ứng dụng học tiếng Việt VMonkey có thể đáp ứng được những nhu cầu đó với kho truyện tiếng Việt phong phú và tương tác sinh động, giúp cho các bé có thể rèn luyện Kĩ năng Nghe - Đọc hiểu và sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt lưu loát, tự tin, phát triển trí tưởng tượng và khả năng sáng tạo vốn có cũng như nuôi dưỡng tâm hồn và những tính cách tốt đẹp của trẻ.

Kho truyện của VMonkey được xây dựng theo chuẩn đầu ra môn Tiếng Việt của Bộ Giáo dục và Đào tạo, chia làm 2 cấp độ học: Mầm non và Tiểu học (gồm 5 độ tuổi, từ lớp 1 đến lớp 5), với nội dung phù hợp với lứa tuổi, vừa giúp các con làm quen với chương trình giáo dục phổ thông mới, vừa có thêm tư liệu giúp ba mẹ hướng dẫn con ôn tập ngay tại nhà.

Thay đổi sách giáo khoa

Theo chương trình giáo dục phổ thông mới, sẽ có 5 bộ sách giáo khoa (SGK) khác nhau gồm 4 bộ sách của Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam:

- Bộ "Kết nối tri thức với cuộc sống" gồm 10 cuốn

- Bộ "Chân trời sáng tạo" gồm 9 cuốn

- Bộ “Cùng học để phát triển năng lực” gồm 10 cuốn

- Bộ “Vì sự bình đẳng và dân chủ trong giáo dục” gồm 9 cuốn

Và 1 bộ sách của Nhà xuất bản Đại học Sư phạm Hà Nội và Nhà xuất bản Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh: bộ "Cánh Diều" gồm 9 cuốn.

Ngoài ra, 5 bộ sách mới này cũng đi kèm với sách giáo khoa điện tử. Đây là kho học liệu với nhiều video, bài giảng điện tử, bài tập tương tác cho phép dạy và học trực tuyến một cách thuận tiện, giáo viên cũng dễ tổ chức các hoạt động giáo dục khoa học, hiệu quả hơn.

Mỗi trường sẽ được lựa chọn 1 bộ SGK để đưa vào giảng dạy cho học sinh toàn trường. Từ năm học 2020-2021, học sinh lớp 1 sẽ học sách giáo khoa mới do hiệu trưởng các trường lựa chọn trong số sách đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo phê duyệt.

5 bộ SGK này khác nhau như nào? Và tại sao lại có đến 5 bộ SGK khác nhau thay vì chỉ 1 bộ như trước đây? Ba mẹ tham khảo thêm bài viết dưới đây để nắm rõ hơn những khác biệt của các bộ SGK và tìm hiểu tại sao VMonkey lại có thể giúp các bé làm quen được với nhiều bộ sách khác nhau, để dù trường học chọn bộ sách nào thì các bé vẫn không bỡ ngỡ nhé!

Học sinh được thực hành nhiều hơn

Theo Bộ GD&ĐT khi áp dụng chương trình SGK mới, giáo viên cũng sẽ thực hiện phương pháp dạy học mới. Theo đó, thay vì truyền thụ kiến thức một chiều, nặng về lý thuyết như hiện nay, giáo viên sẽ dạy học tích cực, hướng dẫn học sinh hoạt động, tự tìm tòi kiến thức, phát triển kỹ năng vận dụng vào đời sống.

Ví dụ khi dạy các con kĩ năng nghe và nói trong môn Tiếng Việt, để tạo điều kiện cho mọi học sinh được thực hành nói, giáo viên sẽ linh hoạt trong việc tổ chức các hoạt động học tập như: yêu cầu từng cặp học sinh nói cho nhau nghe hoặc học sinh trình bày bài nói trước nhóm, lớp; tổ chức cho học sinh thảo luận, tranh luận, qua đó hiểu được tính chất tương tác của ngôn ngữ nói và hình thành thái độ tích cực, hợp tác khi trao đổi, thảo luận và có khả năng giải quyết vấn đề qua trao đổi, thảo luận; chia nhóm, lắng nghe nhận xét, rút kinh nghiệm dựa trên những hướng dẫn cụ thể về tiêu chí đánh giá mà giáo viên cung cấp.

Như vậy, việc các bé được thực hành từ sớm ngay tại nhà, đặc biệt là trong thời gian các con đều đang phải nghỉ học vì dịch Covid-19 như hiện tại là hết sức cần thiết. Tuy nhiên, một vấn đề mà rất nhiều ba mẹ đang băn khoăn là nếu ba mẹ không có các kĩ năng sư phạm, không biết các phương pháp dạy con hiệu quả tại nhà thì nên giúp con thực hành tiếng Việt tại nhà như thế nào? Ba mẹ hãy tham khảo bài viết dưới đây để tìm hiểu các phương pháp dạy tiếng Việt hiệu quả cho các bé nhé!

Nhiều người nhầm sách giáo khoa với chương trình

GD&TĐ - Các nhà trường thực hiện dạy học lớp 1 theo Chương trình GDPT 2018 mới được hơn một tháng nhưng dư luận đã “nóng” lên vấn đề chương trình và SGK môn Tiếng Việt lớp 1. Nhiều ý kiến cho rằng: Chương trình lớp 1 hiện nay quá nặng; sách giáo khoa thiết kế nhiều bài dài, rườm rà.

So sánh chương trình Tiếng Việt lớp 2 mới với chương trình hiện hành

Giờ học của cô trò lớp 1 Trường Tiểu học Châu Hội 1 (huyện Quỳ Châu, Nghệ An). Ảnh: Hồ Lài

Cùng vào cuộc với giáo viên từ những ngày đầu trăn trở, đắn đo khi xây dựng kế hoạch giáo dục môn Tiếng Việt lớp 1, qua thăm lớp dự giờ, trao đổi, thảo luận với cha mẹ học sinh, chúng tôi rút ra được một số nguyên nhân “làm nóng” dư luận.

Lẫn lộn và đồng nhất SGK là chương trình

“Nếu so sánh với chương trình tiểu học năm 2000 thì môn Tiếng Việt nặng nề hơn, đa số các bộ sách giáo khoa môn Tiếng Việt đều “chạy” chương trình khá nhanh.

Phần ứng dụng trong sách giáo khoa chương trình cũ chỉ có 2 - 3 câu đơn giản thì sách giáo khoa mới có khi học sinh lớp 1 phải đọc nguyên một bài thơ hoặc cả một văn bản dài” - ý kiến của 1 cô giáo khối trưởng khối 1 trên Báo Tuổi trẻ).

“Nhiều kiến thức nhưng thời gian ít, chương trình nặng thì giáo viên có giỏi mức nào cũng rất khó xoay xở để các em theo kịp một cách tương đối” - ý kiến của một giáo viên...

Những ý kiến nêu trên rõ ràng đang lẫn lộn giữa chương trình và SGK. Nêu quan điểm nặng nhẹ không dựa trên mục tiêu và yêu cầu cần đạt của chương trình mà dựa vào bài học trong SGK và tài liệu thiết kế dạy học để đánh giá.

Đánh giá mức độ nặng nhẹ của chương trình môn Tiếng Việt lớp 1 hiện nay so với chương trình môn Tiếng Việt trước đây, chúng ta hãy so sánh về mục tiêu, yêu cầu cần đạt (chuẩn đầu ra) về các kỹ năng: Nghe, nói, đọc, viết và tổng thời gian cho môn Tiếng Việt của 2 chương trình như sau (Xem Bảng dưới):

So sánh chương trình Tiếng Việt lớp 2 mới với chương trình hiện hành

Bảng so sánh về mục tiêu, yêu cầu cần đạt (chuẩn đầu ra) về các kỹ năng.

So sánh chuẩn đầu ra ở trên cho thấy, chương trình môn Tiếng Việt lớp 1 hiện hành chỉ “nặng” hơn chương trình môn Tiếng Việt trước đây ở tốc độ đọc tối thiểu 10 tiếng/phút và thay việc biết tô chữ hoa ở chương trình cũ bằng biết viết chữ hoa ở chương trình hiện hành. Để ‘bù” cho việc “nặng” đó thì thời lượng môn Tiếng Việt lớp 1 ở chương trình hiện hành tăng đáng kể (70 tiết) so với chương trình cũ.

Mặt khác, không thể phủ nhận rằng, hiện nay so với trước đây thì cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học của các nhà trường khang trang hơn, đầy đủ hơn; cùng độ tuổi nhưng nhận thức của học sinh phát triển hơn cách đây 14 năm (chương trình GDPT trước đây ban hành theo Quyết định số 16/2006/QĐ-BGD ĐT ngày 5/5/2006).

Cho nên Chương trình GDPT 2018 xây dựng dựa trên nguyên tắc kế thừa và phát triển là hoàn toàn phù hợp. Đa số thầy cô giáo không ngừng học tập, say mê nghiên cứu cải tiến chất lượng. Đêm ngày trăn trở với từng bài dạy, đắn đo, cân nhắc cách thức tổ chức từng hoạt động cho học sinh. Bên cạnh đó, còn có nhiều GV tư duy vẫn đang bị trói buộc bởi thói quen cũ.

Thói quen cũ của GV chúng ta là chỉ dựa vào nội dung dạy học có sẵn trong tài liệu hướng dẫn dạy học, SGK, giáo án “trên mạng” ít chủ động, đầu tư cho việc nghiên cứu nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp với đối tượng học sinh của mình.

Ngày nay chỉ cần tìm kiếm với cụm từ “giáo án môn… bộ sách…” là ngay lập tức GV tha hồ “cóp”, “cắt”, “chỉnh sửa”. Sử dụng công nghệ thông tin (CNTT) hỗ trợ cho việc tìm tòi, nghiên cứu trong quá trình dạy học là điều hết sức cần thiết, tuy nhiên nhiều GV đã sử dụng sản phẩm CNTT thay thế gần như hoàn toàn cho tư duy dạy học của mình.

Giáo án thì cóp nhặt, chắp vá lại thêm nhận thức lệch lạc, lẫn lộn SGK là chương trình cho nên mới “nhồi nhét” cho hết những gì có trong SGK vào đầu học sinh (mới chỉ là những đứa trẻ có nhận thức mới bằng 1/7 học sinh lớp 1).

Học sinh phải học với những thầy cô có nhiều “chất thợ” nhưng thiếu “chất thầy” nên “hổng” kiến thức từ ban đầu và lỗ hổng ấy cứ tăng lên theo ngày tháng khiến CMHS phải hoang mang là điều không tránh khỏi.

So sánh chương trình Tiếng Việt lớp 2 mới với chương trình hiện hành

Các bộ sách mới có khá nhiều sự thay đổi so với sách giáo khoa cũ. Ảnh: Thanh Tùng/TTXVN

Kế hoạch dạy học không phù hợp

Chương trình GDPT 2018 không quy định cụ thể số tiết học trong từng buổi, từng tuần cho mỗi môn học như chương trình cũ mà chỉ quy định tổng thời gian cả năm cho mỗi môn học. Việc sắp xếp nội dung dạy, thời lượng (số tiết) dạy học cụ thể từng môn, Bộ GD&ĐT đã trao quyền cho các nhà trường chủ động xây dựng kế hoạch cho cả năm học. Kế hoạch này được xây dựng theo một quy trình rất khoa học.

Dựa vào mục tiêu, yêu cầu cần đạt của các môn học quy định trong chương trình (không phải SGK) và kết quả phân tích bối cảnh nhà trường (đặc điểm học sinh, các điều kiện tổ chức dạy học của nhà trường, đặc điểm phương ngữ, thói quen…), các tổ chuyên môn (CM) tổ chức xây dựng kế hoạch dạy học các môn. Sản phẩm của hoạt động này là khung thời gian thực hiện các mạch kiến thức (chủ đề) và thứ tự dạy học các mạch kiến thức đó.

Các mạch kiến thức là tập hợp các yêu cầu cần đạt được sắp xếp có chủ ý. Thời lượng cho các mạch kiến thức đảm bảo theo quy định của chương trình.

Ví dụ về thời lượng các mạch kiến thức trong môn Tiếng Việt lớp 1: Đọc chiếm 60%; viết chiếm 25%; nói 10%, kiểm tra, đánh giá 5%. Trên cơ sở kế hoạch các môn mà tất cả GV trong tổ đã xây dựng, GV dạy môn nào thì chủ động lên phân phối chương trình (PPCT) môn đó hoặc cả tổ CM cùng tham gia xây dựng PPCT.

Có thể cùng 1 nội dung yêu cầu cần đạt nhưng thời lượng dạy lớp này khác với lớp kia; yêu cầu về mức độ cần đạt đối với em này có thể khác với em kia trong một tiết dạy. Căn cứ vào PPCT đã xây dựng, GV lựa các nội dung ở SGK để dạy. Sau một thời gian thực hiện tổ CM sẽ tiến hành điều chỉnh kế hoạch dạy học, GV điều chỉnh lại mục tiêu trong từng tiết cho phù hợp đối tượng học sinh…

Quy trình là vậy, nhưng trong thực tế nhiều nhà trường, nhiều GV lại dựa hoàn toàn vào SGK để xây dựng kế hoạch dạy học và PPCT. Mặc dù, năm nay SGK đã được GV dạy lớp 1 của các nhà trường tổ chức chọn, tuy nhiên SGK không thể viết riêng cho từng trường hay từng vùng miền được.

Trong quá trình dạy học, giáo viên cố gắng nhồi nhét tất cả những gì SGK có vào đầu học sinh đã gây nên tình trạng “quá tải” đến nỗi “mỗi buổi đi học về con tôi lại mếu máo…” hay “trẻ lớp 1 chỉ hơn “mẫu giáo lớn” một chút, có nghĩa vừa phải dạy, vừa phải dỗ, kèm từ cách cầm bút đến khả năng ngồi tập trung 20 - 30 phút. Vậy mà chương trình lại dạy quá nhanh. Không nói học sinh mà phụ huynh cũng thấy rối với các âm/vần quá nhiều” như CMHS đã phản ánh.

So sánh chương trình Tiếng Việt lớp 2 mới với chương trình hiện hành

Nhiều động tác thừa

Thông qua việc dự giờ, dạy học lớp 1, chúng tôi rút ra được những hạn chế trong kỹ thuật dạy học của giáo viên như nói quá nhiều, giải thích nhiều; lạm dụng vỗ tay, khen ngợi HS; đánh giá chưa hợp lý (cứ mỗi HS trả lời lại cho một số HS khác nhận xét); các thao tác hướng dẫn HS thực hiện nhiệm vụ ít vận dụng quy ước, ký hiệu mà chủ yếu dùng mệnh lệnh; sử dụng đồ dùng dạy học chưa khoa học; nhiều bài dạy thiết kế trên giáo án điện tử ít thể hiện trọng tâm (trình chiếu lên như một buổi xem phim…).

Từ những hạn chế nêu trên đã làm cho hiệu quả tiết dạy học không như mong muốn (chưa xét đến việc chậm đổi mới phương pháp, và chưa linh hoạt trong việc tổ chức hình thức dạy học).

Từ những nguyên nhân như vậy, chúng tôi mạnh dạn đề xuất một số giải pháp khắc phục như sau:

- Tổ chức dạy học phải dựa vào mục tiêu, yêu cầu cần đạt quy định trong chương trình và sát đối tượng HS, không phụ thuộc hoàn toàn vào SGK giáo dục phổ thông phụ thuộc vào chương trình không phụ thuộc vào SGK.

- Lựa chọn các nội dung có trong SGK để dạy phải sát đối tượng. Không bắt buộc tất cả các học sinh phải hoàn thành các nội dung như trong SGK.

- Tổ chức dạy học linh hoạt: Trong tiết học Tiếng Việt lớp 1, nếu những HS nào đã đọc tốt được âm, vần, câu ứng dụng hay bài tập đọc thì lập thành một nhóm tập đọc thầm, đọc nhỏ cho nhau nghe. Chọn những HS đang khó khăn trong việc đọc, viết tổ chức thành những nhóm khác để GV hướng dẫn.

- Cắt bỏ hết động tác rườm rà, dành thời gian cho các hoạt động sát đúng mục tiêu.

- Không nóng vội. Dạy đọc, viết các âm, vần cho học sinh lớp 1 thời gian đầu khó khăn giống như tập cho người mới đi xe đạp giữ thăng bằng, khi đã giữ được thăng bằng thì sẽ đi được xe đạp. Đi được xe đạp rồi thì xe đạp nào cũng đi được mà không cần phải tập nhiều.

- Sau một thời gian dạy học, căn cứ vào tình hình thực tế để điều chỉnh kế hoạch dạy học và phân phối chương trình cho phù hợp hơn.

- Tổ chức sinh hoạt chuyên môn theo hướng nghiên cứu bài học (dựa trên phân tích các hoạt động học của học sinh) để nâng cao năng lực dạy học cho GV.

Chặng đường đầu của mọi sự đổi mới bao giờ cũng là hành trình gian nan, gặp nhiều khó khăn. Quản lý, GV các nhà trường chúng ta hãy can đảm nhìn vào sự thật, đổi mới tư duy, bình tĩnh, tự tin, không nóng vội. Dạy học bằng tình cảm và lòng yêu thương chắc chắn sẽ có kết quả như mong muốn.

VÀI NÉT KHÁI QUÁT VỀ MÔN TIẾNG VIỆT CẤP TIỂU HỌC THEO CHƯƠNG TRÌNH GDPT 2018

VÀI NÉT KHÁI QUÁT VỀ MÔN TIẾNG VIỆT CẤP TIỂU HỌC THEO CHƯƠNG TRÌNH GDPT 2018

Tài liệu đính kèm: Tải về

MÔN TIẾNG VIỆT LỚP 1 THEO CTGDPT 2018

I. VÀI NÉT KHÁI QUÁT VỀ MÔN TIẾNG VIỆT CẤP TIỂU HỌC THEO CHƯƠNG TRÌNH GDPT 2018

1. Mục tiêu

a) Giúp học sinh hình thành và phát triển những phẩm chất chủ yếu với các biểu hiện cụ thể: yêu thiên nhiên, gia đình, quê hương; có ý thức đối với cội nguồn; yêu thích cái đẹp, cái thiện và có cảm xúc lành mạnh; có hứng thú học tập, ham thích lao động; thật thà, ngay thẳng trong học tập và đời sống; có ý thức thực hiện trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, xã hội và môi trường xung quanh.

b) Giúp học sinh bước đầu hình thành các năng lực chung, phát triển năng lực ngôn ngữ ở tất cả các kĩ năng đọc, viết, nói và nghe với mức độ căn bản: đọc đúng, trôi chảy văn bản; hiểu được nội dung, thông tin chính của văn bản; liên hệ, so sánh ngoài văn bản; viết đúng chính tả, ngữ pháp; viết được một số câu, đoạn, bài văn ngắn (chủ yếu là bài văn kể và tả); phát biểu rõ ràng; nghe hiểu ý kiến người nói.

Phát triển năng lực văn học với yêu cầu phân biệt được thơ và truyện, biết cách đọc thơ và truyện; nhận biết được vẻ đẹp của ngôn từ nghệ thuật; có trí tưởng tượng, hiểu và biết xúc động trước cái đẹp, cái thiện của con người và thế giới xung quanh được thể hiện trong các văn bản văn học.

2. Yêu cầu cần đạt

* Yêu cầu cần đạt về phẩm chất chủ yếu và năng lực chung

Góp phần hình thành, phát triển ở học sinh những phẩm chất chủ yếu và năng lực chung theo các mức độ phù hợp với môn học, cấp học đã được quy định tại Chương trình tổng thể.

* Yêu cầu về năng lực đặc thù

a) Năng lực ngôn ngữ

Đọc đúng, trôi chảy và diễn cảm văn bản; hiểu được nội dung chính của văn bản, chủ yếu là nội dung tường minh; bước đầu hiểu được nội dung hàm ẩn như chủ đề, bài học rút ra từ văn bản đã đọc.

Ở cấp tiểu học, yêu cầu về đọc gồm yêu cầu về kĩ thuật đọc và kĩ năng đọc hiểu. Đối với học sinh các lớp đầu cấp (lớp 1, lớp 2), chú trọng cả yêu cầu đọc đúng với tốc độ phù hợp và đọc hiểu nội dung đơn giản của văn bản. Đối với học sinh lớp 3, lớp 4 và lớp 5, chú trọng nhiều hơn đến yêu cầu đọc hiểu nội dung cụ thể, hiểu chủ đề, hiểu bài học rút ra được từ văn bản.

Từ lớp 1 đến lớp 3, viết đúng chính tả, từ vựng, ngữ pháp; viết được một số câu, đoạn văn ngắn; ở lớp 4 và lớp 5 bước đầu viết được bài văn ngắn hoàn chỉnh, chủ yếu là bài văn kể, tả và bài giới thiệu đơn giản.

Viết được văn bản kể lại những câu chuyện đã đọc, những sự việc đã chứng kiến, tham gia, những câu chuyện do học sinh tưởng tượng; miêu tả những sự vật, hiện tượng quen thuộc; giới thiệu về những sự vật và hoạt động gần gũi với cuộc sống của học sinh. Viết đoạn văn nêu những cảm xúc, suy nghĩ của học sinh khi đọc một câu chuyện, bài thơ, khi chứng kiến một sự việc gợi cho học sinh nhiều cảm xúc; nêu ý kiến về một vấn đề đơn giản trong học tập và đời sống; viết một số kiểu văn bản như: bản tự thuật, tin nhắn, giấy mời, thời gian biểu, đơn từ,...; bước đầu biết viết theo quy trình; bài viết cần có đủ ba phần (mở bài, thân bài, kết bài).

Trình bày dễ hiểu các ý tưởng và cảm xúc; bước đầu biết sử dụng cử chỉ, điệu bộ thích hợp khi nói; kể lại được một cách rõ ràng câu chuyện đã đọc, đã nghe; biết chia sẻ, trao đổi những cảm xúc, thái độ, suy nghĩ của mình đối với những vấn đề được nói đến; biết thuyết minh về một đối tượng hay quy trình đơn giản.

Nghe hiểu với thái độ phù hợp và nắm được nội dung cơ bản; nhận biết được cảm xúc của người nói; biết cách phản hồi những gì đã nghe.

b) Năng lực văn học

Phân biệt văn bản truyện và thơ (đoạn, bài văn xuôi và đoạn, bài văn vần); nhận biết được nội dung văn bản và thái độ, tình cảm của người viết; bước đầu hiểu được tác dụng của một số yếu tố hình thức của văn bản văn học (ngôn từ, nhân vật, cốt truyện, vần thơ, so sánh, nhân hoá). Biết liên tưởng, tưởng tượng và diễn đạt có tính văn học trong viết và nói.

Đối với học sinh lớp 1 và lớp 2: nhận biết được văn bản nói về ai, về cái gì; nhận biết được nhân vật trong các câu chuyện, vần trong thơ; nhận biết được truyện và thơ.

Đối với học sinh lớp 3, lớp 4 và lớp 5: biết cách đọc diễn cảm văn bản văn học; kể lại, tóm tắt được nội dung chính của câu chuyện, bài thơ; nhận xét được các nhân vật, sự việc và thái độ, tình cảm của người viết trong văn bản; nhận biết được thời gian và địa điểm, một số kiểu vần thơ, nhịp thơ, từ ngữ, hình ảnh đẹp, độc đáo và tác dụng của các biện pháp tu từ nhân hoá, so sánh. Hiểu được ý nghĩa hoặc bài học rút ra từ văn bản. Viết được đoạn, bài văn kể chuyện, miêu tả thể hiện cảm xúc và khả năng liên tưởng, tưởng tượng.

3. Nội dung giáo dục

Nội dung dạy học được xác định dựa trên các yêu cầu cần đạt của mỗi lớp, gồm: hoạt động đọc, viết, nói và nghe; kiến thức (tiếng Việt, văn học); ngữ liệu.

* So sánh nội dung Chương trình môn Tiếng Việt mới với Chương trình môn Tiếng Việt hiện hành

- Giống nhau:

+ Đều có mục tiêu giao tiếp bằng tiếng Việt - hình thành kĩ năng đọc, viết, nói, nghe lên vị trí ưu tiên; cung cấp những kiến thức sơ giản về tiếng Việt và xã hội, tự nhiên, con người…

+ Đều được xây dựng dựa trên quan điểm tận dụng những kinh nghiệm sử dụng tiếng Việt của học sinh; đề cao vai trò tự chủ, tự học của học sinh.

+ Việc lựa chọn ngữ liệu hướng đến đảm bảo dạy tiếng Việt thông qua hoạt động giao tiếp.

+ Đề cao nguyên tắc tích hợp.

- Khác biệt:

+ Chương trình hiện hành: Phát triển theo định hướng tiếp cận nội dung. Kiến thức là nguyên liệu đầu vào, đồng thời cũng là chuẩn đầu ra của chương trình.

+ Chương trình mới: Chú trọng phát triển kĩ năng thực hành, năng lực, khả năng giao tiếp…(tác động trực tiếp đến lựa chọn ngữ liệu; quy định chi tiết hơn các mức độ đọc, viết, nói và nghe; chú trọng phát triển tư duy phản biện).

4. Phương pháp giáo dục

4.1. Định hướng

- Dạy học tích hợp và phân hóa.

- Đa dạng hóa các hình thức tổ chức, phương pháp và phương tiện dạy học.

- Sử dụng các phương pháp phát huy tính chủ động của học sinh.

4.2. Vận dụng phương pháp dạy học phù hợp với các bài học khác nhau:

* Với các kiểu bài đặc thù:

- Phương pháp dạy đọc;

- Phương pháp dạy viết;

- Phương pháp dạy nói và nghe.

5. Đánh giá kết quả giáo dục

5.1. Mục tiêu đánh giá

Nhằm cung cấp thông tin chính xác, kịp thời, có giá trị về mức độ đáp ứng yêu cầu cần đạt về phẩm chất, năng lực và những tiến bộ của học sinh trong suốt quá trình học tập môn học, để hướng dẫn hoạt động học tập, điều chỉnh các hoạt động dạy học, quản lí và phát triển chương trình, bảo đảm sự tiến bộ của từng học sinh và nâng cao chất lượng giáo dục.

5.2. Căn cứ đánh giá

Là các yêu cầu cần đạt về phẩm chất, năng lực đối với học sinh mỗi lớp học, cấp học đã quy định trong chương trình.

5.3. Nội dung đánh giá

Giáo viên đánh giá phẩm chất, năng lực chung, năng lực đặc thù và sự tiến bộ của học sinh thông qua các hoạt động đọc, viết, nói, nghe.

5.4. Cách thức đánh giá

Đánh giá thường xuyên và đánh giá định kì.

II. VÀI NÉT KHÁI QUÁT VỀ MÔN TIẾNG VIỆT LỚP 1 CHƯƠNG TRÌNH 2018

1. Những nét mới

1.1. Kỹ thuật đọc, kĩ thuật viết

- Trong kĩ thuật đọc, có thêm yêu cầu bước đầu biết đọc thầm, nhận biết bìa sách, tên sách.

- Về tập viết, không chỉ yêu cầu học sinh tô đúng chữ cái viết hoa cỡ chữ lớn và cỡ chữ vừa như chương trình hiện hành mà còn yêu cầu học sinh biết viết chữ hoa.

- Chính tả: có thêm hình thức nghe - viết.

1.2. Đọc hiểu

- Chương trình 2006 chỉ chú trọng đọc hiểu nội dung văn bản; chương trình 2018 đưa ra các yêu cầu đọc hiểu nội dung và đọc hiểu hình thức văn bản. Chú ý đến các yếu tố ngoài văn bản, đưa ra yêu cầu đọc liên hệ, so sánh, kết nối.

- Ngoài văn bản văn học, chú trọng đọc văn bản thông tin.

- Về hình thức văn bản, chương trình chú ý đến văn bản đa phương thức.

1.3. Viết câu, đoạn văn ngắn

Đây là yêu cầu hoàn toàn mới của chương trình môn Tiếng Việt lớp 1. Ở lớp 1, mới bước đầu yêu cầu học sinh viết một vài câu thuộc kiểu văn bản kể chuyện có nội dung phù hợp với câu chuyện đã đọc, đã nghe.

1.4. Nói và nghe

Chú trọng sự tương tác qua lại, tính chủ động của học sinh khi nghe - nói. Đã chỉ dẫn và đặt ra yêu cầu về thái độ và một vài quy tắc nghe, nói.

2. Yêu cầu cần đạt và nội dung cụ thể

Yêu cầu cần đạt

Nội dung

ĐỌC

KĨ THUẬT ĐỌC

- Ngồi (hoặc đứng) thẳng lưng; sách, vở mở rộng trên mặt bàn (hoặc trên hai tay). Giữ khoảng cách giữa mắt với sách, vở khoảng 25cm.

- Đọc đúng âm, vần, tiếng, từ, câu (có thể đọc chưa thật đúng một số tiếng có vần khó, ít dùng).

- Đọc đúng và rõ ràng đoạn văn hoặc văn bản ngắn. Tốc độ đọc khoảng 40 - 60 tiếng trong 1 phút. Biết ngắt hơi ở chỗ có dấu phẩy, dấu kết thúc câu hay ở chỗ kết thúc dòng thơ.

- Bước đầu biết đọc thầm.

- Nhận biết được bìa sách và tên sách.

ĐỌC HIỂU

Văn bản văn học

Đọc hiểu nội dung

- Hỏi và trả lời được những câu hỏi đơn giản liên quan đến các chi tiết được thể hiện tường minh.

- Trả lời được các câu hỏi đơn giản về nội dung cơ bản của văn bản dựa vào gợi ý, hỗ trợ.

Đọc hiểu hình thức

- Nhận biết được hình dáng, hành động của nhân vật thể hiện qua một số từ ngữ trong câu chuyện dựa vào gợi ý của giáo viên.

- Nhận biết được lời nhân vật trong truyện dựa vào gợi ý của giáo viên.

Liên hệ, so sánh, kết nối

- Liên hệ được tranh minh hoạ với các chi tiết trong văn bản.

- Nêu được nhân vật yêu thích nhất và bước đầu biết giải thích vì sao.

Đọc mở rộng

- Trong 1 năm học, đọc tối thiểu 10 văn bản văn học có thể loại và độ dài tương đương với các văn bản đã học.

- Thuộc lòng 4 - 5 đoạn thơ hoặc bài thơ đã học, mỗi đoạn thơ, bài thơ có độ dài khoảng 30 - 40 chữ.

Văn bản thông tin

Đọc hiểu nội dung

- Hỏi và trả lời được những câu hỏi đơn giản về các chi tiết nổi bật trong văn bản.

- Trả lời được câu hỏi: “Văn bản này viết về điều gì?” với sự gợi ý, hỗ trợ.

Đọc hiểu hình thức

- Nhận biết được trình tự của các sự việc trong văn bản.

- Hiểu nghĩa của một số tín hiệu đơn giản, gần gũi với học sinh.

Đọc mở rộng

Trong 1 năm học, đọc tối thiểu 5 văn bản thông tin có kiểu văn bản và độ dài tương đương với các văn bản đã học.

KIẾN THỨC TIẾNG VIỆT

1.1. Âm, vần, thanh; chữ và dấu thanh

1.2. Quy tắc chính tả phân biệt: c và k, g và gh, ng và ngh

1.3. Quy tắc viết hoa: viết hoa chữ cái đầu câu, viết hoa tên riêng

2. Vốn từ theo chủ điểm: Từ chỉ sự vật, hoạt động, đặc điểm gần gũi

3. Công dụng của dấu chấm, dấu chấm hỏi: đánh dấu kết thúc câu

4.1. Từ xưng hô thông dụng khi giao tiếp ở nhà và ở trường

4.2. Một số nghi thức giao tiếp thông dụng ở nhà và ở trường: chào hỏi, giới thiệu, cảm ơn, xin lỗi, xin phép

5. Thông tin bằng hình ảnh (phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ)

KIẾN THỨC VĂN HỌC

1. Câu chuyện, bài thơ

2. Nhân vật trong truyện

NGỮ LIỆU

1.1. Văn bản văn học

- Cổ tích, ngụ ngôn, truyện ngắn, truyện tranh, đoạn văn miêu tả

- Đoạn thơ, bài thơ (gồm cả đồng dao) Độ dài của văn bản: truyện và đoạn văn miêu tả khoảng 90 - 130 chữ, thơ khoảng 50 - 70 chữ

1.2. Văn bản thông tin: giới thiệu những sự vật, sự việc gần gũi với học sinh

Độ dài của văn bản: khoảng 90 chữ

2. Gợi ý chọn văn bản: xem danh mục gợi ý

3. Các từ ngữ có ý nghĩa tích cực, phù hợp với học sinh lớp 1

VIẾT

KĨ THUẬT VIẾT

- Biết ngồi viết đúng tư thế: ngồi thẳng lưng; hai chân đặt vuông góc với mặt đất; một tay úp đặt lên góc vở, một tay cầm bút; không tì ngực vào mép bàn; khoảng cách giữa mắt và vở khoảng 25cm; cầm bút bằng ba ngón tay (ngón cái, ngón trỏ, ngón giữa).

- Viết đúng chữ viết thường, chữ số (từ 0 đến 9); biết viết chữ hoa.

- Đặt dấu thanh đúng vị trí. Viết đúng quy tắc các tiếng mở đầu bằng các chữ c, k, g, gh, ng, ngh.

- Viết đúng chính tả đoạn thơ, đoạn văn có độ dài khoảng 30 - 35 chữ theo các hình thức nhìn - viết (tập chép), nghe - viết. Tốc độ viết khoảng 30 - 35 chữ trong 15 phút.

VIẾT CÂU, ĐOẠN VĂN NGẮN

Quy trình viết

Bước đầu trả lời được những câu hỏi như: Viết về ai? Viết về cái gì, việc gì?

Thực hành viết

- Điền được phần thông tin còn trống, viết được câu trả lời, viết câu dưới tranh phù hợp với nội dung câu chuyện đã đọc hoặc đã nghe.

- Điền được vào phần thông tin còn trống, viết câu nói về hình dáng hoặc hoạt động của nhân vật dưới tranh trong câu chuyện đã học dựa trên gợi ý.

- Điền được phần thông tin còn trống, viết câu trả lời hoặc viết lại câu đã nói để giới thiệu bản thân dựa trên gợi ý.

NÓI VÀ NGHE

Nói

- Nói rõ ràng, thành câu. Biết nhìn vào người nghe khi nói.

- Đặt được câu hỏi đơn giản và trả lời đúng vào nội dung câu hỏi.

- Nói và đáp lại được lời chào hỏi, xin phép, cảm ơn, xin lỗi, phù hợp với đối tượng người nghe.

- Biết giới thiệu ngắn về bản thân, gia đình, đồ vật yêu thích dựa trên gợi ý.

- Kể lại được một đoạn hoặc cả câu chuyện đơn giản đã đọc, xem hoặc nghe (dựa vào các tranh minh hoạ và lời gợi ý dưới tranh).

Nghe

- Có thói quen và thái độ chú ý nghe người khác nói (nhìn vào người nói, có tư thế nghe phù hợp). Đặt một vài câu hỏi để hỏi lại những điều chưa rõ.

- Nghe hiểu các thông báo, hướng dẫn, yêu cầu, nội quy trong lớp học.

- Nghe một câu chuyện và trả lời được các câu hỏi: Ai? Cái gì? Khi nào? Ở đâu?

Nói nghe tương tác

- Biết đưa tay xin phát biểu, chờ đến lượt được phát biểu.

- Biết trao đổi trong nhóm để chia sẻ những ý nghĩ và thông tin đơn giản

3. Phương pháp dạy học

a) Tuân thủ phương pháp và định hướng đổi mới phương pháp dạy học nói chung, dạy môn Tiếng Việt nói riêng.

b) Ở từng kiểu bài học, cần có những phương pháp đặc thù.

c) Kết hợp giữa làm mẫu với học cá nhân và hoạt động nhóm.

d) Chú ý khuyến khích sự tương tác.

đ) Chú ý có hoạt động, câu hỏi riêng khi dạy học phân hóa.